Những bài cùng tác giả
(1) Đông Nam Á, thời
băng hà - Đất tổ của người AustroAsiatic, Austronesian
Thời kỳ địa chất Cenozoic,
cách đây 65 triệu năm cho đến ngày nay, là thời kỳ động vật có vú và
chim bắt đầu. Thời địa chất Cenozoic gồm có hai kỷ - kỷ thứ ba
(Tertiary) và kỷ thứ tư (Quaternary) — Trong 2 kỷ này gồm có 7 kỷ nguyên
(epochs). Kỷ thứ ba có 5 kỷ nguyên Paleocene, Eocene, Oligocene,
Miocene, và Pliocene và Kỷ thứ tư chỉ gồm hai kỷ nguyên, thời kỳ
Pleistocene và Holocene.
Con người bắt đầu xuất hiện
vào thời kỷ nguyên Pleistocene, nhưng chỉ bắt đầu có ảnh hưởng to lớn
đến môi trường sống trên trái đất vào đầu thời Holocene cách đây gần
12000 năm.
Kỷ thứ ba (Tertiary) |
Paleocene : 65-57 triệu
năm trước
Eocene :
57-34 triệu
năm trước
Oligocene : 34-23 triệu
năm trước
Miocene :
23-5 triệu
năm trước
Pliocene :
5-2
triệu năm trước
|
Kỷ thứ tư
(Quarternary)
|
Pleistocene : từ 2
triệu năm đến 13,000 năm trước đây
Holocene :
12,000 năm
trước đây đến ngày nay |
Tiến bộ then chốt nhất
về khoa học trái đất là sự khám phá trong thập niên 1990 khí hậu địa
cầu trong quá khứ 100000 năm đã qua: từ thời băng hà cuối của kỷ nguyên
Pleaistocene đến thời Holocene ngày nay. Dữ kiện khoa học về thời tiết
và nhiệt độ nước biển đã được biết qua các nghiên cứu các lớp san hô,
những mẫu phù sa, các tầng nước đá ở Bắc cực trước đây trong nhiều ngành
khoa học khác nhau. Nhưng chỉ hơn 15 năm gần đây, qua sự tổng hợp và
các hợp tác nghiên cứu liên ngành để giải thích các sự kiện lịch sử con
người trong quá khứ cũng như tiên đoán khí hậu môi trường sống trên trái
đất trong tương lai, các nhà khoa học đã cấu tạo lại các dữ kiện khí hậu
xưa kia trên trái đất rất chi tiết cho đến các đây hơn 100,000 năm để
làm nền tảng cho các nghiên cứu sau này. Quan trọng nhất là qua các lớp
nước đá lấy ở đảo Greenland gần bắc cực từ trên mặt băng xuống sâu đến
tận đất, các nhà khoa học dùng tỉ lệ đồng vị oxygen 18 và oxygen 16 để
kiến tạo lại nhiệt độ trong khoảng 120000 năm cách đây, cho thấy thời kỳ
Holocene, khi thời kỳ băng hà cách đây 12000 năm chấm dứt, là thời kỳ mà
sự thay đổi khí hậu nhiệt độ ít biến động và thay đổi với mực độ không
to lớn so với thời băng hà ở kỷ nguyên Pleistocene. Thời kỳ băng hà này
có nhiều sự thay đổi lớn lao đột ngột qua giai đoạn ấm rồi trở lai lạnh
(xem Hình 2c). Những biến động từ lạnh đến ấm trong thời băng hà được
gọi là biến động Dansgaard-Oeschger, và ngược lại từ ấm đến lạnh là biến
động Heinrich.
Trong giai
đọan chuyển tiếp từ thời băng hà đến Holocene lúc nhiệt độ tăng và ấm
trong một thời gian thì thình lình cách đây 12000 năm, nhiệt độ giảm
mạnh thay đổi khí hậu trở lại lạnh như trong thời băng hà. Thời kỳ này
các nhà khoa học khí hậu gọi là Young Dryas. Đây cũng là lúc con người
phải sống dựa vào thực vật, bước ra khỏi thời đá cũ và canh nông ra đời.
