Nghề công nhân
mỏ là một trong những nghề nguy hiểm nhất. Năm 1942,
bên Trung quốc, có một tai nạn mỏ làm 1.549 người
thiệt mạng. Với 1.099 tử vong tai nạn, mà sau này
người ta gọi là "Thảm họa Courrières", là tai nạn mỏ
khủng khiếp thứ nhì trong lịch sư ngành mỏ. Tai nạn
này xẩy ra ngày mồng 10 tháng Ba năm 1906, cách đây
một thế kỷ. Tai nạn đã để lại một ấn tượng mạnh và
lâu bền trong ký ức những công nhân mỏ và đã là khởi
điểm cho những biện pháp cương quyết về an toàn lao
động. Năm 1967, chúng tôi có dịp đi thực tập tại khu
mỏ Petite Rosselle, biên giới Pháp-Đức. Ở khu mỏ này
đã xảy ra nhiều vụ nổ khí đốt[1] :
năm 1907 (83 tử vong), năm 1948 (24 tử vong), năm
1958 (12 tử vong),… Nhưng khi đề cập những tai nạn
mỏ thì dân địa phương thường nêu lên những gì cha
ông họ kể về tai nạn và vụ đình công ở Courrières,
miền Bắc nước Pháp, xẩy ra hơn sáu chục năm về
trước.
Sau đây chúng
tôi xin kể diễn biến Thảm họa Courrières, vụ đình
công tiếp theo tai nạn và hậu quả chính trị của nó.
Chúng tôi dựa trên những chuyện chúng tôi được dân
khu mỏ Petite Rosselle kể về tai nạn này nhưng cũng
bổ túc và kiểm tra thông tin qua những bài báo Pháp
đã được đăng để tưởng niệm một trăm năm Thảm họa
Courrières[2].
Diễn biến thảm họa
Tai nạn gọi là
"Thảm họa Courrières" (Catastrophe de Courrières) từ
tên Công ty Mỏ Courrières (Compagnie Minière de
Courrières), chủ nhân khu mỏ. Thực ra tai nạn xẩy ra
trên địa bàn ba xã Billy Montigny, Méricourt và
Sallaumines. Cho tới bây giờ các chuyên gia vẫn bàn
cãi về nguồn gốc tai nạn : lửa cháy, nổ than bụi hay
là nổ khí đốt.
Ngày thứ Ba
mồng 6 tháng Ba 1906, một đám cháy xẩy ra tại một
mạch than ở giếng số 3, giếng Lavaleresse thuộc xã
Méricourt. Những công nhân mỏ đòi đổ nước vào hầm để
tắt lửa. Nhưng ban giám đốc quyết định cho xây một
bức tường ngăn lửa để có thể tiếp tục đào mỏ ở những
nơi khác. Nhưng lửa không tắt và ngày mồng 8 và mồng
9 phải xây thêm một bức tường thứ hai.
Thứ Bẩy mồng
10, mặc dù đám cháy chưa được kiềm chế và mặc dù một
đại biểu công nhân cảnh báo nguy cơ, ban giám đốc ra
lệnh những công nhân mỏ phải xuống hầm làm việc. Lúc
06g00, 1.795 công nhân mỏ
xuống hầm làm việc. Khoảng 06g35, bỗng nhiên giếng
số 3 nổ. Lửa lan tràn những đường hầm về hướng những
giếng khác. Những ngọn lửa nổ tung ra làm cho
những đường hầm và những giếng mỏ lụt lở. Khói bốc
lên nghi ngút. Những mái nhà và cửa kính những nhà
xây gần những giếng bị phá bay tung lên. Xác một con
ngựa, thùng thang máy và những thiết bị đào mỏ bị
bắn tung ra khỏi những giếng. Quạt thông hơi bị phá
vỡ ngưng không thổi nữa. Kỹ sư chỉ huy giếng số 3
dẫn công nhân dưới quyền của mình chạy ra ngoài.
