Năm 2002, Phân Viện
Khảo Cổ Học Chung và So Sánh
tại Bonn (tiếng Đức viết tắt là KAVA, dùng trong
bài này dưới tên Viện AVA) thuộc hệ thống Viện
Khảo Cổ Quốc Gia Đức (DAI: Deutschen
Archaeologischen Instituts) cho ra đời cuốn sách
: "Neue Entdeckungen zur Sa Huynh- Kultur", hay
"Những phát hiện mới về văn hóa Sa Huỳnh" - Gò
Mả Vôi (ISBN 3-929290-27-8, Lindensoft phát
hành).
Đây là một cuốn sách song ngữ độc
đáo viết bằng hai thứ tiếng Đức và Việt thành
hai cột trên mỗi trang. Hơn thế nữa : cuốn sách
độc nhất từ trước đến nay về văn hóa Sa Huỳnh và
là quyển thứ bảy trong loạt sách khảo cổ của
Phân Viện AVA.
Tựa sách Đức - Việt bìa ngoài
cùng cỡ chữ nhưng phần chữ Việt in nghiêng ; bìa
trong tóm tắt tiểu sử tác giả và giới thiệu sách
mới Viện AVA. Sách giấy láng, chữ và hình kỹ
thuật cao, rõ nét, hứa hẹn giữ được lâu dài,
điều cần thiết cho một tài liệu khảo cổ.
Nội dung trình bày những di vật
thuộc văn hóa Sa Huỳnh, đa số tại địa điểm Gò Mả
Vôi, với rất nhiều hình ảnh –125- , đa số in
màu-.
Về các tác giả
và tầm quan trọng của văn hóa Sa Huỳnh
Đồng tác giả là ba nhà khảo cổ
Andreas Reinecker, Nguyễn Chiều và Lâm thị Mỹ
Dung. Ông Nguyễn Chiều dạy môn khảo cổ tại Đại
học Tổng Hợp Hà Nội và là chuyên gia khảo cổ văn
hóa Chàm. Bà Lâm thị Mỹ Dung là phó chủ nhiệm bộ
môn khảo cổ học trường Đại học Khoa Học Xã Hội
và Nhân Văn Hà Nội, giảng dạy về khảo cổ. Cả hai
người đều đã trực tiếp khai quật nhiều di tích
khảo cổ Việt Nam, đặc biệt là những di tích
thuộc văn hóa Sa Huỳnh – Chàm. Ông Reinecker
phụ trách về khảo cổ học Đông Nam Á tại Viện
AVA.
Ba tác giả khai quật địa điểm Gò
Mả Vôi, trong khuôn khổ chương trình hợp tác quy
mô giữa trường Đại Học Xã Hội Nhân Văn và Viện
AVA.
Hợp tác giữa ngành khảo cổ Việt
Nam và khảo cổ thế giới chỉ bắt đầu có tính cách
quy mô từ vài năm nay tuy trước đó đã có nhiều
chương trình trao đổi "Bắc – Nam" giữa những
nước giàu và nước nghèo. Những nhà khảo cổ thế
giới trong thập niên 90 thế kỷ 20 rất chú ý đến
văn hóa Sa Huỳnh, vì văn hóa này giàu những di
vật độc đáo thời đại đồ sắt, những chum gốm to
dùng táng người chết hiếm thấy, và nhất là vai
trò quan trọng của văn hóa này trong tiền sử
Đông Nam Á. Thật vậy, đồ trang sức đặc trưng Sa
Huỳnh được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác trên
các đảo vùng Đông Nam Á, bằng chứng của sự buôn
bán trao đổi đường xa, đặc biệt bằng tàu thuyền.
Những nhà khảo cổ nổi tiếng thế
giới đều đưa văn hóa Sa Huỳnh vào các thuyết
thiên di của những tộc người nói tiếng Nam Đảo,
nhóm tiếng phong phú nhất của nhân loại. Và hiện
nay, đường đi cùng lịch trình thiên di các tộc
người nói tiếng Nam Đảo là đề tài nóng bỏng
trong ngành khảo cổ thế giới.
Qua phân tích ADN / DNA các tộc
người còn sống ngày nay trên lục địa Đông Nam Á
và các đảo khắp Thái Bình Dương, sinh học phân
tử đã đóng góp lớn vào hiểu biết về lịch sử nhóm
nói tiếng Nam Đảo, nhưng vì nhóm này không có
chữ viết, cho nên nguồn gốc cũng như lịch trình
thiên di của họ vẫn còn là đề tài tranh cãi.
Sa Huỳnh nằm giữa vùng rộng lớn
chứa "cái nôi" của dân nói tiếng Nam Đảo, trải
dài từ Đông Nam Trung Hoa đến Bắc Indonesia.