Sau thời Young Dryas rất ngắn, khí hậu trở lại ấm và đi vào kỷ nguyên
Holocene ngày nay. Vào thời Holocene, cách dây khoảng 8200 năm (6200BC),
hơn 3000 năm sau Young Dryas, nhiệt độ bổng nhiên tụt xuống lạnh trong
vòng 60 năm, làm vùng Mesopotamia (gần Iraq ngày nay) bị hạn hán tàn phá
canh nông. Đa số con người phải bỏ đi, xuôi theo sông Tigris và Euphrate
xuống hạ lưu gần vịnh Ba Tư và từ đó canh nông dẫn nước ra đời. Và cách
đây 4200 năm (2200BC), sự thay đổi khí hậu đột ngột đã làm vùng Sahara
xanh tươi, ẩm và ấm trở thành sa mạt và nền văn minh Harappa, ở lưu vực
sông Ấn hà (Indus), cũng như nhiều đế quốc và triều đại ở Cận đông và Ai
Cập biến mất.
Hình 1 - Ảnh vệ tinh vùng Đông
Nam Á dưới độ sâu 100m của thềm lục địa
|
Hình 2a - Độ dâng nước biển cuối thời Pleistocene
đến ngày nay |
|
Hình 2b - Độ
dâng nước biển
thời Holocene đến ngày nay |
Hình 2c - Nhiệt độ ở giữa
đảo Greenland trong 100000 năm vừa qua, tái tạo từ sự đo nồng độ oxygen
và đồng vị oxygen 18 trên tầng nước đá lấy được trong chương trình
nghiên cứu GISP2 giữa thập niên 1990 (8). Để ý là trong thời kỳ băng hà
cuối Pleistocene, có nhiều biến động thay đổi khí hậu đột ngột lên xuống
bất thường, biến động ấm Dansgaard-Oeschger, và ngược lại từ ấm đến lạnh
(biến động Heinrich). Giai đoạn cuối trước khi vào thời Holocene cách
đây khoảng hơn 12000 năm, từ ấm thình lình chuyển đến thời kỳ lạnh goi
là Young Dryas (YD), là lúc con người bắt đầu thuần hóa thực vật bước
vào thời kỳ canh nông.
(a) Địa lý - Động
vật và thảo vật
Cả vùng biển hiện nay từ
nam mũi Cà mau, vịnh Thái Lan đến các eo biển giữa các đảo Sumatra,
Borneo, Java đều rất nông cạn và được gọi là thềm Sunda (Sunda shelf).
Trong thời kỳ băng hà Pleistocene từ cách đây 20000 đến 18000 năm, thềm
Sunda còn ở trên mặt nước biển. Lúc nước biển còn thấp (từ 100m đến 150m
dưới mực nước hiện nay) thì phần lớn thềm lục địa ở biển Đông và cả vùng
vịnh Thái Lan, nam Việt Nam nối dài với bán đảo Mã Lai vẫn còn là đất
liền trên mực nước biển hiện nay và các đảo lớn ở Nam Dương, như
Sumatra, Java, Borneo, Bali .. còn gắn liền với lục địa Á châu. Hình 1
chụp từ vệ tinh cho thấy rõ thềm Sunda nối với các đảo tạo thành
Sundaland gắn liền với lục địa Á châu.
Vết tích của thời kỳ này còn có
thể tìm thấy được qua sự nghiên cứu về sự phân phối ở các động vật trên
các vùng ở Đông Nam Á. Tê giác 1 sừng, Rhinoceros sondaicus, trước đây
không lâu (đầu thế kỷ 20) có ở các vùng trải dài từ Miến Điện, Thái Lan,
Việt Nam, Cam Bốt, bán đảo Mã Lai, Sumatra và Java. Ngày nay, do sức ép
và sự bành trướng của con người ảnh hưởng đến môi trường sống, chúng chỉ
còn ở Java và một ít ở Việt Nam thuộc khu vực rừng quốc gia Nam Cát
Tiên, Lâm Đồng. Cũng vậy, tê giác 2 sừng loại Sumatran rhino
(Dicerorhinus sumatrensis) hiện hữu sống phân phối từ Miến Điện, Thái
Lan, Mã Lai, đảo Sumatra và Borneo.