Bỗng nhiên một thùng thang máy bị thổi bốc mạnh lên
trên và thùng thứ hai dùng làm ngược trọng bị dập
xuống đáy giếng. Ở giếng số 2, giếng Auguste
Lavaurs thuộc xã Billy Montigny, kỹ sư chỉ huy cũng
dẫn công nhân dưới quyền chạy chốn. Khi thùng thang
máy lên tới mặt đất thì tất cả đã chết xỉu.
Báo động được
phát ra lúc 06g45. Nhưng
đoàn cấp cứu chịu bó tay vì khí nóng không cho phép
họ vào những đường hầm. Lúc 12g00, hai chục công
nhân mỏ ngoi ra được khỏi một giếng. Xác những nạn
nhân đầu tiên được mang ra ngoài trời lúc 19g00.
Chúa nhật 11
đoàn cấp cứu tìm cách thổi những khí độc ra khỏi các
hầm và cứu thoát được thêm vài người.
Sáng thứ Hai 12
đội chữa cháy từ Paris chạy đến tăng cường đoàn cấp
cứu địa phương. Đến chiều thì có thêm 25 chuyên viên
từ vùng mỏ Westphalia, Đức, đến tiếp tay. Nhờ những
bộ trợ giúp hô hấp những người cứu trợ này có thể
xuống những đường hầm với hy vọng cứu được vài người
còn sống. Nhưng họ chỉ mang lên mặt đất được một số
người chết vì đã bị nghẹt thở hoặc đã bị cháy thiêu.
Đến tối những người còn kẹt dưới mỏ đều bị coi là đã
chết cả rồi.
Nhưng thứ Sáu
30 tháng Ba, ba tuần sau tai nạn, 13 người từ dưới
mỏ bò ra. Trong thời gian bị nhốt họ đã ăn thịt một
con ngựa, ăn thóc dành để nuôi con ngựa đó và uống
nước tiểu của họ pha với nước lã. Với sự xuất hiện
thần diệu của những người này, những đội cấp cứu lại
phấn khởi cố gắng tìm xem có thêm người nào còn sống
không.
Thứ Tư mồng 4
tháng Tư, người ta cứu được người sống sót cuối cùng
còn ở giếng số 4, giếng Sainte Barbe thuộc xã
Sallaumines. Chúa nhật mồng 8, cũng ở giếng đó,
người ta lại phát hiện thêm một con ngựa hãy còn
sống.
Việc gom xác
tiến hành chậm chạp vì không khí ô nhiễm, những đám
cháy và mùi hôi thối phát ra từ những xác chết. Đến
ngày 25 tháng Bảy việc gom xác này mới được coi là
hoàn tất. Tổng kết tai nạn là 1.099 người chết trong
đó có 272 người không nhận dạng được. Những xác có
gia đình nhận thì được an táng ở quê nhà còn những
xác vô danh thì chôn ở một huyệt tập thể ở xã
Méricourt.
Đình công
Những rối loạn
bắt đầu ngày 13 tháng Ba,
ba ngày sau vụ nổ. Hôm đó có tới 15.000 dân các xã Billy Montigny, Méricourt và Sallaumines tụ tập dưới làn mưa tuyết
làm lễ an táng những nạn nhân đã được nhận dạng.
Những thân hào luân phiên nhau phát biểu. Ở
Méricourt, giám đốc Công
ty Mỏ Lavaurs, nêu rằng tai nạn là một sự tiền mệnh
và bị lãnh đạo công đoàn Basly cùng những
người có mặt chất vấn. Ở Billy Montigny, kỹ
sư trưởng bị đám đông la ó phải chạy chốn. Ngay tối
hôm đó những công nhân mỏ quyết định bãi công.
