Tháng 7, 2011
Thưa các Anh Chị, Đầu tháng 7 vừa qua
tôi (và gia đình) đi chơi ở Singapore một tuần nhân con chúng tôi
nghĩ hè. Đây là lần đến thăm Singapore sau hơn 10 năm. Chúng tôi
được gặp các anh Vũ Minh Khương và Giáp Văn Dương tại nhà riêng
trong một buổi cơm tối và trò chuyện thân mật. Những ngày còn lại cả
gia đình đi “ta bà” để tham quan, đi đến rã cả chân. Singapore không
mất đi vẻ thu hút mãnh liệt đối với tôi. Tôi xin ghi lại vài ấn
tượng và suy nghĩ hời hợt gửi đến Anh Chị, và cũng như từ góc độ
Singapore tìm hiểu xem tại sao TQ như thế mà VN không như thế, câu
hỏi quan trọng mà các Anh Chị trên diễn đàn Humboldt đang thảo luận.
(I) Chắc nhiều Anh Chị
ít nhiều đã đến Singapore. Một người bạn tôi từ Canada bảo những năm
đầu 80 anh ấy đến Singapore vì công việc, mỗi lần đến đó thì tâm hồn
“tan nát” khi nghĩ đến hoàn cảnh Việt Nam. Singapore chỉ cách Sài
gòn 1.45 giờ bay, giống như Hà nội. Thế mà sao sự khác biệt lại kinh
khủng thế? Ai xây thành phố
nhà nước này? Singapore có nhiều chủng tộc chủ yếu Hoa, Malaysia và Ấn.
Nhưng cả thành phố không hề có vẻ châu Á chút nào, mà nó “Tây” một
trăm phần trăm, trừ những khu Tàu, khu Ấn nhỏ truyền thống vẫn còn
tiếp tục hoạt động. Cái cảm giá đầu
tiên là đường phố rất rộng, mật độ đường phố rất lớn, trong khi diện
tích của đảo quốc rất nhỏ, chỉ 694km2, xe cộ chạy liên
tục không kẹt lúc nào (có lẽ cũng kẹt đôi chút vào những giờ cao
điểm), rất thông thoáng, không hề nghe tiếng còi xe inh tai như ở
VN. Trong khi đó TP HCM có diện tích 2,095 km2 gấp hơn 3
lần Singapore, đường sá lại rất chật hẹp, mật độ đường lại quá nhỏ.
Ô tô ở Singapore chạy vù vù như mắc cưởi, giống như trong roller
coaster, rất nhanh, đến 80 miles/ giờ trong trung tâm, 100 miles
ngoài trung tâm. Ai chưa quen tốc độ sẽ sợ hãi; nhưng một hồi rồi
thấy mọi người đều lái rất đúng luật, chính xác và an toàn. Hệ thống
đường giao thông của Singapore là 3D, trong khi hệ thống đường giao
thông ở VN chỉ là 2D, hay bị tắc nghẽn nặng nề vào những giờ cao
điểm. Tôi cho ai thiết kế hệ thống đường giao thông của Singapore là
rất thông minh, và không phải dễ thiết kế được hệ thống đường sá như
thế. Hệ thống đường giao thông giống như hệ thống các mạch máu chằng
chịt lan tỏa khắp nơi để đưa máu nhanh chóng đến tất các bộ phận cơ
thể. Chưa nói đến hệ thống tàu điện ngầm MRT, hệ thống xe búyt của
Singapore rất hữu dụng. Không có một hệ thống giao thông thông
minh như thế, thì không thể có được thành phố hiện đại, trung tâm
tài chính, thương mại. So với cơ sở hạ tầng của Singapore, thì
cơ sở hạ tầng của Việt Nam quả là còn primitive.
Cảm giác thứ hai
là toàn bộ thành phố đều được phủ xanh một cách rất thông minh và
khoa học. Không có một tấc đất nào của Singapore mà không có sự chăm
sóc của bàn tay con người; không có khái niệm “đất hoang” ở đây. Họ
có rất nhiều chủng loại cây thích hợp cho thành phố, và họ trồng cây
xanh nhiều tầng như rừng nhiệt đới, tạo nên mảng thiên nhiên dầy đặc
khắp nơi. Cây đẹp, tàn to tạo bóng mát, nhưng không quá cao gây nguy
hiểm như các loại cây sao Pháp đã trồng lâu đời ở VN. Người ta có
ngay cảm tưởng dễ chịu khi ra khỏi phi trường, rằng mình đang sống
trong thành phố công viên tươi mát có bàn tay thiết kế và chăm bón
tuyệt diệu của con người. Phần lớn các nước châu Á không để ý đến
cây xanh.