Loài Orang Utan (“người
rừng”), hiện nay vẫn còn ở rừng nhiệt đới nóng ẩm Sumatra và Borneo, cho
ta thấy là khi Borneo còn gắn liền với Sumatra và lục địa Á châu, chúng
đã đi lại qua các vùng nhiệt đới xích đạo ở hai nơi (1). Lạ hơn là giống
Orang Utan ở Tây Nam Borneo và Sumatra rất gần gụi giống nhau hơn là
giữa Orang Utan phía Tây Nam Borneo và các nơi khác trên cùng đảo
Borneo. Thêm một sự kiện nữa là các giống cá ở sông Kapuas, phía tây
Borneo hầu như giống y như các loài cá ở các sông phía đông đảo Sumatra
mà lại rất khác với các giống cá ở sông Mahakam phía đông Borneo cách
sông Kapuas qua một rặng núi mà thôi. Điều này cho thấy xưa kia sông
Kapuas và các sông đông Sumatra cùng chung một lưu vực (catchment) nối
liền hai đảo Sumatra và Borneo hiện nay.
Cũng vậy loài voi hiện diện ở
khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka, Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan,
Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mã Lai đến các đảo hiện nay
Sumatra, và Borneo. Loại voi, Elephas maximus sumatranus, ở đảo Sumatra
và Borneo giống như loài Elephas maximus maximus ở Sri Lanka và Elephas
maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.
Các dữ kiện trên cho thấy
Sundaland trước thời biển tiến là vùng đất lớn nối các đảo Đông Nam Á
với lục địa Á châu cho phép các loại động vật đi lại phát tán trên vùng
này. Con người cũng đã đi đến lục địa Úc châu từ Đông Nam Á và Sundaland
qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland. Con người đã đến Úc cách
đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu.
Vào thế kỷ 19, nhà sinh học
Wallace đã quan sát, nghiên cứu các động vật ở các đảo Indonesia. Ông
tìm thấy có 48 loài động vật giống nhau ở bán đảo Mã Lai, đảo Sumatra,
Borneo và Java. Trong số này có 7 loài vượn khỉ là những động vật sống
trong rừng, không bao giờ lội và chắc chắn không thể vượt qua 1 dặm nào
ở biển; 19 loài thú săn, một vài trong số này có thể vượt biển bằng
lội, nhưng chúng ta không thể nói rằng có nhiều loài trên vượt qua được
các eo biển từ 30 đến 50 dặm cách xa hai bờ (trừ 1 eo), và 5 loài thú có
sừng, ngà, gồm loài tapir, 2 loài tê giác và 1 loài voi (đã đề cập như
trên). Ngoài ra còn có 13 loài chuột, 4 loại ăn bọ, gồm có chuột chù
(shrew-mouse) và 6 loại sóc mà sự vuợt biển qua 20 dặm còn khó cho ta có
thể tưởng tượng hơn là các loài thú lớn hơn. Điều trên cho thấy là trước
đây đã có thời kỳ các đảo này nối chung với lục địa Á châu.