Trên tờ Nhân
đạo (L'Humanité) Jean Jaurès, lãnh tụ Đảng Xã hội,
kêu gọi mở một đợt lạc quyên để giúp đỡ những gia
đình công nhân mỏ bị khó khăn vì đã mất một cột trụ
nuôi dưỡng. Ngày hôm sau ông viết một bài kết án ban
giám đốc mỏ tham lam đã đặt lời lãi của họ trên sự
an toàn của những người khố nạn. Ông đòi Công ty Mỏ
Courrières bị tước nhượng quyền khai thác mỏ.
Ngày 17 tháng
Ba, ban giám đốc mỏ quyết định ngưng mọi việc cấp
cứu để có thể đào mỏ lấy than trở lại. 32.000 công
nhân mỏ đình công. Không khí rất căng thẳng. Đoàn
thể công nhân chia rẽ. Một bên ôn hòa, Công đoàn
Già, do Émile Basly, một lãnh đạo công đoàn lão
thành, cầm đầu và một bên cứng rắn, Công đoàn Trẻ,
do Benoît Broutchoux, một tay gây rối vô trị, cầm
đầu. Vụ đình công trở nên một phong trào khởi nghĩa
với những vụ phá hoại và ẩu đả với quân nhân. Trước
tình hình đó và với sức ép mị dân của Broutchoux,
Công đoàn Già đành phải lấy thái độ cứng rắn. Nhất
là phía chủ nhân không sốt sắng thương lượng lắm.
11 giờ sáng
ngày hôm đó, Georges Clemenceau, tân bộ trưởng Nội
vụ, đến Lens (huyện lỵ mà Courrières tùy thuộc). Ông
ra lệnh tịch thu sổ khiếu nại trong đó những đại
biểu công nhân đã ghi những nhận xét về an toàn của
khu mỏ. Ông kêu gọi mọi người phải ôn hòa và tuyên
bố tôn trọng quyền đình công và sẽ không gửi quân
đội đến đàn áp đình công nếu tự do lao động được tôn
trọng. Nhưng ba ngày sau ông điều quân đến chiếm
vùng mỏ.
Ngày mồng 1
tháng Tư, hai ngày sau khi tìm được 13 người sống
sót, bộ trưởng Công chính nịnh hót tuyên dương những
người này. Hai người được Bắc đẩu Bội tinh (Légion
d'Honneur) và những người khác huy chương vàng Anh
dũng cử (Médaille d'Or du Courage).
Các công đoàn
trách ban giám đốc đã vội vã bịt những giếng để có
thể sớm tiếp tục khai thác mỏ bất chấp khả năng vẫn
còn tìm được vài người sống sót. Bị nhóm vô trị
Broutchoux lôi kéo, những công nhân mỏ giận dữ bao
vây tòa thị sảnh Lens và cướp phá chợ Liévin gần đó.
Ngày 14 tháng Tư, Ủy ban Điều tra Hành chính, do Bộ
Công chánh triệu tập và do giám đốc Trường Hầm Mỏ
chủ trì, miễn tội những kỹ sư mỏ. Được tin này những
công nhân mỏ lại càng phẫn nộ thêm. Họ đánh đập
những đại diện của Công ty, phá nhà giám đốc Công ty
ở Lens, làm nổ nhà những tay phản đình công, cướp
kho của Công ty. Lãnh đạo công đoàn ôn hòa Basly
không kêu gọi được mọi người ngưng bạo động.
Trước tình hình
bất ổn đó, ngày 18 tháng Tư, chính phủ Pháp ban bố
quân luật ở vùng mỏ, cấm mọi tụ tập và ra lệnh
25.000 lính đương đầu với 70.000 người đình công. Ẩu
đả giữa công nhân và quân nhân xẩy ra. Một số người
bị thương. Một trung úy kỵ binh tử thương vì một
viên đá ném vào đầu. Ngày 20 tháng Tư, bộ trưởng Nội
vụ Georges Clemenceau, cùng với bộ trưởng Chiến
tranh Eugène Étienne, đến dự lễ an táng vị sĩ quan
bị nạn. Ông ra lệnh bắt giam
Benoît
Broutchoux. Sau đó ông
đến thăm những người bị thương, gặp giám đốc Công ty
Mỏ Courrières và tham luận với đại biểu những người
đình công.