Lý Quang Diệu (Lee
Kwan-Yew, sinh ngày 16/09/1923) ngay từ đầu đã có kế hoạch làm xanh cả đất
nước như một chương trình lớn. Ông mời chuyên gia cây cỏ nước ngoài
đến nghiên cứu thổ nhưỡng và biện pháp, gửi người đi tìm khắp những
nơi có khí hậu gần giống Singapore để mang về những giống cây làm
giàu cho thảm thực vật họ. 8000 giống lạ được mang về Singapore và
2000 trong đó đã sống được. Singapore cũng giải quyết vấn đề ô nhiễm
không khí rất tốt. Công viên chim, Bird Park, rất ấn tượng, được đặt
ngay bên cạnh trung tâm công nghiệp lớn Jurong, nếu không xử lý khí
thải thì mấy con chim kia chắc sẽ không sống được lâu. Cuộc xanh hóa của
Singapore đã được lãnh đạo các nước lân bang “bắt chước”: Mahathir
xanh hóa Kuala Lumpur, Suharto Jakarta, Marcos Manila, Thanin
Bangkok, tất cả vào những năm cuối 70. Các công trình văn
hóa ấn tượng của Singapore không chỉ là dành cho du khách để kiếm
tiền, mà còn để giáo dục con người Singapore. Chẳng hạn như những
công trình Công viên chim, Sở thú, Safari đêm, Vườn Bách thảo, Trung
tâm khoa học (Science Center), Lịch sử Singapore (Images of
Singapore, một công trình rất ấn tượng tại khu vui chơi Sentosa) đều
có tính giáo dục rất cao…. Học sinh và thầy cô VN muốn học hỏi về
khoa học, cây cỏ, sinh vật, lịch sử chỉ có nước qua Singapore, chứ
không nơi nào ở VN có những công trình giáo dục cụ thể và qui mô như
thế. Đó là những công trình ấn tượng mà du khách có thể tham quan cả
ngày, cả tuần. Thật thấy thương học sinh VN. Vì sao với một
đảo quốc nhỏ, khi tách khỏi Malaysia vào năm 1965 chỉ có 2 triệu dân
(và hiện nay khoảng 3.2 dân, cộng với người nước ngoài đến làm việc
là 5.1 triệu), mà Ông Lý Quang Diệu đã làm nên lịch sử? Thời thế tạo
anh hùng, hay anh hùng tạo thời thế? Tại sao trong khoảng 2 thập kỷ
thôi, Ông LQD đã thay đổi hẳn những tật xấu cổ truyền của các dân
tộc sống trên đó như khạc nhổ, xả rác, gây tiếng ồn, tính thô bạo
trong cư xử, làm ăn gian dối… để biến họ thành những người văn minh,
đối xử ân cần và lịch sự với nhau? Ông đã từng bước dẹp nạn taxi dù
và tệ bán hàng rong trên hè phố, đặc biệt trước các cổng trường, tệ
dắt bò đi ăn vào thành phố gây tai nạn chết người, tệ đốt pháo vào
ngày tết cổ truyền TQ gây thiệt hại về con người và tài sản. Xây
dựng cơ sở hạ tầng thành phố mới dễ hơn nhiều thay đổi thói quen cố
hữu của người dân. Nhưng ông đã khôn ngoan làm được. LQD kể lại tệ khạc
nhổ của người TQ. Đó là trong chuyến thăm TQ đầu tiên của ông tại
Đại sảnh đường nhân dân (Great Hall of the People) năm 1976 tại Bắc
Kinh, ông nhận thấy có các ống nhổ được đặt tại các phòng họp nơi
tiếp ông. Một số vị lãnh đạo đã sử dụng các ống nhổ này. Khi Đặng
Tiểu Bình đến thăm Singapore năm 1978, phía Singapore đặt một ống
nhổ màu trắng xanh thời nhà Minh cạnh ghế ông trong phòng họp cho
ông sử dụng. Nhưng ông không sử dụng, có lẽ ông đã nhận ra rằng
người Hoa ở Singapore đã không còn khạc nhổ nữa. Đến lần thăm tiếp
của ông tại Bắc Kinh năm 1980, tức bốn năm sau, ông không còn thấy
các ống nhổ đặt tại các phòng họp nữa. Vài năm sau ông tiếp một
chính khách khác của TQ đặc trách kinh tế tại Singapore, LQD nhắc
lại việc các lãnh đạo TQ không còn sử dụng ống nhổ nữa như một điều
tốt. Nhưng vị khách này tiết lộ với ông, đó chỉ là hình thức thôi,
chứ các vị lãnh đạo vẫn còn tiếp tục sử dụng ống nhổ trong phòng làm
việc của họ! Singapore vừa là
trung tâm tài chánh, vừa là một điểm du lịch hấp dẫn (chưa nói đến
các chức năng khác như giáo dục, công nghệ, cảng trung chuyển vùng).