Trái lại đảo Celebes và các
đảo xa hơn băng qua đường gọi là “đường Wallace” (Wallace line) chạy qua
giữa biển của hai đảo Borneo và Celebes đã không nối với lục địa Á châu
trong thời băng hà đã qua trước đây. Vì độ sâu ở biển giữa đảo Celebes
(Sulawesi) và Borneo rất sâu, nên ngay cả khi mực nước biển thấp hơn
hiện nay hơn 100m, eo biển vẫn còn là biển chia cách hai đảo. Đảo
Celebes từ 160 triệu năm tách rời từ lục địa cổ Gondwana (cũng như
Madagascar tách rời Phi Châu trong khoảng thời gian này). Vì thế Celebes
biệt lập từ lâu đời và nơi đây có nhiều loài thú đặc biệt khác với Á
châu và không nơi nào khác chung quanh vùng có như loài khỉ Tarsier
spectrum (giống con lemur ở Madagascar), một loại khỉ nhỏ khoảng 10cm và
đuôi dài 20cm, và một loài thú lạ kỳ giống loài heo mà ta thường biết
gọi là Babirusa. Cả hai tương tự như các loài sống ở Phi châu hơn là Á
châu. Heo Babirusa đặc biệt có răng nanh hàm trên cong vòng gần đến mắt,
giống như ngà voi. Hình dáng bên ngoài giống như hà mã. Thật ra loài
liên hệ gần giống với heo Babirusa là loài tổ tiên của hà mã sống cách
đây 30 triệu năm được tìm thấy trong các hóa thạch ở bắc bán cầu. Hoá
thạch của con hà mã sơ khai (Merycopotamus) đã được tìm thấy ở Siwalik,
Ấn độ. Đây có thể là tổ tiên của loài heo Babirusa hiện nay. Sống biệt
lập hàng triệu năm, heo Babirusa đã tiến hóa ở đảo Celebe đến một dạng
không giống loài heo nào trên thế giới.
Ở đảo Celebes, nếu không
tính các loài dơi, thì các loài thú vật có vú hoàn toàn 100% chỉ nơi đây
mới có (endemic), hơn cả Úc châu, lục địa đảo đặt biệt cũng chưa có số
lượng như vâ.y. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt của đảo Celebes, thì nói
chung đường Wallace chạy dài ngăn chia từ giữa đảo Bali và Lombok lên
giữa Borneo và Celebes và là ranh giới động thực vật giữa Á châu và Úc.
Phía bên trái là các đảo Bali, Java, Borneo, Sumatra. Phía bên phải là
các đảo Celebes, Flores, Timor, Lombok, Sumba và các đảo trong quần đảo
Moluku gần New Guinea và Úc. Cũng như đảo Celebes, trên đảo Flores có
nhiều đông thực vật khác với các đảo bên trái đường Wallace: có loài voi
nhỏ Stegodon sondaari lớn bằng con trâu nước
đã tuyệt chủng, và vào năm 2004 đã tìm thấy
hài cốt của người xưa bé lùn (homo floresiensis) mà giới khoa học nhân
chủng và khảo cổ đã nghiên cứu tranh luận xôn xao gần đây.
(c) Con người
Trước khi biển tiến cách
đây 14,000 năm thì thềm Sunda vẫn còn trên mực nuớc biển, nối liền lục
địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java. tạo thành Sundaland cho
phép người cổ Đông Nam Á phân tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng
rộng lớn này.
Thời đá cổ (Paleolithic) và
đá mới
Tiến bộ của khoa học di
truyền gần đây cho thấy con người hiện đại đã khởi xuất từ Đông Phi qua
nhiều đợt di cư đã đến Á châu, Trung Đông và phát tán đi đến các nơi
khác. Đợt di cư đầu tiên trong thời kỳ đầu băng hà là dọc đường biển nam
Arabia, Nam Ấn Độ (ghé các đảo Andaman, Nicobar hiện nay ở Ấn Độ Dương
gần Miến Điện) đến Đông Nam Á và đến Úc châu. Người thổ dân Úc châu
hiện nay là các giống dân lâu đời, cũng như người Dravidian (Nam Ấn),
người Melanesian ở Guinea, người Orang Asli trong rừng ở bán đảo Mã Lai
và các giống bộ lạc còn sót lại trong rừng rậm ở các đảo Andaman như các
bộ lạc người Jarawa, Onge. Nghiên cứu di truyền về các tộc trên cho thấy
họ là những giống người cổ ở Á châu vẫn còn sống trong rừng khi người
thời đá mới với kỷ thuật canh nông xuất hiện sau này (10). Ngôn ngữ của
họ thuộc loại ngôn ngữ cổ Indo-Pacific.
