Sau 2.000
năm nước mất nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới
và thường trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy
người Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được
đất tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ
từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống nhất
một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?
Trong bài nầy tôi chủ quan chỉ lược soạn những điều hay của họ, còn những
điều kém hay, đặc biệt kể từ sau 1967, tôi trộm nghĩ trong lúc nầy chúng ta
chưa cần phải học mặc dù tôi hằng tâm đắc câu"kỳ bất thiện giả nhi cải
chi"của Khổng Tử.(1)
1/ Dân tộc Do Thái
Thủy tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu (2),
thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo thân
phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho chọn đất
nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ thực sự được
gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai của Abraham là
Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình Ai Cập nên toàn thể
độ 70 người trong tộc Abraham đều theo Joseph qua Ai Cập sinh sống.
Vào năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không
thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô dịch.
Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.
Gông cùm nô dịch kể trên kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là
một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào ông, ông
cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ họ.
Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông di cư về Đất Hứa.
Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm. Truyền rằng chính nơi đây,
được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể hoá ý thức tôn giáo nhất thần
của Abraham thành Do Thái Giáo, có cơ sở hẳn hòi: Thờ Jahvé, một thượng đế
toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí công và là người tạo ra trời đất cùng
muôn loài.(3)
Thánh Kinh Do Thái (La Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và
bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song một
ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là người
hoà giải Jahvé với nhân loại.
Người trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa
tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa duy
nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được nói dối,
phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch ... Ngày thứ bảy trong mỗi tuần là
ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều phải đình lại.
Dân tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ Josué,
đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu Israël mới về
đó định cư chính thức. Sau, David chiếm trọn đất Canaan, dựng đô ở
Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem (có nghĩa là
Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc gia Do Thái mới
toàn thịnh.
Năm 930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël
ở phía bắc và Judée ở phía
nam. Nam bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị
Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.
Tới khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại xứ,
xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỹ.
Rồi tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem
thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do Thái
mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng
khiếp từ thời đó cho tới năm 1948, tây lịch.
2/ Bước đường lưu vong
Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn
một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân
cũng nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ
vẹt đặc thù của họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh
vượng hơi quá lộ liễu của họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó
và cũng hy sinh tính mạng những khi hữu sự y như người bản xứ. (4)
Xin lược kể ra đây một vài trường hợp khinh ghét oái oăm mà người Do Thái
phải hứng chịu tại các nước đạo Hồi:
• Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX tây lịch, người Do Thái chẳng khác gì hạng
tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một
vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm
triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng ... Lúc trời mưa,
họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự
như các ghetto ở Âu Châu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và
tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus
(tiền Ba Tư).
• Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân dù
họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc
muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu
ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.
• Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt
người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày
thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt,
mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm
quyền cho chúng theo Hồi giáo.
Thân phận người Do Thái ở Âu Châu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân
phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi
khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa
hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc
hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên
đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên
thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất
động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá
điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay (5).
Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở
Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính
sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh
Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo, trong khi ở châu
thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm ít nhất 30% tổng số
dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống chung gần như trong các
ghetto của Đức, của Ba Lan.
Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải
thốt ra câu nầy: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa
giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo
ngoan đạo".
Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI
trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì
chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.
3/ Kỳ thị tôn giáo
Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý
bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11
thế kỹ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội
phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên
đạo tặc.
• Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do Thái
bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên
Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.
• Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu duệ
của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa"
xin Cha - Thượng Đế - tha thứ cho
họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha, nhưng đời đời kiếp
kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với Chúa, không tha, quyết
diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân xác xuống trần.
Mà thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là"đồng bào ruột thịt"vì Đức
Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo những điều
luật của Moïse, cũng dân Do Thái nốt.
Còn nhiều, rất nhiều cuộc tàn sát Do Thái khác trước đệ nhị thế chiến nhưng
vì không tiện liệt kê cả ra đây. Chúng ta hãy biết rằng năm 1905, Nga thua
Nhật ở eo bể Đối Mã, cách mạng nổi lên ở Nga và dân Nga lại trút hết tội lỗi
lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10
(1905) và vào năm 1919-1921 đã có trên 10 vụ pogrom.
4/ Kỳ thị chủng tộc
Trước kia
người ta giết Do Thái một cách thô bạo, dã man. Đến thế chiến thứ hai, Đức
Quốcc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có
chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái chết như rạ, dầu Néron, Tần
Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không cúi đầu chịu thua trên phương
diện lượng và phẩm khủng khiếp.
Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế
kỹ dù sao cũng phải lụi
phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận
diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc
của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây"
(Espèces en
Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển
Carl Linné
(1707-1778). Từ hệ tống phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới
loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi
da đen bạc nhược (6) và giống Mỹ da đỏ nóng nảy.
Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái – vàng
chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng – có máu quỉ quyệt
phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết cộng sản của Marx, gốc Do
Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của
giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất
thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai
bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức) phải tận diệt chúng
(tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.
Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị
Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò
thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây
ma Do Thái.
Hai chữ Do
Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết thống, sau
2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời rồi. Cho nên có
đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do Thái Ý, Do Thái Anh,
Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ, Do Thái Đức, Do Thái Ba
Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha, Do Thái Ả Rập (Iran, Irak ...,
Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte – Ai Cập ...), Do Thái Áo, Do Thái
Phi châu da đen ... và cả Do Thái Tàu. (7)
Tóm lại trên phương diện địa lý-văn hoá, giữa người Do Thái với nhau có sự
phân chia đại cương thành 2 nhóm: Ashkénaze và Séfarade. Ashkénaze = Do Thái
gốc Nhật nhĩ man (germanique: Đức, Anh, Hoà Lan... và mấy nước Bắc Âu) và Tư
lạp phu (slave: Nga, Biélorusses, Ba Lan, Ukraines, Serbes, Croates,
Slovaques, Tchèques...); Séfarade = Do Thái gốc Địa Trung Hải
(méditerranéens: chủ yếu là Cận Đông, Bắc Phi và Tây Á).
--------------------------------------
Chú thích
(1) Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên, trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi, kỳ
bất thiện giả nhi cải chi = Ba người đi (hai người nữa với ta) tất có hai
người làm thầy ta vậy lựa người thiện mà theo (noi gương), người bất thiện
mà sửa mình.
(2) Hébreu = ở bên kia sông Euphrate.
(3) Xin đọc thêm Exodus của Léon Uris.
(4) Vài danh nhân Âu Mỹ gốc Do Thái:
• Khoa học: Albert Einstein, Jacob Oppenheimer, Chaïm Weizmann
• Triết học: Karl Marx, Sigmund Freud, Baruch Spinoza, Henri Bergson.
• Văn học: Heinrich Heine, Marcel Proust, Frank Kafka, André Maurois.
• Chính trị: Benjamin Disraeli, Léon Blum, Pierre Mendès-France, Léon
Trotsky.
(5) Thời trước, giáo hội Ki Tô cấm tín đồ cho vay lấy lời nên nghề sét-ti,
nghề ngân hàng gần như thành độc quyền cha truyền con nối của người Do Thái.
Thí dụ, giòng họ Rothschild giàu nhất Âu châu nhờ nghề làm chủ ngân hàng.
(6) Nếu ông Linné còn sống, chắc chắn ông ta phải đặt lại vấn đề"bạc
nhược"của giống da đen vì từ trước thế chiến thứ hai đến nay, trong mọi bộ
môn thể thao, dân da đen thường lãnh huy chương vàng về cho các xứ ... da
trắng.
(7) Đọc Les Juifs en Chine của Sidney Shiparo, Hipocrene, NY.
5/ Phục Quốc
Bao
lần quật khởi đẩm máu, người Do Thái vẫn không tránh được cảnh nước mất nhà
tan, người người phân tán trên khắp địa cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng
bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng
đau đáu trong lòng. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Cát Lợi Byron
buột miệng than"Dân Do Thái khổ hơn những con thú không có hang".
Dù ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre ... người Do Thái luôn
luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà,
nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được Chúa
trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm về
Jérusalem.
Nói đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore
Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang tựa
đề "Quốc Gia Do Thái"
(L'Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay thân phận
hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.
Théodore Herzl sinh năm 1860 tại Budapest (Hung Gia Lợi), viết báo, soạn
kịch và hành nghề ký giả. Nhân vụ án Alfred Dreyfus, một sĩ quan gốc Do
Thái-Alsace trong quân đội Pháp, làm sôi nổi dư luận Âu Châu năm 1894, Herzl
được toà báo Neue Freie Press (tân Tự Do) phái tới dự thính vụ xét xử và lột
lon Dreyfus (ngày 15/01/1895) trước công chúng Pháp để viết bài tường thuật.
Sĩ quan Dreyfus bị Bộ Quốc Phòng Pháp ngờ cho là gián điệp của Đức, bị toà
xử tội đày. Dreyfus một mực kêu oan. Nét mặt ông khi ra toà tại Rennes thật
thảm thương, chân thành, gây lòng trắc ẩn cho
một số người trong đó có văn
hào Emile Zola (1840-1902) và ký giả Théodore Herzl.
Nghiệm thấy chứng cớ xử
tội Dreyfus không đứng vững và tin rằng Dreyfus bị hàm oan, Emile Zola
bèn
can đảm viết loạt bài bất hủ nhan đề "Tôi Buộc Tội"
(J'accuse) trên tờ
l'Aurore (01/1898) để buộc chính phủ Pháp xét lại trường hợp của Dreyfus.
Bảy năm sau, có đủ tài liệu chứng minh sự vô tội của Dreyfus, toà phá án và
tha bổng Dreyfus. Song sau 12 năm nằm tù một cách oan uổng, Dreyfus đã hoá
ra con người bỏ đi.
Chính nỗi bất công mà Dreyfus phải hứng chịu đã thay đổi hẳn một người đồng
chủng của ông là Théodore
Herzl. Nỗi oan uổng đó đã làm Herzl gậm nhấm
rằng "chỉ vì lỡ sinh ra là người Do Thái như mình mà Dreyfus phải bị tội
oan". Cái án Dreyfus ám ảnh ông khôn nguôi và non một năm sau, ông viết một
cuốn sách nhỏ tựa đề "Quốc Gia Do Thái", xuất bản tại Vienne (Áo) năm 1896.
Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong sách có đoạn viết
"người Do Thái nào
muốn có một quốc gia của mình thì sẽ có một quốc gia và xứng đáng được có
quốc gia". Ấy vì "chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề Do Thái
phải do người Do Thái giải quyết lấy".
Herzl hoạt động hăng say
không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các nhân vật có thẩm quyền
lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông xứ Ouganda ở trung bộ Phi
Châu, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập quê hương Do Thái, nhưng các
người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống
đầu tiên của Israël - nhất định không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine
cho bằng được.
Quá lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên lạc
với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne (Áo) năm
1904 hồi mới 44 tuổi.
Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh
quốc vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô
cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất cốt
yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác học Anh
gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ hội, chế biến
được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm 1918. Đế quốc
Ottoman sụp đổ. Thực dân Anh cưỡng chiếm Palestine.
6/ Xin lưu ý:
Palestine không phải là một quốc gia mà là một vùng đất mênh mông thuộc
đế quốc Ottoman, 1453-1917. Đệ nhất thế chiến chấm dứt năm 1918, thực dân
Pháp "được ủy nhiệm "vùng Bắc Phi" (Maroc, Algérie, Tunisie, Libye) và bắc Cận
Đông (Syrie và Liban). Palestine nằm dưới sự "ủy nhiệm"
của thực dân Anh, nơi
đây gồm các tộc Ả Rập Hồi, Thiên Chúa Giáo và Do Thái được gọi chung là
Palestiniens (cư dân vùng Palestine).
Để thưởng công ông, thủ tướng Anh Lloyd George tặng ông một chi phiếu ký tên
nhưng để trống số tiền. Ông từ chối và nói "xin thủ tướng hứa với tôi là sẽ
dùng hết uy quyền của thủ tướng để cho đất Palestine được trả lại cho người
Do Thái chúng tôi".
Quê hương Do Thái được thành lập vào năm 1922 nhưng bị đặt dưới quyền bảo hộ
của Anh, tức là có tiếng mà không có miếng (Tuyên ngôn Balfour ngày
02/11/1917) (**).
Năm 1938, trước khi chấm dứt thế chiến thứ 2 (1939), thực dân Anh đề nghị
chia khoảng 30% lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Ả Rập và một Do
Thái, nhưng sự việc không thành.
Phải đợi đến cuối thập niên 1940 quốc gia Do Thái mới thành một thực tại độc
lập. Trong thế chiến thứ hai, một lần nữa người Do Thái đã anh dũng chiến
đấu phía đồng minh, đặc biệt bên cạnh Anh (1) mặc dù người Anh đã một lần
xảo quyệt phụ rẫy công lao của họ (cho đất mà không cho quyền tự trị).