Người ta chờ đợi Singapore sắp tới sẽ trở thành trung tâm quản lý
tài chánh lớn nhất thế giới vượt cả Thụy Sĩ. Với số dân khiêm tốn
3.2 triệu dân, Singapore có đến gần 12 triệu khách du lịch, gấp 4
lần số khách du lịch đến VN (Việt Nam dân số trên 85 triệu, có số
khách du lịch chỉ khoảng 3 triệu). Người ta bảo rằng 4 (hay 5) người
khách du lịch đủ nuôi sống 1 người Singapore.
Khách sạn mới xây
Marina Bay Sands, có kiến trúc chiếc tàu ở phía trên,
giống như
stonehenge
ở
Anh. Vé đi lên chiếc tàu
này là S$20/ người chỉ để ngắm cảnh thôi! Giá ngủ một đêm ở đây
khỏang 1.000 USD.
Ngay từ đầu lập
quốc, Ông Lý Quang Diệu đã quyết tâm làm cho Singapore khác biệt
các nước thế giới thứ ba một cách triệt để và nhanh chóng, và có
tham vọng phải tiến lên thế giới thứ nhất. “Một nhánh của chiến lược
tôi là biến Singapore thành một oasis của Đông Nam Á, bởi vì
nếu chúng ta có các tiêu chuẩn của thế giới thứ nhất, thì
doanh nhân và khách du lịch sẽ sử dụng đất nước chúng ta thành một
bàn đạp cho hoạt động kinh doanh và các tour du lịch trong khu vực.”
Tiếp đến là phải thay đổi hẳn thói quen cổ truyền cản trở của hai
triệu dân, thông qua giáo dục họ, giáo dục con cái họ trong nhà
trường để có tác dụng lên cha mẹ, và thông qua luật pháp. Để đạt
được First World standards trong một vùng của thế giới thứ ba, LQD
quyết định biến đất nước thành một thành phố-vườn-nhiệt đới, và phải
làm cho nó “sạch và xanh” theo đúng nghĩa. Với xanh và sạch,
Singapore đã nhanh chóng gây được ấn tượng tốt mạnh mẽ cho thế giới.
Không những giữ cho cảnh quang xanh, sạch, mà ông còn giữ cho chính
quyền Singapore trong sạch. Trong cái bể của tham nhũng nẳng nề của
châu Á thì Singapore nổi lên như một hòn đảo ít tham nhũng nhất,
sạch nhất.
Singapore lại thể
hiện một lần nữa tinh thần “thoát Á nhập Âu” mà Nhật Bản thời Minh
Trị đã đi tiên phong. Việc chuyển đổi một đất nước từ thế giới thứ
ba sang đất nước có tiêu chuẩn thế giới thứ nhất là không dễ. Những
ý tưởng của LQD lúc đầu bị xem là không tưởng. Các phóng viên
nước ngoài cười chế nhạo những chiến dịch “làm tốt” của Singapore.
Nhưng LQD tin rằng “chúng ta sẽ là những người cười sau cùng. Chúng
ta sẽ phải cam chịu trở thành một xã hội thô tục hơn, khiếm nhã hơn,
thô bạo hơn nếu chúng ta không làm những nỗ lực này để thay đổi cách
sống. Chúng ta chưa đạt tới mức một xã hội có giáo dục và văn minh,
và chúng ta không xấu hổ ra sức trở thành một dân tộc như thế trong
một thời gian ngắn nhất có thể.”