Người thổ dân Andaman lùn
đen, giống người pygmie ở Phi châu và các thổ dân negritos Orang Asli
như Semang, Aeta, Boloven ở rừng rậm Mã Lai và Phi Luật Tân. Hiện nay
còn rất ít chỉ dưới 500 người, họ là hậu duệ của người cổ thời đá cũ.
Nghiên cứu di truyền học gần đây cho thấy sự liên hệ của họ với các
giống thổ dân ở Úc châu hiện nay. Về hình dáng bên ngoài, khó có thể
phân biệt và ta thấy sự giống nhau rất nhiều giữa người Semang với người
thổ dân Úc hiện nay.
Hình 2 – Người Jarawa (thổ
dân đảo Andaman) và nơi trú ngụ.
H ình 3- Người
Semang ở bán đảo Mã Lai rất giống thổ dân Úc
Hình 4 - Người đảo Nicobar
và người Semoi, ở thung lũng Talun, Mã Lai (1932)
Một bộ
xương hầu như còn nguyên vẹn đã được tìm thấy tại một di chỉ gọi là Gua
Gunung Runtuh ở Mã Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ xương này
cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở hình thái răng và chân
tay (3), và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá trung kỳ)
ở Mã Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương tìm thấy ở
Tabon và Niah, cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời
Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các
đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy
các đặc tính này vẫn còn thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến
đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đã được
tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên
vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland.
Cách đây từ khoãng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu
toã ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó
trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật
lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm
trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đã cho phép họ thiết lập
được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, ở các hang, chủ yếu là gần
nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trãi rộng
trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận. Văn hóa của những nhóm người này
được gọi là văn hóa Hòa Bình, do sự khám phá các di chỉ có cùng đặc tính
chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Sau này các
di chỉ tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á.
Các đặc tính chung mà ta có thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và
đời sống hàng ngày trước đây và cho đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở
Đông Nam Á.
Năm 1933 là năm mà bà M.
Colani, nhà thực vật học và khảo cổ Pháp, đã khám phá ở các hang đá vôi
và hầm ở tỉnh Hòa Bình là các nơi trú ngụ của người xưa với các dụng cụ
đá sỏi dẻo thô sơ. Bài báo cáo khoa học của Colani trên tạp chí của
trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đã đưa ra ánh sáng đầu tiên của văn hóa
cổ gọi là “Hòa Bình”.
Hang Con Moong, một di tích
khảo cổ phát hiện vào năm 1977, trong vườn quốc gia Cúc Phương, cho thấy
người Hòa Bình đã cư ngụ lâu đời trong hang với nhiều dụng cụ đá đẻo và
các xương động vật như sóc, khỉ, chó, heo, tê giác, bò (rừng), hưu và
các võ sò, trai, ốc. Người Hòa Bình là ai?. Trong hang Con Moong còn tìm
thấy nhiều hài cốt, đa số xương đã mũn nát, nhưng còn một bộ với răng
sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid negrito (6). Tại đây đã phát hiện
các tầng văn hóa (5) chia ra như sau: tầng trên là văn hóa Hòa Bình III,
tiếp nối với văn hóa Bắc Sơn, có rìu mài lưỡi và gốm, tầng kế dưới là
văn hóa Hòa Binh II cổ điển mà Colani đã phát hiện và mô tả và tầng cuối
cùng là văn hóa Hoà Bình I với công cụ đá đẻo rất thô sơ có nhiều đặc
trưng của nền văn hóa Sơn Vi. Vì thế nhà khảo cổ Phạm Huy Thông đã cho
rằng văn hóa Hòa Bình nảy sinh từ nền văn hóa củ hơn, nền văn hóa Sơn
Vi.