Nhiều thuyết hiện nay đối nghịch nhau về nơi
xuất xứ của nhóm người đã chiếm lĩnh các đảo
Thái Bình Dương. Vì các hiểu biết hiện nay về
văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Tiền Sa Huỳnh rất
giới hạn nên lập luận các thuyết thiếu cơ sở
chính xác, dễ gây ra tranh luận. Đây có thể là
một trong những lý do khiến ngành khảo cổ các
nước tiên tiến hợp tác với Việt Nam.
Trong giới khảo cổ chuyên nghiệp,
ông Reinecker là người nhiệt tình với đất nước
Việt Nam. Ông nói và viết rất thành thạo tiếng
Việt, nên việc hợp tác với đồng nghiệp người
Việt rất hiệu quả. Tình cảm với Việt Nam được
ông thể hiện qua sách chuyên môn của Viện AVA
Đức. Ngoài cuốn sách tôi giới thiệu trong bài
này, ông đã viết trước đó một quyển khác cũng
bằng song ngữ : “ Hành trình vào Khảo cổ học
Việt Nam ” (Einfrung in die Archologie Vietnam,
AVA Band 5, 1998). Ngoài ra ông tóm tắt bằng
tiếng Việt cho cuốn sách Đức ngữ của Johannes
Moser (Viện AVA) về văn hóa Hòa Bình
(Hoabinhian : Geographie und Chronologie eines
steinzeitlichen Technokomplexes in Sdostasien,
AVA Band 5, 2001). Đây là những công trình hiếm
có và quý giá.
Hiểu biết rõ về văn hóa Sa Huỳnh
rất quan trọng cho ngành khảo cổ Việt Nam. Tại
Việt Nam, vùng văn hóa Sa Huỳnh trải từ Quảng
Nam đến Nam Bộ (Đồng Nai, Cần Giờ) và khởi đầu
từ 500 năm trước công nguyên (CN) đến 100 năm
sau CN. Dân thuộc văn hóa này có thể là tổ tiên
thần dân vương quốc Lâm Ấp ( tức Chiêm
Thành-Champa- về sau ) và Phù Nam, là hai quốc
gia hùng mạnh đầu CN, nay đã diệt vong.
Vương quốc Lâm Ap tại miền Trung
Việt Nam có những ảnh hưởng văn minh Ấn Độ về tổ
chức và chữ viết (chữ Phạn). Mà dân nước Lâm Ap
không phải là di dân Ấn Độ : dân Chàm nói tiếng
thuộc nhóm tiếng Nam Đảo, chứ không phải nhóm
tiếng gốc Ấn Độ. Một điểm khác nữa là diện mạo
người Chàm giống cư dân vùng Đông Nam Á, khác
với người Ấn Độ phương bắc. Người ta biết có
nhiều di dân gốc Ấn Độ đến toàn vùng ven biển
Đông Dương vào đầu CN. Có thể một thành phần di
dân đi từ vùng nói tiếng Phạn trên bán đảo Ấn Độ
đã đến Sa Huỳnh bằng đường biển, nhưng trong
khoảng thời gian quá ngắn (thế kỷ thứ hai sau
CN) họ không thể tiêu diệt toàn bộ cư dân cổ tại
đây và lập một nước chỉ thuần tuý gồm người gốc
Ấn. Như vậy dân Lâm Ấp phải là con cháu của cư
dân cổ Sa Huỳnh.
Nước Chàm bị nước Việt tiêu diệt
khi người Việt bành trướng về phương Nam. Tiếng
Việt thuộc nhóm tiếng Nam Á lại mang nhiều
tiếng gốc Nam Đảo, như vậy một thành phần tiếng
Nam Đảo đến với người Việt từ đó.
Qua các khai quật ở miền Trung,
tôi nhận thấy văn hóa Sa Huỳnh rực rỡ không kém
văn hóa Đông Sơn trên đất Việt ở phía bắc. Thế
nhưng vì thiếu thông tin khách quan và công
trình nghiên cứu, hầu hết dân Việt Nam không lưu
tâm, không hay biết để hãnh diện về nền văn hoá
này.
Sơ
lược nội dung
Cuốn sách gồm năm phần :
Vài nét về tình
hình nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh
Địa điểm Gò Mả Vôi
Danh mục hiện vật
Mối quan hệ văn hóa của khu mộ táng Gò Mả Vôi
Lưu vực sông Thu Bồn trong văn hóa Sa Huỳnh,
Và những phần phụ như lời mở đầu,
trang tóm lược sách bằng tiếng Anh, bản chữ tắt,
mục lục, bản đồ hành chánh hiện tại với các tên
tỉnh.