(II) Bây giờ đến câu
hỏi: Vì sao TQ làm được những kỳ tích mà VN thì không? Thực tế,
cuộc thăm viếng lần đầu tiên năm 1978 của Đặng Tiểu Bình tại
Singapore là cái mốc lịch sử hết sức quan trọng cho cuộc chuyển đổi
TQ. Ông đã tận mắt nhìn những thành quả ấn tượng của mấy triệu dân
Singapore cần cù, thông minh này và đã hết lời khen ngợi ông LQD.
Cuối chuyến đi, ĐTB nói: “Phải chi tôi chỉ có Thượng Hải thôi (dân
số gấp ba hay bốn lần dân số Singapore), thì tôi sẽ có thể biến đổi
nó nhanh chóng (như ông đã biến đổi Singapore). Nhưng tôi có cả một
đất nước Trung Hoa!” Trong chuyến đi
này ĐTB đã nghe LQD “giảng bài” về lợi hại của chủ nghĩa: “Chủ nghĩa
CS chỉ thành công nếu ông tin rằng tất cả mọi người hy sinh mình cho
đồng loại chứ không cho gia đình hay chính bản thân mình. Còn tôi,
tôi hoạt động trên cơ sở rằng con người, trai cũng như gái, trước
nhất lao động cho chính bản thân và gia đìng họ, và chỉ trên cơ sở
đó họ mới chia sẻ một phần thành quả lao động của họ cho những người
đồng loại ít may mắn hơn. Đấy là nên tảng hoạt động của tôi.” Ông Lý
cho rằng các nhà lãnh đạo kỳ cựu của cuộc Trường Chinh của TQ không
hiểu gì cả về kinh tế thị trường cả, tuy cũng có thể đã đọc Adam
Smith. Lý Quang Diệu
nói: “Nếu Đặng Tiểu Bình không đến đây (trong những năm 70) và thấy
các tập đoàn đa quốc gia phương Tây tại Singapore tạo ra sự phồn
vinh cho chúng tôi, đào tạo người của chúng tôi để rồi chúng tôi có
khả năng xây dựng một xã hội phồn vinh, thì ông ấy sẽ không bao giờ
(dám) mở cửa…mở cửa các Đặc khu kinh tế miền ven biển, điều cuối
cùng dẫn đến việc cả nước Trung Hoa mở cửa và đi vào WTO.” Sự thành
công của Singapore là thí dụ “bảo chứng” cho quyết định mở cửa của
ĐTB. Ảnh hưởng của
Singapore và của cá nhân ông Lý Quang Diệu lên các nhà lãnh đạo làm
chính sách của TQ là rất to lớn chưa thể đánh giá hết được. Thực tế,
các TP mới của TQ là hình ảnh “cảm ứng” của mô hình Singapore của
LQD, dĩ nhiên theo cách làm riêng của TQ. Hạt giống Singapore đã
được đem về trồng trên đất TQ. Singapore giúp đào tạo cán bộ, chuyên
viên cao cho TQ trong cuộc chuyển đổi này. Hằng năm TQ gửi 110 – 120
thị trưởng, hay các viên chức cùng cấp, từ các thành phố của họ đến
học tập một khóa từ tám đến chín tháng về quản lý công và quản lý
thành thị. Họ được dạy bằng ngay tiếng Hoa. Còn gì hay bằng! Sau đó
họ đi thực địa và nghiên cứu tại chỗ, và khi về nước, họ viết lại
những kinh nghiệm học tập tại Singapore. Singapore cũng có những
liên doanh xây dựng một số thành phố kiểu mẫu, trong đó có thành phố
sinh thái Thiên tân. Hai bên có một ủy ban hỗn hợp họp thường niên,
cấp phó thủ tướng. Kể ra những chi
tiết trên là để minh họa phần nào sự dấn thân của Singapore và Ông
LQD vào TQ thế nào để giúp lãnh đạo TQ thực hiện quá trình chuyển
đổi kinh tế và xây dựng đất nước. Lý Quang Diệu được xem là Tutor
cho giới lãnh đạo TQ, và có quan hệ rất mật thiết, hiểu biết TQ rất
sâu sắc. Nhiều Tổng Thống Mỹ đã gặp LQD trước, để nghe ý kiến của
ông về TQ, rồi mới đến thăm TQ sau. Đối với TQ, sự hợp tác với
Singapore là mưu đem lại lòng tin đối với thế giới cho công
cuộc đổi mới của TQ. Còn đối với Singapore, ông LQD giúp TQ là nhắm
có được một chân trên chuyến xe tốc hành TQ vào thế kỷ 21 mà ông bảo
sẽ là thế kỷ TQ. Và ông đã thú nhận đã đạt được điều đó. Thế còn
chân thứ hai của Singapore ông để ở đâu? Ở Hoa Kỳ: “Số phận của