Khi chiến sự kết liễu, hy vọng độc lập của người Do Thái lại bay theo khói
súng. Công chung sức diệt Đức Quốc Xã của họ không được Anh đếm xỉa tới. Sự
kiện nầy trách Anh là chuyện thừa vì sự thành lập một quốc gia Do Thái độc
lập ảnh hưởng đến lẽ sống chết của Anh: các mỏ dầu hỏa của Anh nằm hết bên
các xứ Ả Rập – Ai Cập, Syrie, Ả Rập Séoudite, Cisjordanie - những quốc gia
tử thù truyền kiếp với Do Thái.
Nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, ngày 29/11/1947, tán thành giải pháp chia
đôi toàn bộ lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Do Thái (56,47%) và
một Palestine (43,53%). Thánh địa Jérusalem có một quy chế đặc biệt dưới sự
bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Khối Ả rập không chịu, đặc biệt người Palestine,
viện cớ không được tham vấn trong việc phân chia.
Dầu vậy, ngày 14/05/1948, dưới sự lãnh đạo của David Ben Gourion
(1886-1973), quốc gia Do Thái được thành lập. David Ben Gourion đọc bản
Tuyên Ngôn Độc Lập:
"Đất Israël là nơi sinh ra dân tộc Do Thái". Chính nơi đó đã đặt nền móng cho
bản sắc tâm linh, tín ngưỡng và dân tộc của người Do Thái. Chính nơi đó dân
tộc Do Thái đã thực hiện nền độc lập của mình và đã tạo nên một nền văn hoá
có ý nghĩa quốc gia và phổ biến. Chính nơi đó họ đã soạn ra bản Thánh Kinh
và đã cống hiến cho thế giới.
Bị bức bách phải lưu xứ, tản mác trong mọi quốc gia khác, dân tộc Do Thái
vẫn thủy chung với vùng đất Israël, chưa bao giờ họ ngưng nguyện cầu và
ngưng hy vọng trở về để tái lập nền tự do quốc gia của mình.
Thúc đẩy bởi sự liên hệ lịch sử đó, người Do Thái đã đấu tranh qua bao thế
kỹ để được trở về trên mảnh đất của tổ tiên và tìm lại xứ sở của mình. Qua
mấy thập niên gần đây, người Do Thái đã trở về hàng loạt, khai khẩn các vùng
đất hoang, tái sinh ngôn ngữ, xây dựng các thành phố, các thôn làng và sắp
đặt một cộng đồng năng động và tràn đầy phát triển, có đời sống riêng về
kinh tế và văn hoá. Họ cầu tìm hoà bình đồng thời sẵn sàng để tự vệ. Họ đã
mang lại nhiều lợi ích trong tiến bộ cho mọi cư dân trong xứ và đã được
chuẩn bị cho nền độc lập tối cao.
Năm 1897, hội nghị Sionisme [chủ nghĩa người Do Thái tự trị] lần thứ nhất,
cảm hứng từ dự phóng một quốc gia Do Thái của Théodore Herzl, đã công bố
quyền của dân tộc Do Thái trong mùa xuân mới dân tộc trên chính quê hương
của họ.
Quyền đó đã được bản Tuyên Ngôn Balfour công nhận ngày 02 tháng 11 năm 1917
(**)
và được Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc] tái xác định, do đó đã thành sự công
nhận quốc tế chính thức về mối liên hệ lịch sử của dân tộc Do Thái với vùng
đất Palestine và quyền tái lập quê hương của họ.
Thảm hoạ Shoah (1) đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái tại Âu Châu, thêm
một lần nữa chứng minh nhu cầu phải giải quyết vấn đề thiếu tổ quốc và độc
lập của dân tộc Do Thái bằng sự tái lập quốc gia Do Thái hầu mở cửa cho mọi
người Do Thái và trao cho họ một quy chế bình đẳng trong lòng cộng đồng các
quốc gia.
Những người sống sót trong cuộc thảm sát tại Âu Châu cũng như những người Do
Thái từ các quốc gia khác không hề buông bỏ sự cố gắng của họ để tìm về
Israël, bất chấp mọi khó khăn, mọi trở ngại, mọi tai ương; và họ không ngưng
đòi hỏi quyền có một đời sống có phẩm cách, có tự do và có công ăn việc làm
liêm chính trên mảnh đất của tổ tiên họ.
Trong thế chiến thứ 2, sát cánh với các quốc gia yêu chuộng tự do, cộng đồng
Do Thái Palestine đã đóng góp trọn vẹn phần mình trong chiến đấu chống lại
ách Đức Quốc Xã. Với những hy sinh của quân sĩ và những cố gắng của họ trong
chiến tranh, người Do Thái xứng đáng được có mặt giữa những quốc gia sáng
lập Liên Hiệp Quốc.
Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Hội Đồng LHQ đã tán thành một nghị quyết về việc
tái lập một quốc gia Do Thái tại Palestine.
Hội Đồng đã yêu cầu cư dân trong xứ dùng mọi phương sách cần thiết để thực
thi nghị quyết đó. Sự công nhận của LHQ về quyền của dân tộc Do Thái được
phép tạo dựng một quốc gia độc lập cho họ [là sự công nhận] không thể vãn
hồi.
Đó là quyền tự nhiên của dân tộc Do Thái, cũng như mọi quốc gia khác đã làm,
hướng tới một hiện hữu độc lập trong đất nước tối thượng của họ.
Vì thế, chúng tôi, các thành viên trong Hội Đồng Quốc Gia, đại diện cho cộng
đồng Do Thái Palestine và phong trào Sionisme Thế Giới, họp mặt trong đại
hội long trọng hôm nay – ngày chấm dứt sự ủy nhiệm của người Anh tại
Palestine - bằng vào quyền tự nhiên và lịch sử của dân tộc Do Thái và chiếu
theo nghị quyết của Hội Đồng LHQ, chúng tôi công bố việc thành lập một quốc
gia Do Thái tại Palestine, [quốc gia đó] sẽ có tên là Israël.
Chúng tôi tuyên bố rằng kể từ khi chấm dứt sự ủy nhiệm, vào nửa đêm ngày 14
tháng 05 năm 1948, và cho đến khi các cơ quan nhà nước thường trực được bầu
chọn đúng theo bản hiến pháp sẽ được hoàn chỉnh bởi một hội đồng từ nay cho
đến ngày 01 tháng 10 năm 1948, Hội Đồng Quốc Gia sẽ hành động với tư cách
Hội Đồng Tham Chính Lâm Thời và nền hành chính trong nước sẽ thi hành nhiệm
vụ của một chính phủ lâm thời của quốc gia Do Thái tên gọi là Israël.
Quốc gia Israël (QGI) sẽ mở cửa đón nhận mọi con dân Do Thái tản mác trên
thế giới; QGI sẽ lưu tâm đến sự phát triển đất nước vì phúc lợi của mọi cư
dân trong xứ; QGI sẽ được đặt nền tảng trên các nguyên tắc của Tự Do, Công
Bằng và Hoà Bình đúng theo những gì mà các vị tiên tri Israël đã cưu mang;
QGI sẽ bảo đảm sự bình đẳng toàn diện về xã hội và chính trị cho mọi công
dân, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc hay giới tính; QGI sẽ bảo đảm tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, giáo dục và văn hoá; QGI sẽ bảo đảm việc bảo vệ các
thánh địa của mọi tôn giáo và sẽ tôn trọng những nguyên tắc trong Hiến
Chương LHQ.
QGI sẵn sàng hợp tác với các tổ chức và đại diện của LHQ để thực thi nghị
quyết đã được biểu quyết bởi Hội Đồng ngày 29 tháng 11 năm 1947 và dùng mọi
phương sách cần thiết hầu đặt để sự Liên Kết Kinh Tế trên toàn lãnh thổ
Palestine.
Chúng tôi yêu cầu LHQ giúp đỡ dân tộc Do Thái tạo dựng đất nước họ và thừa
nhận Israël trong gia đình các quốc gia.
Là nạn nhân của sự công kích đặc trưng, tuy vậy chúng tôi yêu cầu các cư dân
Ả Rập [sinh sống] trên đất nước Israël hãy dự phòng những đường hướng hoà
bình và đóng góp vai trò của mình vào việc phát triển đất nước trên căn bản
công dân đầy đủ và bình đẳng và tư cách thích đáng trong các cơ quan và học
viện – lâm thời và thường trực - của xứ sở.
Chúng tôi dang tay, với biểu hiện hoà bình và láng giềng tốt, hướng tới mọi
quốc gia và dân tộc bao quanh chúng tôi và chúng tôi kính mời họ đến hợp tác
với quốc gia Do Thái độc lập vì điều tốt đẹp chung cho tất cả. QGI sẵn sàng
góp phần mình vào sự tiến bộ của Cận Đông và trong toàn thể.
Chúng tôi yêu cầu con dân Do Thái trên thế giới hãy sát cánh với chúng tôi
trong trọng trách hồi cư và phát triển cũng như hãy giúp chúng tôi trong
cuộc tranh đấu thực hiện lại giấc mơ của bao thế hệ đã trôi qua: Chuộc lại
Israël.
Vững tin vào đấng vĩnh hằng toàn năng, chúng tôi ký bản Tuyên Ngôn nầy trong
phiên họp của Hội Đồng Quốc Gia Lâm Thời, trên bờ cõi của tổ quốc, trong
châu thành Tel Aviv, rạng ngày lễ Shabbat, 5 Iyar 5708 tức ngày 14 tháng 05
năm 1948."
(Hàn Lệ Nhân tạm dịch theo bản tiếng Pháp, mong các bạn hoàn chỉnh cho)
Nguyên tác có ở đây:
http://www.mfa.gov.il/MFAFR/MFAArchive/1900_1949/La%20Declaration%20d-Independance%20d-Israel
http://www.mfa.gov.il/mfa/history/modern%20history
/israel%20at%2050/the%20declaration%20of%20the
%20establishment%20of%20the%20state
-------------------------------------
Chú thích
(1) Sau chiến tranh, toà án Nuremberg đã định nghĩa việc thảm sát người Do
Thái như một cuộc diệt chủng (génocide). Ngay sau đó, các tác giả Mỹ đã gọi
sự kiện nầy bằng từ"Holocaust"(lễ hiến vật). Nhưng từ nầy tạo thành vấn đề
đối với người Do Thái vì nó ngụ ý hy sinh: tiêu diệt người Do Thái không thể
là hiến tế lên Thượng Đế. Do đó, người Do Thái tại Âu châu chủ trương dùng
từ Shoah (hay Shoa) theo tiếng Hébreu có nghĩa là Thảm Hoạ (catastrophe) hay
Judéocide (Thảm sát người Do Thái). Ngày 16 tháng 07 mỗi năm là ngày tưởng
niệm Shoah.
7/ Kiến Quốc
Giành được nền độc lập
không có nghĩa quốc gia Do Thái sẽ được sống trong hoà bình để kiến thiết
khi chung quanh họ các nước thù địch trong Liên Đoàn Ả Rập (được thành lập
từ 1945) vẫn nhất quyết tận diệt họ. Hơn nữa, như chúng ta đã biết, có quá
nhiều khác biệt trên mọi phương diện giữa người Do Thái với nhau và vùng đất
mới được độc lập của họ vốn đã "chết"
quá lâu, ảnh hưởng rất nhiều đến lẽ sinh
tồn của họ.
Công việc đầu tiên mà Bộ Quốc Gia Giáo Dục Istaël gấp rút xúc tiến sau ngày
14/05/1948 là thống nhất tiếng Hébreu thành quốc ngữ. Thật vậy, sau 2.000
năm phiêu bạt khắp hoàn cầu, con cháu Abraham không những đã mất đi ít nhất
99% huyết thống chính tông trong người mà tiếng mẹ đẻ chẳng còn mấy người
nói được. Thời mới phục hồi nền độc lập, dân số Israël được hơn một triệu
gồm trên 50 giống người và mỗi giống mỗi ngôn ngữ, mỗi nếp sống, mỗi trình
độ văn minh, văn hoá.
Để thống nhất ngôn ngữ, BQGGD Israël cưỡng bách mọi công dân Israël phải học
tiếng Hébreu, soạn những sách phổ thông dạy từ 500 đến 1.000 tiếng căn bản
để sau vài tháng dân chúng có thể đàm thoại với nhau được. Đồng thời Bộ còn
cho dịch những danh từ mới về mọi ngành ra tiếng Hébreu để cho soạn sách từ
cấp tiểu học đến đại học, tìm trong Thánh Kinh những chuyện cổ để dịch ra
những ý niệm mới.