Kể từ ngày 22
tháng Tư, quân đội kiểm soát toàn khu mỏ. Hai bên,
công nhân và chủ nhân, bắt đầu thương lượng. Phía
chủ nhân nhượng bộ một chút về mức lương. Từ 28
tháng Tư đến mồng 7 tháng Năm, những người đình công
lần lượt làm việc trở lại vì không có lợi tức gia
đình trở nên khốn cùng. Cuộc đình công bị coi là đã
thất bại kể từ ngày mồng 8 tháng Năm.
Ngày 11 tháng
Bảy, tòa án Béthune, chuẩn theo kết luận của Ủy ban
Điều tra Hành chính, miễn tố những kỹ sư hầm mỏ.
Không ai phản đối quyết định này. Ngày mồng 5 tháng
Năm 1907, tòa án Arras miễn tố trách nhiệm hình sự
của Công ty Mỏ Courrières. Mọi thủ tục kháng án liên
tiếp của các công đoàn mỏ và của Đảng Xã hội đều vô
hiệu.
Những hậu quả của thảm họa
Trong diễn biến
của cuộc đình công có ba tác nhân nổi bật : Émile
Basly, Benoît Broutchoux và Georges Clemenceau
Émile Basly là
lãnh đạo một công đoàn bị gọi một cách chế riễu là
Công đoàn Già. Công đoàn này gồm bởi những công nhân
mỏ muốn cải cách trong khuôn khổ pháp lý. Ông đã
được bầu làm nghị sĩ Đảng Xã hội năm 1891 và làm xã
trưởng huyện lỵ Lens từ năm 1900. Ông đã là tác gỉa
của nhiều đạo luật lao động trong đó có luật về ngày
làm việc 8 giờ. Trong vụ đình công, ông là đối tác
của bộ trưởng Clemenceau và của ban giám đốc Công ty
Mỏ Courrières. Những lời kêu gọi mọi người trở lại
bình an của ông không có hiệu lực vì bị Công đoàn
Trẻ thi đua hứa hẹn[3].
Benoît
Broutchoux là đoàn viên Công đoàn Trẻ thuộc xu hướng
công đoàn vô trị. Nhân vật khá phức tạp này đã đi
làm ở nhiều khu mỏ. Đến nơi nào ông cũng tụ tập nhân
công, tổ chức đình công và, vì thế, bị đuổi đi. Sau
khi ông bị Clemenceau bắt thì nhóm quá khích của
Công đoàn Trẻ tan rã và không ai còn nhớ đến tông
tích ông nữa.
Georges
Clemenceau lúc còn trẻ thuộc xu hướng cực tả. Ông
được bầu nghị sĩ rồi thượng nghị sĩ Paris. Ông nghĩ
muốn đổi mới thì trước tiên phải có trị an. Vì thế,
khi làm bộ trường Nội vụ và thủ tướng, ông đã đàn áp
mọi rối loạn khi xẩy ra những vụ đình công đến nỗi
bị mang tiếng là "người phá đám đình công". Ông cũng
nổi tiếng là can đảm. Mọi người còn nhớ, trong Đệ
nhất Thế chiến ông thường xuyên đi cổ võ binh lính ở
tận những chiến hào tiền tuyến. Năm 1906, vừa mới
được phong bộ trưởng Nội vụ có vài ngày ông đã đến
huyện lỵ Lens để kêu gọi mọi người bình tĩnh. Sau
đó, mặc dụ tình hình bất ổn, ông trở lại đương đầu
với những người đình công bạo động và tạo điều kiện
để hai bên công nhân và chủ nhân thương lượng. Người
ta trách ông đã ra lệnh tịch thu sổ khiếu nại của
công nhân mỏ : để bảo đảm tang vật cho tòa án hay là
để giấu tội của ban giám đốc mỏ ?