chúng tôi không chỉ tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Johor hay
Indonesia hay ở ASEAN. Nó tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Mỹ trong
trật tự mới ngày hôm nay này.” Đi một mình với TQ ông sợ có ngày bị
cọp ăn thịt mất. Còn về cách tuyển
chọn nhân sự ở TQ, ông LQD nhận xét rằng, sau cuộc cách mạng văn
hóa, Đảng CS TQ trở lại mô hình tuyển dụng của vua chúa thuở xưa:
chọn lựa qua tài năng, qua học lực, sát hạch. Mỗi thí sinh đều có hồ
sơ học lực từ đầu. Và sự xét duyệt để bổ nhiệm dựa trên hồ sơ đó.
Cho nên thế hệ lãnh đạo sau đều được học cao hơn thế hệ trước. Bây
giờ có cả những thị trưởng có bằng Ph.D, và một số trong họ có bằng
MBA của các trường đại học Mỹ. TQ làm được những
kỳ tích là vì lực lượng của Đặng Tiểu Bình là lực lượng đổi mới,
sau khi Mao qua đời và “bọn bốn người” bị xử, lực lượng mao-ít đã
cáo chung. Các nhà lãnh đạo mới của TQ muốn đoạn tuyệt với quá khứ
của cách mạng văn hóa đã gây quá nhiều đau khổ. Đặng là người đã dám
đoạn tuyệt với chủ nghĩa CS, theo lời LQD; và đó chính là một bước
đại nhảy vọt của lãnh đạo TQ về mặt tư tưởng. Họ có kỳ vọng
đưa đất nước tiến lên khỏi sự lạc hậu để thiết lập lại đẳng cấp của
dân tộc đã bị mất đi hàng thế kỷ. Đằng sau họ là đống tro tàn không
có gì để luyến tiếc. Trong kế hoạch đổi mới, TQ có Singapore làm mô
hình để học hỏi cụ thể, và có Lý Quang Diệu làm người hướng đạo bên
cạnh cho cuộc hành trình. Còn Việt Nam, đặc
thù tình hình đã khiến không có một lực lượng đổi mới rõ ràng nào
cả. Những người cũ hôm qua tiến hành cuộc đổi mới hôm nay. Không có
một sự đoạn tuyệt về tư tưởng và một sự ‘thay ca’ về nhân sự như ở
TQ; quá khứ cứ mãi là ‘thiêng liêng’ và trở thành ‘điệp khúc chính
trị’ thay cho nhận thức mới trong thời kỳ cần thiết có những thay
đổi sâu sắc và triệt để; thiếu vắng ý chí vươn lên thật mạnh mẽ để
mở đường. Cho nên đổi mới là không triệt để, nếu không muốn nói là
nửa vời. Đổi mới ở Việt Nam không vì đổi mới nhằm ‘lột xác’ thực sự
để đóng lại chương cũ của quá khứ và mở ra một chương mới trước tình
hình mới của thế giới. Mà Đổi mới của Việt Nam nhằm bảo vệ cái cũ
nhiều hơn. Các nhà lãnh đạo VN có thể học ở Singapore, có thể được
Lý Quang Diệu giúp đỡ nhiều hơn, nhưng họ không có động cơ mạnh mẽ,
vẫn còn nhìn lại phía sau để luyến tiếc. Họ không học mô hình
Singapore ở ngay trước mắt và kho tàng tri thức của Lý Quang Diệu
như lãnh đạo TQ đã làm. LQD cho rằng, những người lãnh đạo Việt Nam
có thói quen cố hữu của ‘chiến tranh du kích’, không ai nghe ai,
không tập trung, chính quy, thiếu một lãnh đạo mạnh, và họ rất nghi
ngờ người nước ngoài. TT Phạm Văn Đồng, do thời cuộc bấy giờ, chưa
phải là người cầu thị, ông đến Singapore sau 1975 với tư thế của
người chiến thắng và người cộng sản tự hào, ông chưa thấy cái to lớn
của Singapore và nhu cầu học hỏi, cái lạc hậu của khối xã hội chủ
nghĩa, ông vẫn còn ảo tưởng về Chủ nghĩa xã hội trước khi đất nước
rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sắp đến. Cuộc gặp gở đó không
để lại những ấn tượng đẹp ở Lý Quang Diệu, như cuộc gặp gở với Đặng
Tiểu Bình đã làm, chưa nói làm mích lòng chủ nhà là khác. Phải đợi
mười năm sau, khi VN bị cô lập, khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng,
TT Võ Văn Kiệt mới là người đến với LQD với tư thế thật sự cầu thị.