Vậy mà trong vòng 10 năm sau, ngành giáo dục của họ đã bắt kịp các nước tân
tiến nhất. Ngôn ngữ mới được hồi sinh mà con cháu Abraham đã muốn tranh
giành ảnh hưởng với các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức !
Hai đại học lớn nhất tại Israël là đại học Jérusalem gồm đủ phân khoa và
Viện Công Nghệ, nơi đào tạo các kỹ sư đủ mọi ngành, đặc biệt ngành canh nông
và kỹ nghệ. Ngoài ra còn có một viện chuyên về nghiên cứu là Viện Khoa Học
Weizmann – tên vị tổng thống đầu tiên của họ - ở Rehovoth với những ngành
như vật lý, hạch tâm, điện tử, vi trùng học, vật lý thực nghiệm ..., một đại
học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học khác khắp nước.
Tân tiểu quốc Israël nằm trên bờ Địa Trung Hải, phía bắc giáp Liban và
Syrie, phía đông giáp Jordanie, phía tây nam giáp Ai Cập, phía cực nam giáp
Hồng Hải.
DIỆN TÍCH (2004): 20.770 cây số vuông (7.477 cs vuông là đất chiếm đóng sau
1948).
với nhiều miền khí hậu khác hẳn nhau. Họ nhất quyết muốn lấy thánh địa
Jérusalem làm thủ đô nhưng cho đến nay (2005), vì vấn đề Palestine, chỉ có
hai quốc gia trên thế giới công nhận Jérusalem là thủ đô của Israël, đó là
Salvador và Costa Rica. Do đó, trong mắt thế giới, châu thành ven biển tân
tiến và rộng lớn Tel Aviv được coi như thủ đô tạm thời. Tel Aviv có nghĩa là
Đồi Xuân. (Tôi đã sửng sờ, kinh ngạc xiết bao khi tận mắt nhìn thấy một Tel
Aviv huy hoàng, hiện đại chẳng kém Nice, Cannes của Pháp tí nào và ghê cho
sự năng động, quyết tâm của họ).
Các thành phố chính khác: Haïfa, Rishon Le-Zion, Petah Tiqwa, Ramat Gan,
Beercheba, Nazareth.
DÂN SỐ: 6.559.000 người (2004)
trong đó có khoảng 19% là người Ả Rập (1,2 triệu), số còn lại gồm 53 thứ Do
Thái từ khắp nơi tụ về. Xin lưu ý, từ khi thành lập quốc gia Israël (1948)
người Do Thái ở trong nước được gọi là Israéliens / Israelis (công dân quốc
gia Israël) để phân biệt với những người Do Thái ở hải ngoại (Juifs / Jews).
TỔNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA: 120.900.000.000 US$ (2003)
THU NHẬP BÌNH QUÂN NGƯỜI / NĂM: 19.800 US$ (2003)
TIỀN TỆ: Shekel, ký hiệu: NIS (New Israeli Shekel)
1 NIS = 0,18€ / 0, 22 US$ - 1 € = 5, 74 NIS; 1 US$ = 4, 54 NIS (17/07/2005)
NGÔN NGỮ CHÍNH THỨC: Tiếng Hébreu và tiếng Ả Rập. Ngoại ngữ thông dụng là
tiếng Anh và tiếng Pháp.
CHÍNH THỂ: Cộng Hoà Đại Nghị. Đa đảng (13 đảng). Hai đảng lớn mạnh nhất hiện
nay là Đảng Lao Động (tả phái) và Đảng Likoud (hữu phái) đang nắm quyền.
Quốc hội (Knesset) gồm 120 nghị viên, có nhiệm vụ biểu quyết quyền lập pháp
và kiểm soát chính phủ.
Tổng thống do quốc hội bầu ra, nhiệm kỳ 7 năm (trước chỉ 5 năm), mang tính
cách biểu tượng, rất ít thực quyền. Tổng thống chỉ định thành phần trong tối
cao pháp viện, nhiệm kỳ suốt đời (trong thực tế việc chỉ định nầy phải thông
qua và có sự chấp thuận của quốc hội).Thủ tướng thường là người lãnh đạo
đảng có số phiếu cao tuyệt đối hay liên minh đa số ghế trong quốc hội. Thủ
tướng nắm quyền hành pháp, trực tiếp lãnh đạo đất nước, nhiệm kỳ 4 năm,
nhưng khi hữu sự đa số trong quốc hội có quyền biểu quyết bải nhiệm thủ
tướng trước hạn kỳ. Ví dụ: Tháng 11 năm 1995, thủ tướng Yitzhak Rabin bị ám
sát, ông Shimon Peres lên thay nhưng chỉ 6 tháng sau, ông bị đa số trong
quốc hội bỏ phiếu bất tính nhiệm, tổ chức bầu bán trước hạn kỳ, ông Peres
thất cử, ông Benjamin Netanyahu lên nắm quyền (29/05/1996).
QUỐC KỲ hiện hành của Israël vốn là biểu tượng của phong trào Sionisme từ
thế kỹ 19. Nền trắng. Trung tâm là hình sao David sáu cánh với hai gạch màu
xanh dương nằm ngang trên và dưới.
QUỐC KHÁNH: 14/05.
QUÂN DỊCH: Công dân Israël từ 17 tuổi bất luận nam hay nữ ở trong hay ở
ngoài nước: Nam: 3 năm toàn thời gian; Nữ: 2 năm toàn thời gian và sau đó 1
tháng dự bị mỗi năm (nam hay nữ khi còn độc thân).
QUÂN ĐỘI: 173.000 lính tại nhiệm + 425.000 dự bị = 598.000 (2002).
Israël chưa có văn bản chính thức về hiến pháp. Mọi điều hành của chính phủ
thường dựa vào các điều luật của quốc hội, các quy ước lập hiến và bản tuyên
ngôn độc lập của quốc gia Israël (1948).
Theo tôi, không phải vô tình mà Israël chưa"có nổi"một bản hiến pháp chính
thức đâu mà hậu ý là muốn cô lập hay vô hiệu hoá cộng đồng thiểu số Ả Rập
(1,2 triệu) trên mặt chính trị đối nội lẫn đối ngoại, ít ra cho đến khi
Israël giải quyết êm thấm và bền vững được xung đột với Palestine và khối Ả
Rập. Chưa có hiến pháp chính thức thì nhóm chủ thể Ashkénaze dễ dàng nắm
trọn quyền điều hành đất nước. Ý kiến về bản hiến pháp đã được nêu ra, đòi
hỏi cũng đã được lên tiếng, kêu gào từ nhiều năm qua, nhưng, viện cớ còn
chiến tranh, Knesset"xin ghi nhận và đang nghiên cứu".
Việc kiến thiết tân quốc gia Israël, xét chung, người dân phải bắt đầu từ
con số không. Ở đây, tôi chỉ xin đơn cử vài thí dụ điển hình mà theo tôi tóm
gọn được nổ lực siêu phàm san bằng những trở ngại thiên nhiên của họ. Đó là
sự phát triển kinh tế trên bãi sa mạc Neguev,"kẻ thù số một phải khuất phục
của Israël"theo lời bà Golda Meir, thủ tướng Israël, 1969-1974).
Sa mạc Neguev (Neguev = Phía Nam) rộng hơn phân nửa diện tích toàn xứ Israël
(13.000 cs vuông), nằm phía nam châu thành Tel Aviv, đỉnh cực nam là Hồng
Hải với thành phố biển Eilat. Trước thế chiến vừa qua, Neguev hoàn toàn
hoang vu khô cháy, lồi lõm. Văn minh tiến bộ như thực dân Anh mà còn chịu
thua, không sao khai thác được.
Theo tôi, có hai nguyên nhân sâu xa khiến chính phủ Israël phải khai phá
vùng cát"chết"nầy. Một là để nuôi dân: đất đai thì hẹp mà dân số tăng rất
nhanh (qua các phong trào hồi hương tập thể). Hai là để củng cố mặt quốc
phòng: không để khoảng đất rộng nào không có người ở hầu tránh sự xâm nhập
của kẻ thù.
8/ Chiến thắng sa mạc
Thường tình người ta chỉ
tính năng suất của đất đai theo diện tích, có nghĩa là mức sản xuất hàng năm
được bao nhiêu mỗi héc-ta. Riêng tại Israël thì sự tính toán hơi lạ đời vì
dân ở đây tính năng suất theo ... khối nước tưới ! Mỗi năm có bao nhiêu nước
và mỗi khối nước sinh lợi được bao nhiêu. Bởi vậy, một mặt họ lo cách thức
kiếm nước, một mặt họ tìm mọi cách hầu tránh chuyện nước bị hao hụt đi,
chẳng hạn nước bị bốc hơi hay thấm vào lòng đất.
Phương pháp dẫn thủy nhập điền rất công phu tỉ mỉ ở Việt Nam hay ở Trung
Quốc đã làm thế giới ngạc nhiên, song đem so với những nổ lực phi thường của
dân tộc được Chúa chọn thì hãy còn kém xa.
Mỗi năm vùng sa mạc Neguev chỉ giữ được từ 2 đến 4 phân nước. Như vậy, muốn
trồng trọt thì phải có nhiều nước, nhưng làm thế nào?
Vấn đề thiếu nước ở Israël là nguyên nhân sinh ra lắm thứ thuế oái oăm. Ví
dụ: Trong giá tiền một chai bia được tiêu thụ, một nửa là thuế dành cho công
cuộc tìm nước. Họ đã nghĩ đến việc đào giếng, dùng nước mưa và nước biển,
nhưng lấy đâu cho đủ nước trong khi ở đây mưa chẳng mấy lúc; còn nước biển
thì ngoài công dụng cho kỹ nghệ ra, súc vật còn chịu không nổi huống hồ cỏ
cây. Cho nên họ bèn thăm dò những dòng nước ngầm dưới lòng đất nằm ven biển
và đã khám phá ra những nơi nầy có một tầng đất không thấm nước, chứa lại
khá nhiều nước ngọt, chẳng hạn trong khu Avedat.
Hiện nay số nước rút được từ các nơi đó là khoảng 140 triệu thước khối trong
một năm. Những vùng có nước ngầm đã trở nên bồn nước thiên nhiên dành cho cả
khu vực Yarkon – Neguev. Nhất là từ khi sử dụng được dòng sông lịch sử
Jourdain, tổng lượng số nước rút được hàng năm lên tới 5 tỉ thước khối đủ
dùng cho mọi nhà, mọi ngành kỹ nghệ và 4 triệu dounams đất khô cháy (10
dounams tương đương với 1 héc-ta).
Để tránh việc phí phạm nước, dân israéliens bơm xuống lòng đất hàng triệu
thước khối nước - kể cả nước cống đã được lọc và khử trùng – cho khỏi bị bốc
hơi. Thật chưa dân tộc nào cần"nước"như người Do Thái. Song xét ra phương
pháp đặt ống dẫn nước vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Ống dẫn nước ở Israël có lẽ là
loại ống dẫn kỹ lục: dài từ 4 đến 170 cs, nặng không dưới 32 tấn, mỗi đoạn 5
thước đường kính và 3 thước bề dài, đặt ngay trên mặt đất, có khi phải xuyên
núi, vượt đèo và thung lũng. Hệ thống dẫn nước của họ là cho nước chạy theo
ống dẫn lớn, qua ống nhỏ, phân ra làm muôn ngàn nhánh mỗi lúc mỗi bé để rồi
tung ra ruộng nương, vườn tược qua các máy nước chẳng khác gì các trận mưa
nhân tạo.
Nước chảy đến đâu, người dân tìm theo đến đấy và sự canh tác tiến triển tùy
nhịp nước lan mau hay chậm.
Thủ đô của sa mạc Neguev là thành phố Beersheva, tụ điểm của hầu hết những
người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới. Chính Abraham đã đặt ra
tên Beersheva (Giếng thề).
Dưới bầu trời sa mạc nóng cháy Neguev (trung bình 36° C), người ta thấy gồm
đủ hạng người, từ anh kỹ sư, nhạc sĩ đến chị bán hàng, chú thợ máy; từ bác
tiến sĩ, thím giáo sư đến cô y tá, em sinh viên, cậu cu li. Bấy giờ mọi dị
biệt xã hội giữa họ đều được san bằng, tất cả chỉ còn là những đứa con của
Israël chung vai sát cánh hồi sinh vùng Đất Hứa.
Nhờ những cố gắng, những hy sinh như thế mà ngày nay du khách ghé Israël sẽ
thấy cả vùng sa mạc Neguev đã mơn mởn màu xanh của lúa và trổ đầy hoa trái.