Tổng hợp các dữ kiện trên có thể cho ta kết luận là người Andaman, Orang
Asli (negritos) ở Mã Lai, Phi Luật Tân và thổ dân Úc là hậu duệ không
thay đổi nhiều qua thời gian của những người cổ ở Sundaland và chủ nhân
của văn hóa Hòa Bình là cư dân về hình thái giống như hay có liên hệ rất
gần với các giống dân trên.
Cách đây khoảng 14000 năm,
mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà đã cắt đứt các “cầu” đất
liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục địa Á châu. Và qua đó đã
làm tăng nhanh quá trình phân hóa và cách ly giữa các văn hoá bản sứ
trong vùng đã bắt đầu phát triển, nhất là ngôn ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy
ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách ly xa dần của các nhóm
mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản sứ này dựa trên một
nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Hòa Bình thích ứng với điều kiện
riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ý tưởng và kỹ thuật đã
cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa hình thiên nhiên. Trong
thời kỳ mà Wilhem Soldheim gọi là “thời kỳ phát tỏa” cách đây từ khoảng
10000 đến 2000 năm, đã xảy ra ở Đông Nam Á sự phát triển của hầu như tất
cả nhu liệu mà ta có thể gắn liền với từ ngữ “văn minh”, không có liên
hệ hay du nhập các sáng chế từ bên ngoài vào. Trong thời kỳ này, heo bò
và gà vịt đã được thuần hóa và lúa đã bắt đầu được trồng. Ở các vùng gần
biển, hay dọc theo các sông rạch, nghề hàng hải bắt đầu từ sự sáng chế
ra thuyền có mái chèo. Và người Đông Nam Á đã vượt biển đi xa đến tận
Nhật, Melanesia, Ấn Độ, và đảo Madagascar ở bờ biển phía đông Phi Châu.
Kỹ thuật văn hóa Hòa Bình
hiện diện ở nhiều nơi ở Đông Nam Á lục địa, ngoài hang ở Hòa Bình, Con
Moong còn có thể thấy ở các hang Pha Chang, Moh-Kiew, Lang Rongrien và
Lang Kannam ở Thái Lan. Trong hội nghi kỷ niệm 60 năm Colani khám phá di
chỉ và văn hóa Hòa Bình năm 1993 ở Hà Nội, các học giả Trung Quốc cũng
trình bày những địa điểm khảo cổ ở Nam Trung Quốc có dấu vết của văn hóa
Hòa Bình.
Người Hòa Bình đã đến xuống
đồng bằng Bắc Việt định cư dọc sông ngòi và bờ biển. Trong khoảng 20000
năm, ho đã tiến hóa song song và có liên hệ với các dân cư khác ở Đông
Nam Á hải đảọ Trước khi biển tiến thì Đông Nam Á hải đảo vần còn nối
liền với lục địa, miền nam Việt Nam hiện nay và Cam Bốt còn nối với
Borneo cũng như vịnh Thai Lan còn là đồng bằng mênh mông.
Biển tiến bắc đầu cách đây
15000 năm mà cao điểm là 14,500 chỉ trong vòng một thời gian ngắn khoảng
300 năm, mực nước biển lên nhanh khoảng 20m đến mực độ cao cách độ cao
hiện nay khoảng 80m gần như nhận chìm thềm Sunda (pulse 1A) (7). Thềm
Sunda bị chìm hoàn toàn cách đây khoảng 8000 năm.