Và cũng chỉ lúc đó ông LQD mới có cảm tình với lãnh đạo VN. TBT Đổ
Mười, tuy không phải là người hăm hở đổi mới, nhưng cũng đã có ý
muốn áp dụng một số ý tưởng của mô hình Singapore nhưng rồi người ta
bàn bạc cho nó tan biến đi; chính ông đã cho dịch các bài phát biểu
của LQD và phổ biến đầu tiên tại VN. Người Singapore và nước ngoài
vào làm ăn gặp phải những khó khăn không đáng có. Việt Nam không
muốn học hỏi cái mới thật sự, mà chỉ muốn tự biên tự diễn và
tự hào về mình là chính, loại bỏ tất cả những gì mình không ưa, bị
giới hạn trong tầm nhìn, khác với tinh thần đổi mới, cầu thị và sự
nhìn xa của TQ. Thái độ đó tự hại mình, tự che mắt mình, giống như
thái độ tự cao tự đại của vua quan VN xưa khi nhìn người nước ngoài
đến muốn làm ăn với VN. Cái đuôi sam kia vẫn chưa bị xén, và vẫn cứ
mọc dài ra vào thế kỷ 21 này. Chính sách tuyển chọn nhân sự của VN
cũng không dựa trên tài năng, học lực, mà chỉ dựa trên quan hệ, vây
cánh, ‘tính truyền thống’, óc vâng lệnh phục tùng để chìu lòng cấp
trên, và cấp trên chỉ muốn nghe những gì mình thích từ cấp dưới, hay
dựa trên sự ‘mua quan bán chức’. Trong khi phần lớn các thị trưởng,
tỉnh trưởng ở TQ đều là những người trẻ tuổi, học hết cấp ba, thì ở
VN giới này là những người cầm quân trước đây trong quân đội. Ông
LQD đề nghị với TT Kiệt và bộ sậu của ông là nên bổ nhiệm các chiến
sĩ lão thành vào các chức vụ tư vấn và đưa những người trẻ, nhất là
những người trẻ có khuynh hướng mở cửa kinh tế sang phương Tây lên
đảm trách công việc hàng ngày. Ông LQD cho rằng, VN cần cởi bỏ
‘chiếc áo chật cộng sản’, thì họ mới tiến nhanh và linh động đến
thắng lợi. LQD nhìn thấy tiềm năng của người VN qua cuộc chiến tranh
gian khổ, và sự thành đạt của Việt Kiều ở Mỹ và Pháp, đó phải là
những điều nhắc nhở rằng dân tộc này là dân tộc có những phẩm chất
tuyệt vời. Không có quyết tâm
đổi mới để đưa đất nước nhanh chóng hóa rồng thì cũng sẽ không có
chính sách nhân sự đúng đắn, trong sáng và phù hợp với nhu cầu. Nhân
tài bị bốc hơi, bị loại khỏi sân chơi và không được lắng nghe. Ngựa
giỏi đã hết trong chuồng. Người TQ đã xóa
được những hậu quả của cuộc cách mạng văn hóa, của bức tranh mà Mao
Trạch Đông đã muốn vẽ áp đặt lên lịch sử 5.000 năm của Trung Hoa,
phục hồi lại DNA của dân tộc. Còn Việt Nam, chẳng biết DNA bốn nghìn
năm văn hiến có còn nguyên vẹn hay không trước sự băng hoại nghiêm
trọng và kéo dài hiện nay của xã hội?