Các giống nho lừng danh của Pháp như Bordelais, Beaujolais, Bourgogne cũng
đã"sống"được trên sa mạc, khai sinh ra một thứ rượu vang nổi tiếng trong
vùng Darom. Mỗi độ thu về, các vườn cam, vườn quýt, vườn bưởi, vườn chanh,
vườn chuối, vườn chà-là ... trổ bông hương thơm ngào ngạt đến tận châu thành
Tel Aviv.
Và không thể không nhắc tới tiến sĩ
Samuel Appelbaum (sinh năm 1942), giám
đốc trung tâm Bengis thuộc đại học Ben Gourion (Beersheva), người đã thành
công trong công trình nghiên cứu ứng dụng nước mặn và nóng dưới lòng sa mạc
Neguev vào canh tác trồng trọt, đặc biệt như aquaculture và pisciculture
(tạm dịch: Thủy canh và Bể canh). Trước thập niên 1990, ý nghĩ nuôi tôm cá
trên sa mạc là điều không tưởng, là ý tưởng làm phịch cười giới khoa học,
thế mà nay Samuel Appelbaum đã kiên trì và đã làm được, do đó được mệnh danh
là nhà tiên tri thời hiện đại.
9/ Iaraël,
những thời điểm quan trọng : 1948-1999
Quốc gia Israël được thành lập ngày 14/05/1948, thủ tướng đầu tiên là David
Ben Gourion (đảng Mapia). Ngay hôm sau,15/05, Liên Đoàn Ả Rập (được thành
lập từ 1945: Egypte, Liban, Syrie, Irak, Transjordanie và Bắc Yémen) đồng
loạt tấn công Israël những mong tiêu diệt tân quốc gia nấy trong trứng nước
song dù quân số đông gấp mấy chục lần quân Israël, họ đã thất bại trước sự
khôn khéo và nhất là trước quyết tâm của Israël. Thoả ước đình chiến được ký
năm 1949 tại Rhodes (Hy Lạp). Sau trận chiến đầu tiên nầy, Israël chiếm được
thêm nhiều đất. Cuộc chiến tạo ra 750.000 người tị nạn Palestine và 600.000
người tị nạn Do Thái.
Trước cuộc khủng hoảng, có khoảng 870.000 người Do Thái sống trong các xứ Ả
Rập với nhiều cộng đồng có bề dày lịch sử trên 2.500 năm. Trong thời gian
chiến tranh, nhiều vụ thảm sát (pogroms) Do Thái đã xảy ra tại Aden, Libye,
Egypte, Irak và Syrie, do đó 600.000 người Do Thái tại các nơi nầy đã phải
chạy về Israël và được chấp nhận trở thành công dân Israël !
1948-1952
- Phong
trào di cư tập thể của người Do Thái từ các xứ Ả Rập và Âu Châu về Israël,
đơn cử chiến dịch Thảm Bay (tapis volant) từ Yémen và chiến dịch Ezra &
Néhémie từ Irak.
- 11/05,
1949: Israël gia nhập Liên Hiệp Quốc.
1950
- Quốc Hội
Israël biểu quyết luật Hồi Hương (Aliyah).
1954
- Thủ
tướng Ben Gourion từ chức. Moshé Sharett (đảng Mapia) lên thay.
1955
- Vì chính
sự nhiễu nhương, Ben Gourion trở lại làm thủ tướng đến 1963 thì vĩnh viễn
rút ra khỏi chính trường (1). Ông mất năm 1973, thọ 87 tuổi.
1956
- Khủng
hoảng kênh đào Suez tạo cơ hội cho Egypte (thời TT Nasser) quốc hữu hoá kênh
nầy, cấm tàu của Israël qua lại. Pháp, Anh và Israël bí mật ký hiệp ước để
kiểm soát kênh Suez. Tháng 10/1956 Israël xâm chiếm vùng Sinaï, tiếp theo là
cuộc đổ bộ của Anh và Pháp vào cảng Saïd. Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh ngưng
chiến, liên quân Anh-Pháp-Israël trao quyền kiểm soát lại cho lính mũ xanh
của LHQ năm 1957, đổi lại nhận được sự bảo đảm quyền sử dụng kênh Suez như
trước.
1956-1962
-Thực dân
Pháp phải trao trả độc lập cho các xứ ở Bắc Phi, dân Do Thái tại Maroc,
Algérie và Tunisie dắt díu nhau chạy về Israël, thành lập nhiều tỉnh thành
rất phát triển.
1959
- Tháng
6/1959, người Do Thái gốc Bắc Phi chủ xướng một cuộc biểu tình rộng lớn,
phản đối bất công xã hội trong khu Wadi Salib tại thành phố Haïfa.
1960-1962
- Mật vụ
Israël bắt cóc được đồ tể Đức Quốc Xã Adolf Eichmann tại Argentine, đưa về
Israël xử án và hành quyết ngày 31/05/1962.
1962
- Hoa kỳ
bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Israël.
1963
- Thủ
tướng David Ben Gourion rút khỏi chính trường và về ở ẩn tại hợp tác xã Sdei
Boker trong sa mạc Neguev (1).
- Lévy
Eshkol (đảng Mapia) lên thay.
1964
- Hội nghị
thượng đỉnh các xứ Ả Rập tại Caire, thủ đô Ai Cập và Tổ chức Giải Phóng
Palestine (OLP / PLO) ra đời tại Đông-Jérusalem, chủ trương kiệt liệt chống
Israël.
1965
- Khủng
hoảng kinh tế tại Israël: thất nghiệp, bất công xã hội và sự suy thoái của
đất nước (Yeridah).
1966
- Nhà văn
Shmuel Yossef Agnon (công dân Israël) lãnh giải Nobel Văn Chương.
1967
- Cuộc
Chiến Sáu Ngày (05 - 10/06/1967) và việc thống nhất Thánh Địa Jérusalem.
- Tháng
05/1967: Lực lượng mũ xanh của Liên Hiệp Quốc rút ra khỏi vùng Sinaï , Ai
Cập đưa quân vào thay thế, đồng thời đóng cửa eo biển Tiran và vịnh Akaba
vốn là yết hầu vận chuyển đường biển của Israël.
- Ngày
05/06/1967: Trước sự tấn công rộng lớn của liên quân Ả Rập, với hậu thuẫn
của khối Liên Sô, và những cuộc oanh tạc của Syrie từ đồng bằng Golan,
Israël, dưới sự lãnh đạo của tướng Moshé Dayan, phản công chớp nhoáng Egypte
đồng thời yêu cầu Jordanie giữ thế trung lập. Jordanie từ chối và tấn công
Israël bằng khí giới nặng, nhắm thẳng vào Tây-Jérusalem và Tel Aviv.
- Israël
đệ đơn khiếu nại lên Hội Đồng Bảo An LHQ nhưng Liên Sô dùng quyền phủ quyết
(veto), sự việc coi như không.
- Ngày
08//06/1967: Quân đội Israël đánh bại quân Jordanie, chiếm luôn vùng Judée
và Samarie.
- Không
quân Jordanie, Syrie và Egypte bị không quân Israël tiêu diệt vỏn vẹn trong
một ngày. Trận chiến chớp nhoáng 6 ngày đã mang về cho Israël các vùng đất
Cisjordanie, Gaza, Golan, bán đảo Sinaï và Đông-Jérusalem. Nhưng kênh Suez
bị đóng cửa mãi đến năm 1975.
1968
- Bắt đầu
hàng loạt bản án ngoạn mục chống Do Thái (refuzniks) tại Liên Bang Sô Viết,
do đó mới có phong trào hồi hương từ đó về Israël.
Xin nhắc
lại: Trong việc người Do Thái mưu cầu lập quốc, Liên Bang Sô Viết đã hậu
thuẫn thành lập Israël với hậu ý tạo được thêm một quốc gia cộng sản nằm
trong quỉ đạo của mình, ai dè Israël vốn đặt nền tảng trên tư tưởng Sionisme
(chủ nghĩa Do Thái tự trị), chống các đế quốc Ottoman, Anh và sau nầy chống
luôn đế quốc Liên Sô.
- David
Ben Gourion tuyên bố với ông McDonald, đại sứ Hoa Kỳ, thời tổng thống
Truman: "Israël chào đón sự nâng đỡ của Nga Sô trong LHQ nhưng sẽ không độ
lượng sự khống chế của Nga Sô. Không những Israël có định hướng thân tây
phương mà dân tộc chúng tôi vốn dân chủ và nhận thấy chúng tôi chỉ có thể
trở nên hùng mạnh và tự do xuyên qua sự hợp tác với Hoa Kỳ."(theo Soviet on
Palestine 1947-1948, Journal of Palestine Studies, 1973).
1969
- Bà Golda
Meir (đảng Lao Động) đắc cử thủ tướng.
- Mở màn
cuộc chiến dọc theo kênh đào Suez. Yasser Arafat (1929-2004) nắm quyền lãnh
đạo Tổ Chức Giải Phóng Palestine (OLP).
1969-1972
- Hành
khách gốc Do Thái và công dân Israël trên các tuyến bay quốc tế thường xuyên
bị khủng bố.
1969,
tháng 12
- Trong
buổi họp thượng đỉnh các quốc gia Ả Rập, tổng thống Ai Cập Gamal Abdel
Nasser (1918-1970) phản đối một cuộc chiến mới giữa Do Thái và Ả Rập. (trước
đó, ngày 27/05/1967, TT Nasser từng tuyên bố"mục tiêu cơ bản của chúng ta là
tiêu diệt quốc gia Israël").
1970,
tháng 9 Đen
1971
- Xung đột
giữa nhóm Fedayin (Ả Rập Palestine) và Jordanie; giữa Jordanie và Jordanie.
1972,
ngày 04/09
- 11 vận
động viên Israël bị nhóm Fath (OLP / PLO) ám sát tại Thế Vận Hội Munich, dù
vậy các cuộc đua tài vẫn diễn tiến bình thường.
1973
- Ngày
06/10 (cuộc chiến Kippour): Là ngày lễ Yom Kippour của Do Thái Giáo (Ngày
Đại Hối: nguyện cầu và nhịn ăn), Egypte và Syrie bất ngờ tấn công Israël,
với chủ đích giành lại các vùng đất bị Israël chiếm trong cuộc chiến Sáu
Ngày năm 1967. Lúc đầu Israël chới với, nhưng mấy ngày sau nhờ Mỹ không vận
vũ khí, họ đã đẩy lui được kẻ thù. Liên Hiệp Quốc lại áp đặt lệnh ngưng
chiến ngày 22/10/1973, chiến cuộc ngưng hai ngày sau (25/10/1973). Sau cuộc
thất bại nầy, các xứ Ả Rập tăng giá dầu thô và ngưng xuất cảng dầu qua các
xứ ủng hộ Israël: Đó là cuộc khủng hoảng dầu hoả năm 1973.
- Nhóm
Fath bị giải tán.
1974
- Tổ Chức
Giải Phóng Palestine (OLP / PLO) của Yasser Arafat được Liên Hiệp Quốc công
nhận tính cách đại diện cho dân tộc Palestine.
1975,
ngày 17/10
- Liên
Hiệp Quốc biểu quyết một khế ước ngụ ý đồng hoá chủ nghĩa Do Thái tự trị
(Sionisme) với chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Chiến tranh dân sự bùng nổ tại
Liban. Hai năm xung đột: 100.000 người chết.
- Kênh đào
Suez được mở cửa trở lại, chấp thuận đón tiếp tàu bè của Israël.
1977
- Tháng 5:
Bầu cử tại Israël: Lần đầu tiên đảng Likoud chiếm đa số, Menahem Begin lên
làm thủ tướng.
Ngày
20/11
- Tổng
thống Ai Cập, Anouar El-Sadate (1918-1981) tuyên bố chấm dứt 30 năm thù
nghịch với Israël và đọc một bài diễn văn tại quốc hội Israël (Knesset tại
Jérusalem), đề nghị một nền hoà bình"công bằng và bền vững":
"[...] Mọi
sự sống bị mất đi trong chiến tranh là sự sống của mỗi con người, dẫu là Ả
Rập hay Israël. Mọi phụ nữ mất chồng là một con người có quyền sống trong
một gia đình hạnh phúc, dẫu là Ả Rập hay Israël. Những đứa trẻ bị cướp đi sự
chăm sóc của người cha là những đứa trẻ của mỗi chúng ta, trên đất Ả Rập hay
trên đất Israël và chúng ta có bổn phận to lớn là lo toan sao cho chúng có
được một hiện tại sung sướng và một tương lai tốt đẹp."
"[...] Tôi
nói thật với quí vị rằng, hoà bình chỉ trở thành hiện thực khi nó được đặt
nền móng trên lẽ công bằng chứ không phải trên sự chiếm đóng đất đai của kẻ
khác. Không thể nào chấp nhận được khi quí vị đòi hỏi cho quí vị những điều
mà chính quí vị từ chối cho kẻ khác."