Sau phần mở đầu giới thiệu lịch
sử vùng Hội An, công tác khảo cổ tại huyện Duy
Xuyên và hợp tác khảo cổ Đức Việt, người đọc có
ngay cái nhìn tổng quát về vùng khảo cổ qua
nhiều ảnh màu các di tích Chàm, phố cổ Hội An,
khu mộ và khuyên tai Pa Xua, cùng bản đồ đối
chiếu với ảnh chụp từ vệ tinh vùng chung quanh
Hội An.
Chương
Vài nét về tình hình nghiên cứu
văn hóa Sa Huỳnh
ghi lại công bố đầu tiên trong Niên giám 1909
tập san trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp và những
khai quật của ngành khảo cổ Việt Nam trong giai
đoạn 1975- 2002.
Khảo cổ gia Pháp trước kia tuy có
công khám phá ra nền văn hóa Sa Huỳnh với gần
800 mộ chum khai quật, nhưng số di vật họ để lại
Việt Nam có lẽ không đến mười phần trăm tổng số
tìm thấy ; trong khoảng một trăm di vật có ảnh
hay hình vẽ, phần lớn được đem về Pháp hoặc về
các nơi sưu tập khác. Qua ba giai đoạn khảo cổ
tại Quảng Nam sau 1975, nhiều di tích được phát
hiện tại vùng Tam Mỹ – Đại Lãnh, vùng quanh Hội
An, vùng Quế Sơn, Duy Xuyên. Một số di tích được
khám phá tình cờ khi công nhân làm đường phải
khai quật gấp.
Những chum táng phát hiện, vì
chứa khá nhiều đồ tùy táng bằng kim loại, thuỷ
tinh, gốm, và đồ trang sức bằng đá hay kim loại
quý nên thường bị trộm ; các đồ quý này được bày
bán trong các cửa hàng cho du khách.
Khai quật đúng
quy cách một di tích tiền sử tốn nhiều công sức,
thì giờ, vì phải cẩn thận cạo quét từng lớp mỏng
đất để có thể lấy di vật trong nguyên trạng tìm
thấy, phải rây đất tìm mảnh di vật, di cốt, ghi
chép tọa độ và xếp đặt, bảo quản đồ tìm được.
Còn phá tung tìm một vài món có giá trị thương
mại thì thật dễ. Và làm mất vĩnh viễn tất cả dấu
vết quá khứ lịch sử tiền nhân.
Để hình dung phần nào mỹ thuật
của người cổ Sa Huỳnh, xin quý độc giả xem hai
trang 14,15 tập hợp hình những hạt chuỗi và
khuyên tai đủ kiểu đủ loại đẹp độc đáo, kỷ vật
của hai ngàn năm trước. Đó là những đồ táng
thuộc di tích Gò Mùn (gần thị trấn Ái Nghĩa),
nơi có nhiều đồ quý bị đánh cắp đem bán trong
các cửa hàng đồ cổ tại Đà Nẵng, nghĩa là chúng
ta sẽ không bao giờ tìm lại được chúng nữa !
Đồ trang sức bằng đá quý
(nephrite) đặc trưng cho văn hoá Sa Huỳnh tìm
thấy ở Gò Mun:
 |
 |
Khuyên tai hình hai đầu
thú (loài nai muntjac ở VN thời tiền sử)
|
Khuyên tai đẽo thành nhiều
(hai đến bốn) mũi nhọn |
 |
 |
Hạt chuỗi bằng thuỷ tinh cristal trong
suốt (có lẽ xỏ xâu đeo) |
Chum táng đặc trưng Sa Huỳnh bằng đất
nung. Hình cho thấy chum đang phát hiện,
còn chôn trong đất, phần miệng bị bể,
bên trong có vật táng. |
cho biết vị trí di tích Gò Mả Vôi và những khu
mộ chum trên những gò kế cận. Ảnh chụp cho thấy
gò là các dải cồn cát hơi cao, cách nhau bằng
những hàng ruộng hẹp, với những hố có cận ảnh mộ
chum.