(III) Sau cùng tôi xin
nói thêm đôi lời về Lý Quang Diệu. Ông là một con người không phải
không có tranh cãi. Nhiều người dân chủ không chia sẻ một số quan
điểm của ông. Ông xem cuộc xây dựng Singapore là một “cuộc cách mạng
xã hội bằng những biện pháp hoà bình”, và không bao giờ đi chệch
khỏi mục tiêu đó. Ông tự nhận mình là người theo Khổng giáo: “Tôi
không bị ràng buộc bởi lý thuyết, nhưng sự giáo dục của tôi trong
một gia đình kéo dài ba thế hệ làm cho tôi trở thành một người theo
Khổng giáo không ý thức. Niềm tin Khổng giáo thâm nhập vào tôi, rằng
xã hội chỉ hoạt động tốt khi mọi người đều nhắm trở thành người quân
tử.” Ông tin vào đạo ‘ngũ thường’ của Khổng tử. Từ thế giới quan
này, ông đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, đặt nặng
vai trò của một nhà nước mạnh và ưu việt để gìn giữ trật tự. Nhưng
thành quả mới là sự biện minh cho nhà nước đó. Người ta có thể biện
minh sự kiểm soát tối đa của nhà nước và sự loại bỏ đa nguyên chính
trị cần thiết, vì ổn định và phát triển. Nhưng rồi người ta phải
chứng minh bằng thành quả của hành động. Không có thành quả tương
ứng, anh chỉ là kẻ tham quyền vô độ. Nếu quyền lực chỉ vì quyền lực,
đất nước dễ rơi vào chủ nghĩa ích kỷ, bè phái, tham nhũng và lũng
đoạn. LQD không xem mình là ‘soft authoritarian’ như một số người ở
phương Tây xem ông, bởi vì ông có kết quả để biện minh, và kết quả
là rất thuyết phục; và các chính sách của ông cứ bốn đến năm đều
được cử tri chấp thuận lại với một đa số không dưới 60 phần trăm.
Với quan niệm Khổng giáo, ông đặt nặng trách nhiệm của những người
lãnh đạo: “Chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta, những tinh hoa
được giáo dục theo hệ thống giáo dục Anh, chỉ xứng đáng với vị trí
chúng ta bao lâu chúng ta có năng lực phục vụ xã hội.” Trước khi rời
đại học Frizwilliam, Cambridge, Anh, nơi ông đã học 4 năm ngành luật
và đã tốt nghiệp với hạng Double Starred
First Class Honours
để trở lại Singapore hoạt động, LQD trong một bài diễn văn đã
khẳng định quyết tâm sắt đá của mình: “Chúng ta phải đạp đổ niềm tin
rằng chúng ta là thấp kém và sẽ luôn mãi thấp kém so với người châu
Âu.” Ông đã học được sự sống chung hoà bình của các chủng tộc khác
nhau từ không quốc gia nào khác hơn là Thụy Sĩ để làm mô hình sống
chung cho các sắc tộc của Singapore sau này. Ông tự ý thức việc
làm phục vụ cho sự nghiệp của nhân dân Singapore mặc cho những lời
chỉ trích: “Điều mà giới đọc giả thế giới phương tây không hiểu là
cuối cùng tôi không quan tâm họ đánh giá tôi thế nào. Tôi chỉ quan
tâm nhân dân mà tôi lãnh đạo đánh giá tôi thế nào.” Triều đại LQD có
thể cũng sẽ không vĩnh viễn. Ông nói: “Mỗi
hệ thống cần được xét lại theo thời gian. Không hệ thống nào tồn tại
vĩnh viễn. Các điều kiện thay đổi, những thiếu sót trong hệ thống
phát triển quá mức, lúc đó người ta cần phải xem xét lại. Anh không
thể nói đó là một nguyên lý phổ quát có giá trị vĩnh cửu.” và
“Đó là nhiệm vụ của thế hệ hiện tại và tương lai của giai tầng lãnh
đạo có nhiệm vụ thay đổi và tu chỉnh hệ thống khi xã hội và công
nghệ thay đổi.” Dù sao LQD
cũng sẽ đi vào lịch sử như một “người cha lập quốc” bất tử của
Singapore. Ông không tin vào
Thượng đế, mà tin vào thuyết tiến hóa của Darwin. Singapore có lẽ là
sự minh họa hùng hồn cho thuyết tiến hóa này: thích nghi để tồn tại,
một cách thông minh. Ông không làm nô lệ cho một ý tưởng giáo điều
nào. Ý tưởng nào không phù hợp, ông vứt nó đi và tìm ý tưởng khác.