"[...] Hoà
bình không phải là xảo thuật của các biểu ngữ để biện hộ cho những thèm muốn
hoặc để che giấu những tham vọng. Hoà bình, trong tinh túy của nó, thường
đối lập với mọi thèm muốn và mọi tham vọng."
(trích
dịch từ:
http://www.obsarm.org/dossiers/damo/palestine/disscours-sadate-knesset.htm)
1978,
ngày 17/09
- Tổng
thống Hoa Kỳ, Jimmy Carter, mời tổng thống Anouar El-Sadate và thủ tướng
Israël Menahem Begin đến Camp David (Maryland) để điều đình hoà ước.
- Hai ông
Sadate và Begin đồng nhận giải Nobel Hoà Bình.
1979,
ngày 26/03
- TT
Sadate và TT Begin ký hoà ước Camp David: Israël rút quân ra khỏi Sinaï, đổi
lại Egypte công nhận quốc gia Israël và hứa để cho tàu bè của Israël qua lại
Kênh Suez trong địa phận của mình. Nhiều cuộc xuống đường do các nhóm Hồi
giáo cực đoan tồ chức khắp các thủ đô Tây Âu, đặc biệt tại Bruxelles, với
biểu ngữ: Begin, Sadate, Sát nhân.
1980
- Israël
tuyên bố chính thức lấy Jérusalem làm thủ đô của mình: Các nước Âu Tây không
chấp nhận và vẫn giữ nguyên đại sứ quán của mình tại Tel Aviv.
1981,
ngày 06/10
- Tổng
thống Anouar El-Sadate bị ám sát bởi một người Ả Rập cực đoan.
1982
- Tháng
04: Thể theo hoà ước ký với Egypte năm 1979, quân đội Israël phá hũy toàn bộ
căn cứ của họ trên bán đảo Sinaï đồng thời đưa tất cả những người israëliens
cư ngụ ở đây về Israël. Trao trả Sinaï lại cho Egypte.
- Tháng
06: Quân đội Israël tiến thẳng vào thủ đô Beyrouth của Liban, truy lùng và
triệt hạ quân Syrie và Palestine. Israël"liên minh"với Liban, đồng nghĩa với
sự chiếm đóng.
- Ngày
15/09: Bộ trưởng Quốc Phòng Israël, Ariel Sharon, kinh sát một đồn chỉ huy
của Israël gần các trại của người Palestine tại (Liban). Sau đó mấy giờ thì
xảy ra vụ thảm sát 800 thường dân tị nạn Palestine, nghe nói thủ phạm chính
là Elie Hobeika, đặc trách tình báo của Liban; sau trở thành bộ trưởng Liban
thân Syrie và bị ám sát tại nhà riêng ngày 24/01/2002. Tuy nhiên, cho đến
nay, vụ thảm sát Sabra và Chatila trên vẫn còn là nghi vấn bao quanh nhân
vật sẽ trở thành thủ tướng Israël sau nầy.
1984
- Quốc Hội
Israël thành lập một chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia để giải quyết khủng hoảng
kinh tế và lập chương trình rút quân ra khỏi Liban.
- Đợt hồi
hương người Do Thái lần thứ nhất từ Ethiopie về Israël qua chiến dịch Moïse.
1985
- Israël
rút quân ra khỏi Liban, chỉ giữ lại một số nhỏ ở phía nam Liban, giáp ranh
với Israël.
1986
- Thủ
tướng Yitzhak Shamir (đảng Likoud) đắc cử nhiệm kỳ 2 (kỳ đầu: 1983-1984, kỳ
ba: 1988-1992)
1987
- Người
Palestine khởi động chiến tranh ném đá (Intifada) lần thứ nhất để đáp lại
việc Israël chiếm đóng Cisjordanie và dải Gaza. Cuộc xung đột nầy được kết
thúc qua thoả ước Oslo, ký kết tại Washington ngày 13/09/1993 bởi thủ tướng
Israël Yitzhak Rabin và chủ tịch Tổ Chức Giải Phóng Palestine (OLP) Yasser
Arafat. Thoả ước nầy dự kiến thành lập Quyền Lực Palestine và sự công nhận
hổ tương giữa OLP và Israël.
1988
-Yasser
Arafat, chủ tịch Tổ chức Giải Phóng Palestine (OLP/PLO) công bố tại thủ đô
Alger (Algérie) thành lập quốc gia Palestine độc lập, cũng quyết chọn
Jérusalem làm thủ đô. Đồng thời Arafat thừa nhận quyền hiện hữu của Israël
và lên án khủng bố. OLP / PLO chấp nhận sự hiện hữu 2 quốc gia: Một Do Thái
và một Ả Rập trên giải đất Palestine.
1989
- Tháng
11: Bức tường Berlin xụp đổ kéo theo sự tan rả của khối Đông Âu đồng thời
bắt đầu hàng loạt việc hồi hương của người Do Thái từ Liên Bang Sô Viết và
các nước cộng sản cũ.
1990
- Đợt hồi
hương người Do Thái lần thứ nhì từ Ethiopie về Israël qua chiến dịch
Salomon.
- Ngày 2
tháng 8: Irak thôn tính tiểu quốc Koweit.
1991
- Ngày
15/01: Chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất giữa Mỹ + đồng minh và Irak: Tiểu
vương quốc Koweit được giải phóng, Irak của Sadam Hussein bị phong toả.
- Ngày
30/10: Hội Nghị Hoà Bình lần thứ nhất tại Madrid giữa Israël và các nguyên
thủ các xứ Ả Rập, dưới sự bảo trợ của Mỹ và Nga Sô. Đây là bước đầu của các
cuộc điều đình song phương rồi đa phương trong tương lai giữa các phe có
liên quan tới khủng hoảng tại Cận Đông.
- Tháng
12: Mikhail Gorbatchev tuyên bố sự cáo chung của Liên Bang Sô Viết.
1992
- Bầu cử
quyền lập pháp tại Israël: Đảng Lao động trở lại cầm quyền, Yitzhak Rabin
làm thủ tướng lần thứ nhì (lần thứ nhất: 1974-1976).
1993
- Ngày
13/09: Ký kết bản Tuyên Bố Các Nguyên Tắc (Déclaration de Principes = Thoả
ước Oslo) giữa Israël và OLP. Buổi ký kết nầy kết thúc với cái bắt tay đi
vào lịch sử giữa Yitzhak Rabin và Yasser Arafat tại công viên Nhà Trắng với
sự hiện diện của tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton.
- Sau thoả
ước nầy, OPL của Yasser Arafat kiểm soát một số đất đai Palestine nhưng lốm
đốm, rời rạc nên được mệnh danh là lãnh thổ Da Beo.
- Ngày
14/09: Israël và Jordanie ký kết một chương trình chung về nguyên tắc cho
một hiệp ước hoà bình.
1994
- Ngày
25/02: Bác sĩ người Israël, Baroukh Goldstein thảm sát 29 tín đồ Hồi Giáo
tại Hébron.
- Ngày
04/05: Ký kết thoả ước về dải Gaza và Jéricho giữa Israël và OLP
- Tháng
07: Arafat đặt bản doanh Quyền Lực Palestine trong dải Gaza
- Ngày
26/10: Hiệp Ước Hoà Bình giữa Israël và Jordanie.
- Ngày
12/12: Yitzhak Rabin, Shimon Peres và Yasser Arafat đồng nhận giải Nobel hoà
bình.
- 1995,
ngày 04/11: Thủ tướng Israël Yitzhak Rabin bị ám sát bởi Yigal Amir, một
công dân israël cực đoan. Shimon Peres được hội đồng liên hiệp quốc gia đề
cử lên thay.
1996
- Ngày
24/04: Hội Đồng Quốc Gia Palestine hũy bỏ mọi điều khoản trong bản Hiến
Chương của mình, liên quan tới việc công nhận sự hiện hữu của quốc gia
Israël.
- Ngày
29/05: Bầu cử trước hạn kỳ tại Israël, Benjamin Netanyahu (đảng Likoud) đắc
cử thủ tướng.
- Ngày
08/10: Lần đầu tiên Yasser Arafat viếng thăm Israël.
- Từ phía
nam Liban nhóm Hồi Giáo cực đoan Hezbollah phóng đạn pháo qua Israël, Israël
phản công dữ dội qua chiến dịch"Những trái nho của sự phẫn
nộ".
1997
- Tháng
giêng: Quân đội israël rời khỏi thành phố Hébron, trao quyền kiểm soát lại
cho Quyền Lực Palestine của Yasser Arafat.
1998
- Từ 1996
đến 1998, các cuộc thương thuyết Oslo 2 dẫm chân tại chỗ, Israël và Quyền
Lực Palestine đổ lỗi cho nhau. Mải đến tháng 10 tại Wye River (Wye
Plantation, Hoa Kỳ) hai bên mới mở lại việc đàm phán.
1999
-
Ehud Barak (đảng Lao Động) đắc cử thủ tướng
Israël, thay thế Benjamin Netanyahu. Ehud Barak có tham vọng chấm dứt xung
đột và tiến tới hoà bình với Palestine đúng y theo thoả ước và tinh thần
Oslo 2. Ông đã táo bạo đề nghị bỏ qua các giai đoạn trung gian theo thoả ước
để tiến thẳng tới quy chế thường trực. Phía Palestine không chịu vì sợ bị
mắc bẫy.
---------------------------
Chú thích
(1) Ta có
thể gọi trường hợp về vườn của Ben Gourion là trường hợp Công Thành Thân
Thoái. Biết mình chỉ hữu dụng trong giai đoạn lập quốc và vụng về trong việc
kiến quốc, ông đã rũ áo về sống trong sa mạc, để tiếng thơm đời đời. Tôi
chợt nhớ lại giai đoạn huyền sử Phù Đổng Thiên Vương: Đuổi xong giặc Ân là
biến mất trên ngọn Sóc Sơn nhưng, nhờ thế, lưu danh thiên cổ. Khác hẳn ai đó
đuổi được giặc Ân rồi lại biến thành giặc Ân, do đó khắc xú vạn niên.
10 / Iaraël,
những thời điểm quan trọng : 2000-2006
2000
- Ngày
15/02: Đức Giáo Hoàng Jean Paul II ký một hiệp ước với Yasser Arafat trong
đó Vatican hứa sẽ phản đối mọi hành động đơn phương của Israël tại Jérusalem
và hợp thức hoá mọi giáo sự của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tại Jérusalem và
trên lãnh thổ tự trị Palestine.
- Ngày
21-27/03: Chuyến viếng thăm lịch sử của Đức Giáo Hoàng Jean Paul II tại
Jérusalem, Bethléem, Galillée. Ngài đã chính thức lên tiếng xin lỗi về những
khổ đau mà tín đồ Thiên Chúa Giáo đã gây ra cho dân tộc Do Thái suốt dòng
lịch sử.
- Ngày
20/06: Khám phá một hố chôn tập thể gồm 52 xác tù binh chiến tranh người Ai
Cập, do quân đội Israël hành quyết trong cuộc chiến Sáu Ngày năm 1967.
- Tháng
07: Hội nghị thượng đỉnh Camp David được mở ra lại nhưng thất bại.
- Ehud
Barak mất đa số phiếu tại Knesset, tuy vẫn còn tại vị nhưng đã suy yếu trên
mặt chính trị.
- Phần
Yasser Arafat, dưới mắt người Palestine, ông không còn là nhà lãnh đạo bình
dân như xưa nữa, càng ngày ông càng tỏ ra độc tài, chuyên chế và tham nhũng,
do đó mất một phần tín nhiệm trong quần chúng
- Ngày
28/09: Chiến tranh ném đá (Intifada) lần thứ nhì bùng dậy ngay sau khi lãnh
đạo đảng Likoud (hữu phái) Ariel Sharon bất ngờ viếng thăm các nhà thờ Hồi
Giáo tại Thánh địa Jérusalem, ngụ ý khẳng định Jérusalem là thủ đô của
Israël. Cuộc viếng thăm mang tính cách khiêu khích, với một vòng đai an ninh
gồm 2.000 cảnh sát, thiết giáp, trực thăng, kết quả: 4.607 người chết (3570
Palestine và 963 Do Thái, theo AFP).
- Tháng
11: Thủ tướng Ehud Barak tán đồng dự án xây một"hàng rào ngăn cản các loại
xe có động cơ", từ phía đông-bắc Cisjordanie đến vùng Latrun. Chủ ý là để
ngăn chống các nhóm vỏ trang Ả Rập như Hamas, Hezbollah, Al Aqsa và Jihad
Islamique.
- Ngày
09/12: Ehud Barak từ chức, hứa tổ chức bầu cử trước thời hạn trong 30 ngày.
- Nếu cọng
cả con số thương vong 4.607 người do AFP đưa ra trên kia thì năm 2.000 cuộc
xung đột đã làm trên 5.000 người thiệt mạng, con số quá sức tưởng tượng của
tôi.