Lúc bắt đầu thời kỳ biển
tiến, người Đông Nam Á dọc bờ biển và sông đã tiến hóa qua môi trường
khác với người cổ vẫn còn trong rừng rậm sống hái lượm. người ở đồng
bằng vịnh Bắc bộ, Trung Việt, Borneo (như người Dayak), bán đảo Mã Lai,
Sumatra, Java đã có sự liên hệ về nhân chủng và văn hóa. Cách đây khoảng
12000 năm vẫn trong thời kỳ biển tiến, thời tiết trên thế giới thình
lình trở lại lạnh, khô kéo dài 1300 năm trước khi trở lại ấm bình
thường. Hiện tượng khí hậu này gọi là Young Dryas (tên của một loài cây
thuộc họ hồng, hoa trắng sống trong môi trường núi rất lạnh khô cằn, đã
để lại dấu vết trong các lớp địa chất) đã làm cuộc sống xã hội loài
người thay đổi hoàn toàn, buộc một số phải đi xa sinh sống và còn lại
sinh sống bằng canh nông, thuần hóa thú vật. Đây cũng là thời kỳ canh
nông và thuần hóa súc vật xuất hiện đầu tiên ở xã hội người vùng Cận
Đông. Hiện nay chúng ta chưa biết được cuộc sống của người Hòa Bình đã
thay đổi như thế nào trong thời kỳ Young Dryas.
Trong một nghiên cứu di
truyền mới nhất (9) về sự liên hệ của người cổ thổ dân negrito ở bán đảo
Mã Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á và Đông Á. Qua phân tích
mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người negrito ở Mã Lai trong bộ
sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người khác cho thấy lúc đầu họ
chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo Đông Nam Á và Indonesia
nhưng sau đó họ đã phát tán nhanh chóng khắp Đông Nam Á vào giữa cuối
thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây 13000 năm.
(2) Đông Nam Á sau biển
tiến
Sau biển
tiến một thời gian khoảng 10000 năm, Đông Nam Á bắt đầu vào thời đại
đồng cách đây gần 2500 năm, gọi là thời kỳ Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ
Hùng Vương dựng nước trong lịch sử Vi ệt Nam.
Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ
mà dân tộc Lạc Việt và các nhóm Bách Việt khác ở nam sông Dương Tử đã
đạt đến trình độ văn minh cao mà trống đồng là những di vật tiêu biểu.
Người Đông Sơn là ai ?
Hình 5 - Hai ảnh bên trái là bộ mặt của một người đàn ông
Đông Sơn khoảng 40 tuổi và hai ảnh phải là của một phụ nữ
Đông Sơn khoảng 17 tuổi |
Năm 2002, ở làng Đông Xa, tỉnh Hưng Yên, một di chỉ khảo cổ đã được khai
quật bởi các nhà khảo cổ Úc và Việt Nam (từ Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử
Đông Nam Á). Ở di chỉ này, đã tìm được các mộ chứa hài cốt và di vật
chôn theo của người xưa
Nhà nhân chủng học và khảo cổ Việt Nam Nguyễn Văn Việt, học trò của nhà
sử học nổi tiếng Hà Văn Tấn, chuyên về kiến tạo lại gương mặt người qua
xương sọ. Ông Việt học từ Đan Mạch các khóa học nắn đúc dùng đất sét và
để tái tạo lại gương mặt từ xương sọ, ông dùng phương pháp của nhà nhân
chủng học người Nga Mikhail Gerasimov mà ông đã học và được biết trước
đây. Việt là người đầu tiên ở Việt Nam dùng xương sọ để kiến tạo lại
gương mặt người xưa. Hình 5 cho thấy bộ mặt của hai người Đô ng Sơn mà
ông đã tái tạo. Công trình của ông đã gây nhiều thảo luận trong giới
nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học ở Việt Nam. Nguyễn Lan Cường nhà
khảo cổ nghiên cứu về văn hóa Hòa Bình và Đông Sơn trước đây (6) cho
rằng phưong pháp tính toán cơ mặt của ông Việt vẫn còn có nhiều sai số.
Tuy vậy ông Cường nói sẽ tiếp nối công việc của Việt trong vài năm tới
để tái tạo lại gương mặt và chủng tộc của người Hòa Bình sống cách đây
10000 năm.