Ông là một người thực dụng. “Tôi
đuổi bắt các ý tưởng, miễn là chúng đem lại kết quả. Nếu không, tôi
nói, xem này, ý tưởng này có thể nghe hay đấy, nhưng thôi chúng ta
hãy đi tìm cái gì khác hoạt động có hiệu quả đi”.
Đầu ông là một ‘vườn ươm ý tưởng’. Có người lý tưởng hóa ông khi nói
rằng, tại miếng đất Khổng tử của ông, Plato và Machiavelli gặp gỡ
nhau, và LQD chính là một ‘Machiavelli châu Á’. Về sự thành công
của LQD: ông có lẽ thành công là vì Singapore là mảnh đất nhỏ, dân
số lúc độc lập chỉ 2 triệu người; nhưng ông chắc sẽ gặp khó khăn hơn
với một đất nước dân số đông vài chục triệu người. Lực lượng đối lập
và bảo thủ sẽ đông đảo và sẽ có thể loại ông ra khỏi cuộc chơi. Cũng
may mắn cho ông. Trong chừng mực này, thời cơ đã tạo anh hùng. Dĩ
nhiên điều ngược lại cũng đúng.
Thưa các Anh Chị,
bức tranh trên nói về Singapore, LQD, ĐTB, TQ, VN nhìn từ góc độ
Singapore chắc chắn cần có sự điều chỉnh, tôi mong những anh chị am
hiểu tình hình Singapore hơn tôi, những anh chị đã từng sống ở đó,
anh Võ Tá Hân và các bạn của anh chẳng hạn có thêm ý kiến, hay các
anh Việt, Long, Dũng từ góc độ Mỹ, và nhiều anh chị khác có nghiên
cứu những vấn đề này.
(IV) Cuối thư, xin mách
thêm: các Anh Chị nào muốn thấy được “ngọc xá lợi Phật” có thể đến
thăm “Chùa răng Phật”, vì họ có lưu trữ một chiếc răng Phật và nhiều
xá lợi Phật khác. Ngôi chùa 5 tầng này cũng rất hiện đại như chính
Singapore vậy. Chùa đã góp nhặt nhiều di tích Phật giáo châu Á quý
báu. Còn ai muốn ăn chay thì xin đến khu Mustafa, ở đó có rất nhiều
nhà hàng chay Ấn độ và Đài Loan. Còn ai muốn thưởng lãm đồ ăn Thụy
Sĩ, xin hãy đến nhà hàng “Marché” tại Sommerset 313, Orchard Road,
rất ấm cúng và thanh lịch, trang trí bằng toàn gỗ từ và theo kiểu
Thụy Sĩ. Singapore có nhiều nhà sách lớn tuyệt vời để thỏa mãn những
người yêu sách: Borders (Mỹ), Kinokuniya (Nhật, nằm ngay trong đại
siêu thị Takashimaya, Orchard Road), hay một nhà sách lớn khác
(PAGEONE) ở khu mua sắm Vivo gần khu vui chơi Sentosa. Người mua vô
ra nườm nượp, phản ảnh trình độ văn hóa cao của người dân Singapore.
Sách vở bày bán có thể còn nhiều hơn ở Mỹ, đủ tất cả các chủng lọai
tri thức trên đời. Thư đã khá dài.
Xin tạm ngừng bút. Cám ơn các Anh Chị. Thân ái, NXXanh
Tài
liệu tham khảo:
[1] Alex Josey, Lee
Kwan Yew, The Crucial Years. Times Books International.
Singapore, Luala Lumpur, 1986; reprint 1994. [2] Lee Kwan Yew,
Memoirs. From Third World to First. The Singapore Story:
1965-2000.Marshall Cavendish Editions 2000; reprint 2011. [3] Tome Plate,
Conversations with Lee Kwan Yew. How To Build A Nation. Marshall
Cavendish Editions 2010.
Đã đăng ở Diễn Đàn
|