2001
- Ngày
06/02: Ariel Sharon (đảng Likoud) đắc cử thủ tướng Israël.
- Tháng
12: Quân đội Israël vây hãm chủ tịch Yasser Arafat trong bản doanh Quyền Lực
Palestine tại Ramallah.
- Trọn một
năm xung đột giữa Israël và Palestine qua sự lèo lái của hai vị lãnh đạo bất
cộng đái thiên: Thủ tướng"diều hâu"Ariel Sharon và chủ tịch Yasser Arafat:
- Trên mặt
chính thức ghi lại từ các nguồn truyền thông, tôi cọng lại được 125 xác
chết, hầu hết là thường dân của đôi bên (không tính vô số nạn nhân thương
tật khác).
2002
- Ngày
14/04: Trước những cuộc tấn công tự sát của kẻ thù, chính quyền Israël quyết
định xây một rào cản chống khủng bố phiá bên nầy làn ranh, cùng lúc khởi
công xây một hàng rào trong vùng Anin, khu vực Tulkarem và Jérusalem.
Thành quả
của một năm xung đột: 611 xác chết, chủ yếu là thường dân (không tính vô số
nạn nhân thương tật khác).
2003
- Tháng
giêng:
Bầu cử
quốc hội khoá 16 tại Israël, Ariel Sharon tái đắc cử chức vụ thủ tướng trong
chính phủ kỳ thứ 13.
- Ngày
01/02: Phi hành gia đầu tiên của Israël, đại tá không quân Ilan Ramon, đồng
tử nạn trong phi hành đoàn Colombia của Hoa Kỳ với Rick Husband, William
McCool, Michael Anderson, Kalpana Chawla, David Brown và Laurel Clark.
- Thành
quả của cuộc tương tranh: 187 xác chết, đa số là thường dân (không tính vô
số nạn nhân thương tật khác).
2004
- Ngày
11/11: Chủ tịch Quyền Lực Palestine, Yasser Arafat qua đời vì bệnh tật tại
Clamart, ngoại ô Paris, thọ 75 tuồi.
- Thành
quả của một năm tương tranh: 267 xác chết, đa số là thường dân (không tính
vô số nạn nhân thương tật khác).
2005
Tháng
Giêng
Sau cái
chết của chủ tịch Yasser Arafat, tiến trình hoà bình Israël-Palestine được
mở lại giữa Ariel Sharon và Mahmoud Abbas (Abou Mazen), tân chủ tịch Quyền
Lực Palestine (từ 09/01/2005), nhưng coi mòi máu sẽ chảy nhiều hơn từ cả hai
phía. Hiện nay, Israël đang chuẩn bị giải toả dải Gaza, sau 38 năm chiếm
đóng (1967-2005), dự định sẽ chấm dứt vào ngày 17/08/2005, và hàng ngày cộng
đồng kiều dân Do Thái (colons) tại đây đang rầm rộ xuống đường chống lại
quyết định của thủ tướng Ariel Sharon. Đặc biệt ngày 30/01, gần 130.000
người Do Thái đã xuống đường tại Jérusalem tỏ thái độ bất bình trước vấn đề
này.
Từ
14-18/08/2005 quân đội Israël đã phải cưỡng chế cuộc giải toả hầu giữ đúng
ký kết với phía Palestine, đến 12/09 vùng Gaza được chính thức trả lại cho
người Palestine.
Nhưng nếu
lưu ý quan sát ai cũng có thể thấy ông Sharon nhả Gaza là để giữ vững vùng
Cisjordanie: Sự kiến thiết và phát triển nơi đây nhanh với tốc độ chóng mặt,
nội trong 3 tháng đầu 2005 đã tăng 85 % so với 2004, riêng phần nhà cửa đã
có thêm 700 ngôi. Báo giới mệnh danh vùng này là "Viễn Tây" mới của tư bản
Do Thái.
Tháng 2
08/02
- Họp
thượng đỉnh giữa Ariel Sharon et Mahmoud Abbas (Abbou
Mazen) tại Charm El-Cheikh; Ai Cập, đi đến cam kết chấm dứt mọi xung đột
giữa Israël và Palestine
(!).
- Ai Cập
và Jordanie lại gửi đại sứ qua Tel Aviv sau 4 năm đoạn giao.
21/02
- Chính
quyền Israël thả 500 tù binh Palestine, trên số 8.000.
Tháng 3
12/03
- Nhóm võ
trang Hamas tuyên bố sẽ tham gia cuộc bầu cử Lập Pháp Palestine, dự trù vào
tháng 7/2005.
Tháng 5
09/05
- Thủ
tướng Sharon ra quyết định thi hành lệnh giải toả, bắt đầu từ 14/08.
Tháng 6
02/06
- Israël
thả thêm 400 tù binh Palestine.
26/06
- Xung đột
giữa kiều dân Do Thái và quân đội có nhiệm vụ giải toả nói trên.
Từ
tháng 7 đến cuối năm 2005
- Sau khi
chấm dứt chiến dịch Gaza nói trên được 2 tháng, đến tháng 11/2005 thủ tướng
Ariel Sharon bất ngờ giải tán Quốc Hội (Kneset) và tự thành lập đảng Kadima
(Đảng Tiến Lên), chuẩn bị ra tranh cử và lập chính phủ dự trù sẽ được tổ
chức vào 28/03/2006. Khuynh hướng chính trị của đảng Kadima là trung hữu, ôn
hoà với tiêu chí: Chúng ta tiếp tục tiến lên.
- Tổng kết
về nhân mạng trong cuộc tranh chấp, năm 2005: 155 chết và 628 bị thương.
2006
Tháng
Giêng:
Cuối 2005
và đầu 2006, bất ngờ Thủ tướng Sharon được đưa vào nằm bệnh viện vì chứng
đột quỵ, phải dùng tới hệ thống thở nhân tạo. Phó thủ tướng Ehud Olmert tạm
đảm nhiệm việc điều hành chính phủ theo hiến định, kiêm trọng trách tạm đứng
đầu đảng Kadima trong cuộc vận động cho cuộc bầu cử sắp tới.
17/01
Chính phủ
Liban yêu cầu Liên Hiệp Quốc gia hạn đặc nhiệm của lực lượng mũ xanh bảo vệ
trật tự tại Liban đến 31/01/2007. Lực lượng này có tên là Force Intérimaire
des Nations Unies au Liban = FINUL)
20/01
Trong một
bản báo cáo định kỳ (tam cá nguyệt), Tổng thư ký LHQ, Kofi Annan đã khẳng
định có nhiều vi phạm đình chiến dọc biên giới Israël-Liban.
25/01
Sự kiện
quan trọng đáng chú ý trong gần cuối tháng 1, đương nhiên là việc phong trào
vũ trang Hồi giáo Hamas chiếm đa số trong cuộc bầu cử QH. Thủ tướng Ahmed
Qorei từ chức. Ismail Haniyeh lên nắm quyền thủ tướng tại vùng đất thuộc
Quyền Lực Palestine, người kế vị Yasser Arafat, chủ tịch Abou Mazen coi như
bị cô lập.
Hamas theo
tiếng Ả rập có nghĩa nhiệt tâm, là một phong trào hồi giáo vũ trang chống
Israël, do ông Ahmed Yassine hình thành năm 1987, thân nhóm Những Huynh Đệ
Hồi Giáo bên Ai Cập, hiện diện cả bên Jordanie. Có thể so sánh Hamas ở
Palestine với Hezbollah bên Liban vì cả hai đều bị Mỹ và đồng minh như Liên
Hiệp Âu Châu, Gia Nã Đại... liệt vào danh sách đen: Khủng bố. (sẽ nói thêm
trong cuộc chiến Israël-Hezbollah).
30/01
Gần
130.000 người Do Thái xuống đường tại Jérusalem chống lại quyết định giải
toả dải Gaza của thủ tướng Sharon.
31/01
Hội Đồng
Bảo An LHQ (HĐBA-LHQ) ra nghị quyết 1655, chỉ triển hạn sự hiện diện của
lực lượng FINUL đến 31/07/2006 thay vì 31/07/2007 như yêu cầu của Liban.
Tháng 2
02/02
Lực lượng
mũ xanh FINUL tìm thấy 1 xác chết người Liban ven làn ranh xanh giữa Liban
và Israël, và lấy quyết định tiến hành một cuộc điều tra, đồng thời tiếp xúc
với các phiá hầu dự phòng hãm
việc leo thang các vi phạm tại đây.
03/02
Lực lượng
vũ trang Hồi giáo, hệ Chiite, Hezbollah (nam Liban) oanh tạc các căn cứ quân
sự Israël đặt gần nông trường Chebaa, ven biên xanh nói trên. Israël phản
pháo, dùng không quân dội bom xuống các chung cư cũng trong phạm vi nông
trường Chebaa nhưng nằm bên này làn ranh thuộc Liban. FINUL làm trung gian
giải hoà, lại đình chiến.
04/02
Bộ trưởng
Ngoại Giao Liban, ông Fawzi Salloukh, đệ đơn lên HĐBA-LHQ, tố cáo Israël vi
phạm đình chiến.
07/02
Khoảng
2.000 người Liban thiên Hezbollah biểu tình trước trụ sở FINUL, phản đối
việc báo chí Âu Châu cho phổ biến bức biếm hoạ nhà tiên tri Mahomet, giáo
chủ bất khả xâm phạm của đạo Hồi. Chúng ta đừng quên là đa số phương tiện
truyền thông ở Âu-Mỹ đều gián tiếp hay trực tiếp nằm trong vòng ảnh hưởng
của người Do Thái
Tháng 3
Ngày 28/03
đảng Kadima giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử Lập pháp tại Israël, được
28/120 ghế trong QH, Ehud Olmert lập chính phủ liên hiệp với đảng Lao Động
và đảng Shass (gồm những người Do Thái Séfarade, Bắc Phi) và chính thức
thành tân thủ tướng của Israël. Sức khỏe của thủ tướng Sharon coi như hết hy
vọng phục hồi.
Tháng 4
07/04
Liên Hiệp
Âu châu ngưng viện trợ trực tiếp cho Quyền Lực Palestine dưới chính phủ
Hamas của thủ tướng Ismail Haniyeh.
Tháng 6
27/06
Hamas ký
một văn bản "đồng thuận quốc gia", công nhận Israël như một quốc gia.
28/06
Lực lượng
quốc phòng Tsahal của Israël mở chiến dịch "Mưa mùa hè" (pluie d'été) gồm bộ
binh có không quân yểm trợ đánh phá dữ dội dải Gaza, hủy hoại nhiều hạ tầng
cơ sở của người Palestine. Israël bắt 8 bộ trưởng, 10 dân biểu và nhiều cán
bộ cao cấp thuộc Hamas của Palestine.
Tháng 7
:
Đến cuối
tháng 7, cuộc đụng độ giữa Israël và Hamas-Palestine làm 29 người chết,
trong đó có 13 người thuộc thành phần "cực đoan" Palestine. Quân đội Israël
truy kích quân Hamas lan tới gần Cisjordanie.
11/
Cuộc chiến Israël và Hezbollah
Trước khi
đi vào cuộc chiến giữa Israël-Hezbollah (Liban) sẽ diễn ra trong suốt mùa hè
2006, chúng ta thử tìm hiểu xem Hezbollah là ai?
Hezbollah theo tiếng Ả-rập có nghĩa là
Đảng của Thượng Đế, gồm các tín đồ Hồi giáo người Liban theo hệ Chiite (đối
lập là hệ Sunnit), được thành lập năm 1983, sau khi Israël đưa quân qua
chiếm đóng Liban năm 1982 (1982-2000), nghĩa là có tính cách Kháng chiến
chống ngoại xâm. Mục đích của Hezbollah là dựng nên một quốc gia Hồi giáo
theo mẩu Iran và phủ nhận mọi sự hiện diện không Hồi giáo tại Cận Đông.
Hezbollah có độ 40.000 người trong đó có những lực lượng đặc biệt được đào
tạo và huấn luyện kỹ càng; liên kết chặt chẻ với phong trào Fatah/OLP-PLO
của cố chủ tịch Yasser Arafat, được Syrie và Iran ủng hộ, cụ thể về mặt tài
chánh. Bản doanh của Hezbollah đặt tại nam Liban. Báo chí Âu Tây ví
Hezbollah như một quốc gia trong một quốc gia (Liban). Về mặt truyền thông,
tuyên truyền Hezbollah có đài truyền thanh, truyền hình riêng. Lãnh tụ hiện
nay là Cheikh Sayyed Hassan Nasrallah, sinh 30/08/1960, lãnh đạo Hezbollah
từ 1992, sau khi lãnh tụ Abbas al-Mousawi bị ám sát
Israël và
Hezbollah lẻ tẻ đụng nhau đẫm
máu, nhớ và ghi không xuể.