Lời kết
Hiện nay chưa ai tái tạo
lại hình ảnh người Hòa Bình qua một số rất ít xương sọ tìm được nguyên
vẹn vì phần lớn đã bị mũn. Tôi hình dung người Hòa Bình qua các người
của các bộ lạc sống biệt lập trong rừng còn sót lại ở Đông Nam Á và
người liên hệ là thổ dân Úc. Tôi sống ở Úc đã lâu và có nhiều cơ hội gặp
và tiếp xúc vớI thổ dân Úc. Tôi còn nhớ lúc còn là sinh viên cách đây
hơn 25 năm, cả trường đại học Sydney chỉ có một sinh viên gốc thổ dân
duy nhất trong số hơn 10000 sinh viên. Hiện nay thì đã có nhiều tiến bộ
về tình trạng thổ dân trong xã hội so với trước đây nhưng vẫn còn khoảng
cách khá lớn về mức sống . Đa số ít có cơ hội tiến thân trong xã hội. Ở
đ ảo Tasmania (một tiểu bang của Úc), họ đã bị tuyệt chủng từ cuối thế
kỷ 19. Mặc dầu có nhiều bộ lạc khác nhau, nhưng trên toàn lục địa thổ
dân hầu như không khác nhau và không thay đổi nhiều trong 50000 năm qua.
Họ là người cổ nhất, nhóm người đầu tiên đến từ Phi châu dọc theo ven
biển Arabia, Ấn Độ, và Sundaland. Xương tìm thấy ở di chỉ khảo cổ hồ
Mungo (nay đã cạn) được định tuổi là hơn 50000 năm, cổ hơn tất cả các
xương người hiện đại đã tìm thấy ở Đông Nam Á. Sự thuần chủng của ngư
ời thổ dân Úc và mối liên hệ của họ với người đảo Andaman và người còn
sống trong rừng ở Mã Lai và Phi Luật Tân cho ta nhận diện chung về hình
ảnh của người “Hòa Bình” xưa, tổ tiên của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á và
Nam Trung quốc.
Tham khảo
(1)
Penny van Oosterzee, “Where worlds collide -
The Wallace line”, Reed Books Australia, 1997.
(2)
Vietnam news Agency, Ancient faces brought
to life, 14/08/2005,
http://vietnamnews.vnagency.com.vn/showarticle.php?num=01SUN140805
(3)
Hirofumi Matsumura , Majid Zuraina, Metric
analyses of an Early Holocene human skeleton from Gua Gunung Runtuh,
Malaysia, Am J Phys Anthropol 109:327-340, 1999.
(4)
Nguyễn Khắc Sử, Hang Con Moong-Giới thiệu và
nhận xét, Khảo Cổ Học, tr. 26-35, số 2(22), 1977.
(5)
Nguyễn Huy Thông, Hang Con Moong-Một phát
hiện khảo cổ học đáng chú ý ở Việt Nam, Khảo Cổ Học, tr. 36-43, số
2(22), 1977.
(6)
Nguyễn Lan Cường, Di tích người cổ, Khảo Cổ
Học, tr. 24, số 2(22), 1977.
(7)
T. Hanebuth, K. Stattegger, P. M. Grootes ,
Rapid Flooding of the Sunda Shelf: A Late-Glacial Sea-Level Record,
Science 12 May 2000, Vol. 288. no. 5468, pp. 1033 – 1035.
(8)
J. Cox, Climate Crash: Abrupt Climate Change
and What It Means for Our Future, JHP Press, 2005.
(9)
F. Ricaut, M.Bellatti, M. Lahr, Ancient
mitochondrial DNA from Malaysian hair samples: Some indications of
Southeast Asian population movements, Am J Hum Biol. 2006
Sep-Oct;18(5):654-67.
(10)
K. Thangaraj, L. Singh et al, Genetic
Affinities of the Andaman Islanders, a Vanishing Human Population,
Current Biology, Volume 13, Issue 2 , 21 January 2003, Pages 86-93
|