Việc khai quật được giới hạn
trong khu mộ Gò Mả Vôi và Gò Miếu Ông. Toàn bộ
di vật tìm thấy trong đợt khai quật này được
miêu tả trong chương chính của sách,
Danh mục hiện vật. Khu
mộ này do dân địa phương phát hiện, và phòng văn
hóa- Thông Tin- Thể Thao huyện Duy Xuyên đào
"chữa cháy" khoảng 30 mộ chum. Vì khai quật
không do các nhà chuyên môn thực hiện nên đồ vật
thì còn, mà mất đi những dữ kiện cho phép dựng
lại mối liên hệ giữa các hiện vật qua vị trí
chúng trong từng mộ. May thay, sau đó, ngành
khảo cổ đào được ba chum lớn nằm tại ba góc
trong một hố vuông cạnh bốn thước. Một chum còn
nguyên, trừ chiếc nắp bị vỡ khiến đồ gồm đặt
trên nắp và miệng chum rơi vào trong. Trong chum
còn có lao đồng , "chàng" và xà beng bằng sắt đã
hoen rỉ … Xương cốt hầu hết đã mục nát.
Toàn thể di vật như chum trong hố
và chum tái tạo (với mảnh vỡ ghép lại) được khảo
sát, miêu tả tỉ mỉ : nồi gốm đáy bầu làm bằng
đất đen hay nâu, chân đế, bát bồng ( có chân) ,
mâm bồng (hình loe rộng, trẹt, có chân ), bình
và cốc bằng đồ gốm. Đồ gốm là hiện vật tiêu biểu
các nền văn hóa : người ta định mối liên hệ giữa
các món đồ tìm được ở những nơi khác nhau qua
hình dáng, kiểu cách, kỹ thuật và mỹ thuật các
hoa văn trang trí . Vì thế nên hoa văn được tác
giả tả tỉ mỉ về dạng (kích thước, bề dày gốm,
đặc điểm hình học), kỹ thuật trang trí và nơi
trang trí trên đồ vật.
Sách cho thấy người Sa Huỳnh dùng
rất nhiều kỹ thuật trang trí như tô ánh chì, tô
màu nâu đỏ, khắc lõm chấm, vạch, hình chân chim
hay đường chỉ, miết láng gốm từng phần, làm gờ
nổi, hình chìm do mép vỏ sò ấn xuống, vết chải
bằng một loại dụng cụ tạo hàng vạch, bàn đập
khắc vạch chéo hay bện thừng. Sự phối hợp hình
dạng, kỹ thuật và mỹ thuật cho thấy đồ vật bằng
gốm của văn hóa này phong phú và khác với đồ gốm
văn hóa Đông Sơn và tiền Đông Sơn. Tuy một số đồ
gốm cũng có hoa văn khắc thành dải băng, hình
với vạch, rãnh, hình lượn sóng, dải chữ S, nhưng
lối phối hợp thành hình khác hẳn mỹ thuật Đông
Sơn. Tuy ảnh chụp đã khá rõ, các tác giả còn vẽ
lại hình hoa văn bằng màu. Bên cạnh những đồ gia
dụng kể trên còn có nhiều dọi se chỉ bằng gốm,
trên một số có khắc hoa văn.
Trong các hiện
vật có một số dụng cụ kim loại, đa số
bằng sắt. Đó là một đặc điểm khác của dụng cụ và
vũ khí Sa Huỳnh so với di vật, đa số bằng đồng
thau, của văn hóa Đông Sơn.
Rìu, lao đồng tuy cũng có nhưng
không đa dạng bằng đồ sắt. Đáng chú ý hơn hết
theo tôi, là các đồ trang sức bằng đá quý, và
nhất là đồ thủy tinh. Những món nầy không những
đẹp vì hình dáng và loại đá, mà còn quý báu vì
cho thấy trình độ kỹ thuật của cư dân Sa Huỳnh,
và vài nét xã hội cổ ở đấy.
Trình độ làm đồ trang sức bằng
thủy tinh của người Sa Huỳnh đã đạt mức độ cao
đến nỗi người ngày nay phải kinh ngạc. Hình chụp
cho thấy vòng tay, hạt chuỗi to nhiều kiểu, và
cả khuyên tai đặc trưng Sa Huỳnh mà trước đây
người ta đã tìm đưiợc nhiều cái bằng đá rải rác
từ Trung vào đến Nam Việt Nam. Các nhà khảo cổ
mới đây cho biết đã tìm thấy tại khu mộ chum Lai
Nghi (trong cùng vùng, gần Hội An) hơn ba ngàn
hạt chuỗi đủ loại, cùng một cục thuỷ tinh nguyên
liệu. Vào tháng 6 năm 2003, các nhà khảo cổ Việt
Nam phát giác thêm vô số hạt cườm li ti tại
Động Cườm, ở xã Tăng Long ven biển xứ dừa Tam
Quan. Sự hiện diện của thuỷ tinh nguyên liệu
dùng để nắn thành đồ vật gợi ý rằng đồ trang sức
được làm ngay tại vùng văn hóa Sa Huỳnh, chứ
không phải từ ngoài du nhập vào.