12/07
Viện dẫn
lý do là nhóm Hezbollah (có sự hổ trợ của Hamas tại Gaza) đã bắt cóc 2 quân
nhân của mình tại biên giới Israël-Liban, tân thủ tướng Israël, Ehud Olmert
từ chối mọi điều đình của Hezbollah, dùng không quân và hải quân tấn công
chớp nhoáng vào căn cứ địa của Hezbollah đặt tại nam Liban, đồng thời dội
bom luôn thủ đô Beyrouth của Liban, làm hư hại nhiều hạ tầng cơ sở.
Hezbollah
phản công, bắn róc-két vào phiá bắc của Israël, nơi có thành phố kỹ nghệ lớn
thứ nhì của Israël là Haifa. Israël phong toả đường hàng không và đường biển
của Liban.
["Cuộc chiến Liban-Israël" nhìn bởi
một phụ nữ Liban]
Rita là một chị bạn người Liban (nên
nói tiếng Pháp rất sõi), hiện đang sống trong lòng cuộc khủng hoảng. Tôi cho
đăng ở đây những giải thích của cô ấy về cuộc chiến bẩn thỉu gửi đến những
ai không theo dõi kỹ và những ai thích tìm hiểu:
Tình hình ở Liban thật là kinh hoàng !
Những cuộc dội bom bắt đầu từ hôm thứ Năm 13/07/2006, tiếp theo cuộc bắt cóc
2 quân nhân người Israël hôm thứ Tư (12/07/2006) bởi Hezbollah, ven biên
giới Liban-Israël.
Hezbollah bắt cóc lính Israël và Israël
đã tuyên chiến. Sự việc chỉ đơn giản vậy thôi ! Không quân Israël đã oanh
tạc xa lộ quốc tế nói liền thủ đô Beyrouth (Liban) và thủ đô Damas (Syrie),
kéo theo là việc đóng cửa. Họ đã nhắm nhiều lần sân bay quốc tế tại
Beyrouth, rồi cũng kéo theo việc phải đóng cửa.
Israël đã dội bom xuống 21 cái cầu,
những căn cứ địa của Hezbollah và quân đội Liban; xuống những đường sá và
trúng cả những nhà cửa.
Sau những chiến dịch của Israël, Liban
hầu như bị cắt đứt mọi liên lạc về đường bộ, đường biển và đường hàng không.
Israël không ngần ngại tấn công bằng
đạn róc-két vào mọi căn cứ của Hezbollah trên đất Liban, "bất kỳ ở đâu !".
Họ muốn giải giới Hezbollah và giải phóng 2 quân nhân bị bắt cóc.
Liban luôn luôn là một quốc gia hoà
bình và là vùng đất hiếu khách nơi mà những cộng đồng Hồi giáo khác biệt và
Thiên Chúa giáo sống sát cánh bên nhau.
Rõ ràng là tất cả hạ tầng cơ sở của
Liban đang bị phá hủy ! Quốc gia này mới bắt đầu tự đứng dậy sau 20 năm bị
(Israël) chiếm đóng và bị tàn phá (1982-2000).
Cuộc chiến đã gây hỗn loạn và đó chẳng
phải là đất mầu cho Dân Chủ ?
Các vũ khí hoá học bị Quốc tế cấm đã
được sử dụng ! Điều gì họ đang dành cho chúng tôi trong tuần tới ?
Tôi nghĩ, những người Israël sẵn sàng
tiến hành một chiến dịch "tróc rễ người Hồi giáo hệ Chiites" ở Liban. Những
người dân thường sẽ chịu đựng nỗi đau giống nòi. Nhưng cho tới khi nào? Nếu
họ (Israël) muốn giải giới Hezbollah, thì cứ làm và chấm dứt tình trạng chó
đẻ này! Chúng tôi không thể chịu đựng được nữa
Không còn thuốc cho bệnh tim, cho bệnh
cao áp huyết, cho bệnh ung thư, cho bệnh đái đường... không còn bột, không
còn bánh mì, không còn nước...
Những ngôi làng... mà tôi còn có thể
liên lạc lần cuối hôm qua, đã đưa tín hiệu SOS của niềm tuyệt vọng. Từ đấy,
hệ thống điện thoại cũng chẳng còn. Các gia đình bị chôn sống dưới những
đống gạch vụn và những người Israël không cho phép cứu họ ra khỏi đó, thì cứ
việc nhìn mưa bom ắt hiểu.
Công xưởng sản xuất sữa tại Liban đã bị
phá hủy hoàn toàn. Với việc phong toả, sớm muộn chúng tôi sẽ thiếu thốn mọi
thứ ! Lỗi tại ai?
Hezbollah muốn thay thế quân đội Liban,
thay vì hoà nhập vào nó. Hezbollah tin tưởng rằng Liban là của riêng họ, mặc
tình muốn làm gì thì làm, hoặc Tuyên chiến hoặc tuyên hoà !
Đó là lỗi tại Hassan Nasrallah, lãnh tụ
của Hezbollah, mà Israël đã tuyên chiến với chúng tôi. Đó cũng là lỗi của
những sự bẩn thỉu từ chính phủ mà cuộc chiến sẽ kéo dài hơn và sẽ chấm dứt
bằng một giọng điệu ảm đạm.
Những lời nói từ chính phủ là chứng cớ
của sự vô vị phiền chán của những con chuột cống đang cai trị chúng tôi.
Chính phủ là người duy nhất phải quyết
định hoà hay chiến ! Chứ không phải cái ông Nasrallah, người đã chuẩn bị từ
lâu để chống Israël.
Đây không còn là chiến tranh nữa ! Đây
là một cuộc thảm sát có tổ chức mà dân tộc Liban phải trả giá !«] (Rita,
23/07/2006)
(dịch nguyên văn từ bài "La guerre
Libano-israélienne vue par une Libanaise", 23/07/06, ký tên Rita. Nguồn:
http://gaetanpresident.hautetfort.com/archive/2006/07/23/la-guerre-libano-israelienne-vue-par-une-libanaise.html
Tháng 8
và 9
Cuộc chiến
Israël và Hezbollah-Liban đã chính thức tạm ngưng ngày thứ hai 14/08/2006,
theo nghị quyết LHQ 1701, nhưng vẫn âm ỉ để tái phát bất cứ lúc nào vì trong
cuộc khủng hoảng Do Thái và Ả rập từ 1948 đến nay, vai trò của quốc tế xem
ra nhẹ tênh.
Tháng
10
Trận đọ
sức giữa Israël và Hezbollah (Liban) tuy không lâu nhưng hiện nay (10/2006),
thống kê sơ khởi của đôi bên như sau, Liban: 1400 người chết (1280 mạng là
thường dân và trẻ em), 4.500 bị thương và 900.000 người buộc phải tản cư;
Israël: 157 người chết (122 lính) và 400.000 người tản cư (mà chỉ để giải
thoát 2 người lính !). Nhưng cứ nhìn sự tan hoang của cả hai phía thì thực
sự, thiệt hại nhân mạng và vật chất (không tính tinh thần), không thể tính
đếm chính xác được.
Ở đây tôi
không bình luận gì về "chính nghĩa" của phe nào cả, chỉ nhận xét chút đỉnh
là 1/ Israël (và các đồng minh khuất mặt từ xa nhưng ai cũng thấy) đã quá
xem thường kẻ thù Hezbollah-Liban (và các đồng minh cũng khuất mặt từ xa mà
ai nấy đều thấy), nên trận chiến khốc liệt tuy ngắn nhưng cũng đã khá dài
(12/07/06-14/08/06: 34 ngày) so với dự tính ban đầu, vả lại "tốc chiến tốc
thắng" vốn là sở trường hàng đầu của Israël, nghĩa là trong trận chiến này,
song song là trận giặc hình và chữ, Israël "ác" hơn Hezbollah vì đã gây ra
số tử vong kinh khủng và sự tan tành thành gạch vụn của 20 năm gầy dựng của
người dân Liban; 2/ Tashal kém hiệu năng hơn Hezbollah vì quân đội Israël là
quân đội chính quy của một nước, vốn nỗi danh tinh nhuệ, hơn nữa đã phải huy
động đến cả thành phần quân dự bị..., còn Hezbollah tuy có đại biểu trong QH
Liban, cũng chỉ là một lực lượng nhỏ. Tóm lại, theo tôi, cuộc chiến này hai
bên đều đại thắng và đều đại bại.
Vậy ai là
kẻ thắng và thủ lợi? Cụ thể trước mắt là ai sẽ đóng các vai chính
trong việc tái thiết? và ai sẽ là tác giả bản bản chiết tính về nỗi đau
thương mà dân tình đôi bên phải gánh chịu?
Từ lâu tôi
vẫn thắc mắc, nước Mỹ và các đồng minh như Gia Nã Đại, Anh, Liên Hiệp Âu
Châu...và đương nhiên Israël, dựa vào nguyên tắc "thật sự thật", lý do nhân
bản "thật sự thật" nào để chấm điểm nước kia, nhóm nọ (trong đó có
Hezbollah), liệt vào danh sách đen, chẳng hạn "khủng bố", "đáng quan
ngại"...? Tất nhiên, đời nào tôi lại ủng hộ chuyện độc tài hay khủng bố,
nhưng nếu đứng từ ngoài nhìn vào, tôi thấy phe nào cũng hữu lý và phi lý hay
siêu lý, đều ranh ma và ngu xuẩn mà đại đại ngu xuẩn là người dân Do Thái và
người dân khối Ả rập nói chung, ngu đến bó cả tứ chi. Dĩ nhiên tôi cũng hiểu
là họ đều đã tự đánh mất thế chủ động từ 1967. Đức Giê-su, Đức Phật, Đức
Mahomet, Đức Yewah, hay bất cứ Đức nào có tái thế, hạ trần và chỉ dùng đối
thoại "người" bình thường (vì chẳng thiếu gì người quyết tín rằng các vị này
có phép mầu nên tôi phải thủ trước cho chắc), cũng vô phương thuyết phục tôi
là Mỹ và đồng minh tự nguyện (hay tự phong) làm giám khảo là bởi cái thiện
tâm không tì vết. Vạn sự rối tung rối mù, máu đổ thịt rơi, trước trước hết
và sau sau cùng, là từ cái thứ chất lõng màu đen đen cũng vừa chí ích, vừa
chí hại là dầu lửa. Nói như cụ Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn "Bán Đảo Ả Rập và
Dầu Lửa", trang giới thiệu:«Ta cứ ví dụ rằng bao nhiêu kinh sách của các tôn
giáo đó bỗng dưng mất hết và tất cả các tu sĩ trên thế giới bỗng ăn cháo lú,
quên hết những lời Chúa dạy, Phật dạy, (tôi thêm: Mohamet dạy, Yewah dạy)
thì nhân loại có thể kém văn minh một chút, nhưng nhất định là vẫn tồn tại.
Nhưng nếu các giếng dầu trên thế giới bỗng nhiên chết "bất tử" như giếng
Kirkuk năm 1940 thì chẳng những cả nền văn minh vĩ đại của chúng ta sụp đổ
mà nhân loại sẽ chết đói chết rét đến một nửa là ít. Không có dầu lửa thì
không có điện, xe hơi, máy bay, máy cày, máy lạnh, máy sưởi, v.v...., kỹ
nghệ sẽ chết đứng và canh nông sẽ ngắc ngoải. Đã xây mả cho Dầu Lửa thì tại
sao người ta không nghĩ dựng tượng cho Dầu Lửa? Muốn cho xứng thì tượng phải
cao lớn gấp hai tượng Thần Tự Do ở New York. Vì Tự Do chỉ là một đứa con
đĩnh ngộ của văn minh cơ giới ngày nay - người ta bảo vậy – mà dầu lửa mới
chính là cha của văn minh đó. Và tôi xin đề nghị cũng dựng nó ở cửa sông
Hudson cho hợp tình hợp lý.»
"[...] Mọi
sự sống bị mất đi trong chiến tranh là sự sống của mỗi con người, dẫu là Ả
Rập hay Israël. Mọi phụ nữ mất chồng là một con người có quyền sống trong
một gia đình hạnh phúc, dẫu là Ả Rập hay Israël. Những đứa trẻ bị cướp đi sự
chăm sóc của người cha là những đứa trẻ của mỗi chúng ta, trên đất Ả Rập hay
trên đất Israël và chúng ta có bổn phận to lớn là lo toan sao cho chúng có
được một hiện tại sung sướng và một tương lai tốt đẹp."