Georges
Clemenceau và Jean Jaurès là hai đối thủ chính trị
thường xuyên đấu khẩu kịch liệt ở Quốc hội Pháp.
Nhưng cả hai đã thi nhau đề xướng nhiều đạo luật cải
thiện đời sống người lao động. Nửa năm sau vụ đình
công ở Courrières và ngay sau khi nhận chức thủ
tướng kiêm bộ trưởng Nội vụ, ông Clemenceau ra nghị
định thành lập Bộ Lao động đầu tiên trong lịch sử
nước Pháp. Bộ này có một số bộ phận như Cục Lao
động, Cục Bảo hiểm và Tương tế Xã hội và Cục Liên
đới. Bộ này cũng có một đoàn thanh tra lao động với
chức năng điều tra việc thi hành những quy định về
lao động như là lương bổng, an toàn và vệ sinh lao
động, lao động của thiếu nhi, lao động tại gia,…
Về phong trào
công nhân thì, sau vụ đình công năm 1906 ở
Courrières, những công nhân mỏ theo xu hướng công
đoàn vô trị gia nhập công đoàn CGT (Confédération
Générale du Travail, Tổng liên đoàn Lao động) mới
được thành lập. Nhờ đó đội ngũ công đoàn này được
tăng cường đáng kể và trở nên công đoàn Pháp đầu
tiên có quy mô toàn quốc. Công đoàn CGT sẽ tranh đấu
cho toàn thể giai cấp công nhân của mọi ngành nghề.
Những đoàn viên
mỏ còn lại tiếp tục bảo vệ quyền lợi của riêng những
công nhân mỏ. Họ có một số tiên quyết : chỉ bạo động
khi phải tự vệ, cố gắng giải quyết mâu thuẫn với chủ
nhân bằng thương lượng và những biện pháp pháp lý,
tôn trọng công cụ hành nghề mặc dù những công cụ đó
vẫn còn là sở hữu của chủ nhân,… Vì thế mà những
công đoàn mỏ bị gọi là những "công đoàn theo chủ
nghĩa nghiệp đoàn". Nhưng sau này, nhất là kể từ Đệ
nhị Thế chiến, những công đoàn khác, kể cả công đoàn
CGT, lần lượt tuân theo đường lối đó.
Một số lãnh đạo
công đoàn mỏ có truyền thống ra tranh cử và đã được
bầu vào những hội đồng xã và Quốc hội Pháp. Sau vụ
đình công ở Courrières việc này trở nên một tập quán
trong giới công nhân mỏ. Nhờ tham chính như vậy họ
đã có khả năng đề ra những chủ trương thuận lợi cho
giai cấp công nhân mà người lao động Pháp bây giờ
hưởng thụ : tự do thành lập và gia nhập công đoàn,
giảm thời gian lao động hàng tuần, nghỉ phép có
lương, bảo hiểm y tế, lương hưu trí,…
[1]
Hai hiểm nguy lớn nhất của ngành mỏ là bụi nổ và
khí đốt nổ. Bụi than bay lơ lửng trên không vì
những chuyển động trong hầm. Khí đốt là một hỗn
hợp khí hydrocarbur gồm chủ yếu khí methane do
sự biến đổi của than đá tụ tập ở một túi địa
chất và có thể tung ra ngoài nếu túi đó bị phá
vỡ. Trong một hỗn hợp thích ứng với ô xy của
không khí và nếu có một tia chớp sáng thì bụi
than hay khí đốt có thể nổ.
[3]
Emile Zola (1840 1902) đã lấy Émile Basly làm
mẫu cho nhân vật Étienne Lantier của tiểu thuyết
Germinal. Điều đáng chu ý là tiểu thuyết
Germinal xuất bản năm 1885 kể chuyện một
cuộc đình công diễn biến đúng như cuộc đình công
ở Courrières.năm 1906.
ĐẶNG Đình Cung
Kỹ sư Tư vấn
|