Tôi để ý
từ trước tới nay, các cuộc tấn công Israël của OLP, của Hamas, của Hezbollah
truyền thông Israël và Âu Mỹ gọi là Khủng Bố - terroriste (bình thường hay
kamikaze - tự sát). Còn các tàn sát thường dân Ả-rập
nói chung của Israël họ lại kêu là Chiến Dịch (opération), là Đột Kích
(Raid). Có khác gì nhan nhản khắp nơi, xâm chiếm, tàn phá xứ người; đày đọa,
bỏ tù không xét xử dân bản địa thì xưng là giải phóng, là bảo vệ dân chủ, tự
do; người tổ chức kháng chiến nhưng vì yếu thế nên phải chơi trò du kích
(đánh lén) thì cho đó là phiến loạn, khủng bố. Ngoại trừ những kẻ chủ mưu và
những người chấp hành, chẳng ai (trong đó có tôi) chấp nhận được chuyện đặt
bom hay ôm bom giết hại thường dân ở các nơi công cộng như 2 vụ mới đây tại
Luân Đôn, Vương Quốc Anh (08/07/2005) và Charm El-Cheikh, Ai Cập
(23/07/2005). Tuy nhiên, đôi khi cũng cần bình tâm tò mò nhìn lại, nhìn vào
hậu trường, đặt ngược sự tình thành câu hỏi: Do đâu có khủng bố? Mục đích
của khủng bố là gì? Chính quyền của các nạn nhân đã làm gì ở hải ngoại để
xảy ra nông nổi nầy?
Ý nghĩa của
hai danh từ nầy xấu tốt, nặng nhẹ ra sao ai ai cũng thấy rõ:
Ví dụ: Tại
Liban, ngày 25/02/2000, thủ tướng Pháp, bấy giờ là ông Lionel Jospin, trong
bài diễn văn, đánh giá nhóm Hezbollah là nhóm khủng bố, tức khắc tạo ra
khủng hoảng ngoại giao Pháp-Cận Đông. Lần đầu tiên, từ sau 1956, khoảng
5.000 người Liban đưa nhau xuống đường phản đối dữ dội vì Liban vẫn coi
Hezbollah là một phong trào kháng chiến chống ngoại xâm Israël.
Nhưng mà
thôi, vạn sự hoàn toàn tùy mỗi góc độ nhận định, cứ tạm cho là giặc chữ
nghĩa để khỏi phải viết dài hơn. Có điều chúng ta đừng quên rằng, hầu hết
các phương tiện truyền thông Âu Mỹ, nếu truy nguyên ra, đều nằm trong tay
các công dân bản xứ gốc... Do Thái.
"[...]
Tôi nói thật với quí vị rằng, hoà bình chỉ trở thành hiện thực khi nó được
đặt nền móng trên lẽ công bằng chứ không phải trên sự chiếm đóng đất đai của
kẻ khác. Không thể nào chấp nhận được khi quí vị đòi hỏi cho quí vị những
điều mà chính quí vị từ chối cho kẻ khác."(cố Tổng Thống Ai Cập, Anouar
El-Sadate).
Tấm gương Do Thái
Đọc lịch
sử phục quốc và kiến quốc của dân tộc Do Thái chúng ta học được rất nhiều
điều quí báu, từ tinh thần quốc gia dân tộc đến tinh thần đoàn kết; từ ý chí
phục quốc đến đức hy sinh, sức chịu đựng ghê gớm; từ kinh nghiệm định cư,
giáo dục đến nông lâm mục súc; từ tổ chức cộng đồng đến tổ chức quân đội
(1)... Nhưng 2 tấm gương cao quí nhất mà họ đã gián tiếp vạch ra cho chúng
ta thấy, đó là cái họa Thực Dân, Đế Quốc và nhất là tinh thần Thượng Tôn
Quyền Lợi Quốc Gia.
Thực dân,
đế quốc nào, bất luận Đông Tây, cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ trước hết
và sau cùng và dĩ nhiên bảo hộ, khai hoá, hữu nghị, tương trợ, đồng minh
đồng miếc gì gì cũng chỉ là các loại bình phong che đậy những tà vọng trục
lợi. Lỡ gian díu với thực dân đế quốc thì chóng chầy thế nào cũng điêu đứng,
lầm than, tàn tạ với họ. Trên thế giới, Việt Nam ta là quốc gia gian díu với
thực dân đế quốc nhiều nhất (Tàu, Tây, Nhật, Mỹ, Nga Sô); kết quả ra sao,
chắc không ai không thấy, đặc biệt trước 1996:
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả cây kia cỏ nầy.
(Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Gia Thiều)
Từ chế độ
bao cấp (40 + 10 năm), một sớm một chiều, nhảy ù qua chế độ kinh tế thị
trường (dù cố thòng thêm cho vui mấy chữ định hướng, tư tưởng nầy nọ) trên
10 năm nay, nếp sống của người dân quả có thay đổi trong chiều hướng khả
quan. Không ai phủ nhận sự hiển nhiên nầy. Điểm khả quan trong việc đổi mới
càng rõ nét hơn khi ta so sánh với thời bao cấp, đóng cửa hay bị cô lập.
Hiện nay (2006) ít ra cũng được 430 US$ người/năm. Đó là cái Được hoàn toàn
do đổi mới (hoặc là chết) mà người ta muốn sử xanh ghi nhận và người ta cũng
muốn và tìm mọi cách xóa hay lờ tịt đi bao nhiêu cái Mất trong 50 năm duy ý
chí bay theo"Chiếc Áo Bằng Mây"của thực dân, đế quốc đỏ. Ai là người trách
nhiệm với sử xanh khoảng thời gian đăng đẳng bị hoang phí nầy khi so sánh ta
với người?
Hiện nay
Israël có tất cả 13 đảng phái. Mỗi mùa bầu cử quốc hội các đảng phái cũng
sôi nổi, cũng mánh mung như các nơi khác, nhưng sau đó, đảng
nào lên nắm quyền cũng tuyệt đối thượng tôn quyền lợi quốc gia: Quyền lợi
quốc gia là trước hết và sau cùng. Quốc gia là trên hết. Có thể tóm gọn
thành "Dân vi quí, xã tắc thứ chi, đảng vi khinh".
Và người Do
Thái gián tiếp cho các dân tộc đang phát triển (nghĩa là chưa phát triển nếu
không muốn nói là đang nghèo khó) thấy rằng một dân tộc càng bị đẩy vào chỗ
chết càng mau kiếm được lối sống, miễn là dân tộc đó có muốn hay không muốn
thôi. Một khi đã quyết sống, tự cho mình là một thực tại dân tộc đặc thù thì
thực dân, đế quốc, chủ thuyết đến từ phía nào cũng phải nhượng bộ, nhìn nhận
cái thực tại độc lập đó !
Non 20 năm
nay tôi làm việc và tiếp xúc khá nhiều với người Do Thái tại Tây Âu, mày mò
tìm hiểu về họ và có dịp may qua Israël tu nghiệp hai lần, cho nên ngoài
niềm khâm phục dành cho họ trên tổng thể, tôi có chút nhận xét ngoại vi, đó
là có sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa hai nhóm Do Thái, đặc biệt cộng
đồng Do Thái chủ thể Ashkénaze - tự cho mình là dân trí thức - vẫn có cái
"nhìn xuống" đối với cộng đồng Do Thái Séfarade (hồi hương từ Bắc Phi) mà
họ đánh giá là lái buôn, ít học. Lấy ví dụ ở Israël cho đến nay không hề có
bộ trưởng nào cũng như chưa hề có một thẩm phán Do Thái gốc Ả Rập trong Tối
Cao Pháp Viện. Từ khi lập quốc năm 1948 đến nay (2006), Israël có 8 tổng
thống và 13 thủ tướng, tất cả đều gốc Ashkénaze. Đơn cử : Đương kim tổng
thống là Moshé Katsav và trước cuộc chiến với Hezbollah, thủ tướng Ariel
Sharon, cả hai trước thuộc đảng Likoud, nay ông Sharon thuộc đảng Kadima, và
đương kim thủ tướng Ehud Olmert.
Sau chiến
tranh ném đá 2 (Intifada 2), ở Jaffa, người Ả Rập mua bán trong các chợ Ả
Rập, người Do Thái mua sắm trong các siêu thị. Thu nhập khác nhau, cách sống
khác nhau, hai cộng đồng vẫn song hành, vẫn giao nhau nhưng chẳng thấy nhau.
Đạo diễn Avi Mograbi từng viết "họ đã thành công khi làm biến mất người Ả
rập trên đất nước" vì ở đây "người ta có thể nghe tiếng Hébreu, tiếng Nga,
tiếng Pháp, tiếng Anh ... và mọi thứ tiếng khác TRỪ tiếng Ả Rập.[...] Văn tự
Ả rập biến mất trên các tên đường. Mọi bảng hiệu hoàn toàn được kẻ bằng chữ
Hébreu và chữ Anh, kể cả tên họ trên các chuông cửa".
Ngày
01/10/2000, quân đội Israël bắn chết 13 công dân Israël gốc Ả Rập trong một
cuộc biểu tình tại Naplouse. Tại Tel Aviv, một số công dân Israël-Séfarade
nghiệm ra rằng người ta có thể bắn sả vào họ như bắn người Ả-rập Palestine
(năm 2000 có chừng 120.000 nhân công Ả -r â ậ p Palestine qua lại làm việc
bên Israël), còn một số công dân Israël-Ashkénaze khám phá ra rằng các thợ
thuyền hay các người giúp việc - gốc Ả Rập - trong gia đình mình có thể bất
ngờ trở thành hiểm họa, cho nên đã thay thế lần lần bằng các nhân công di cư
Nga, Roumanie, Philippine...Cứ đà nầy, Tel Aviv sẽ thực hiện được giấc mơ
thuở ban đầu: Thành phố dành riêng cho người Do Thái-Ashkénaze.
Do đó mới nảy
ra câu hỏi: Cái gì đã tạo ra cái gì? Khủng hoảng Do Thái - Palestine đã tạo
ra sự kỳ thị Ả Rập hay sự kỳ thị Ả Rập là nguyên nhân kéo dài không biết đến
bao giờ khủng hoảng Do Thái - Palestine? Và câu hỏi này làm tôi suy nghĩ
lung về chúng ta, Trong và Ngoài: "Những chân lý khác biệt ở vẻ ngoài xem
chừng tượng tự vô số những chiếc lá trông khác nhau nhưng nằm chung trên một
gốc cây". (Bapu Mahatma Gandhi: Lettres à Asbram).
Hàn Lệ
Nhân
(Cập nhật
ngày 07/10/06)
Chú thích
(1)
Đề tựa cuốn Les Murailles Israël của Jean Lartéguy, tướng độc nhãn
Moshé Dayan (1915-1981) viết đại để "Bí mật sức mạnh của quân đội chúng tôi
(Do Thái) bắt nguồn từ nguyên tắc các sĩ quan đã được học hỏi là không bao
giờ chiến đấu đàng Sau binh sĩ của mình, nhưng càng về phía Trước họ càng
hay". Thông thường khi lâm trận, sĩ quan trong quân đội các xứ khác thường
thúc quân"hãy tiến lên", còn sĩ quan Israël lại hô "hãy theo tôi". Cũng như
đối với các cộng đồng Do Thái ngoài Israël, chính phủ Israël luôn luôn chủ
trương "toàn dân Israël khao khát được liên kết cùng đồng bào", khác hẳn
trên kênh truyền hình đối ngoại nào đó, người ta kêu gọi với ngụ ý "Kiều Bào
hãy đoàn kết sau lưng (nhóm) chúng tôi" trong khi nơi nơi chính phủ là đại
diện duy nhất cho đất nước, cho toàn dân. Và chẳng chính phủ nào dám cuồng
ý, cuồng ngôn đánh đồng "chúng tôi và đất nước là Một", "yêu chúng tôi tức
yêu nước" hay ngược lại.
(**)
Balfour Declaration 1917
November 2nd, 1917
Dear
Lord Rothschild,
I have much pleasure in conveying to you, on behalf of His Majesty's
Government, the following declaration of sympathy with Jewish Zionist
aspirations which has been submitted to, and approved by, the Cabinet.
"His Majesty's Government view with favour the establishment in
Palestine of a national home for the Jewish people, and will use their best
endeavours to facilitate the achievement of this object, it being clearly
understood that nothing shall be done which may prejudice the civil and
religious rights of existing non-Jewish communities in Palestine, or the
rights and political status enjoyed by Jews in any other country."
I should be grateful if you would bring this declaration to the
knowledge of the Zionist Federation.
Yours sincerely,
Arthur James Balfour
---------------------------------------
Tài liệu tham khảo chính:
* Bài Học Israël của Nguyễn Hiến Lê,
nxb Nguyễn Hiến Lê - Sàigòn 1969.
* Các sách đã nêu trong bài và
Internet.
©
http://vietsciences.free.fr ,
http://vietsciences.org và
http://vietsciences2.free.fr PĐT Hàn Lệ Nhân |