Có các ý kiến cho
rằng tổ các vua Trần là người Hán đi từ Nam Trung Quốc, nên các triều
thần Trần có khuynh hướng dung hòa và thần phục với thiên triều. Điển
hình là ngay cả trong lúc đất nước đang đối đầu với các cuộc xâm lăng
của nhà Nguyên Mông Cổ, một số tôn thất nhà Trần đã khuyên vua nên qui
hàng với khẩu hiệu "nhập Tống". Nhà Trần đã chia ra hai, một số theo
Trần Ích Tắc về cố hương trong khi đa số còn lại trung thành với vua
chiến đấu chống ngoại xâm.
Ý kiến này đựa vào một
đoạn của chính sử về tổ tiên họ Trần.
Theo "Đại Việt Sử Ký
toàn thư", (Quyển 5, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa
Học Xã Hội Việt Nam, 1993) nói về Thái Tông Hoàng Đế :
"..Trước
kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có
người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp,
Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con
thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần...."
Như vậy có phải tổ 3
đời của vua Trần là người Hán Hoa hay không? Có nhiều dữ kiện cho thấy
rằng không phải vậy. Bài này có mục đích chứng tỏ rằng họ Trần từ đất
Mân không phải thuộc dòng văn hoá Hán Hoa.
Chúng ta đã biết rằng
dưới đời Trần phong tục xâm hình (nhất là rồng) rất phổ biến mà sứ giả
Tống Nguyên, khi đến Việt Nam đã ghi lại và gọi là "Thái Long". Thượng
hoàng Trần Nhân Tông đã từng khuyên răn vua và con cháu rằng: "Nhà ta
vốn là dân hạ bạn ưa chuộng việc hùng dũng, thường thích hình rồng vào
đùi để tỏ mình không quên gốc.". Tục xâm mình không bao giờ có ở văn hoá
Hán Hoa.
Để bảo vệ cho triều đại
Trần ban đầu khỏi bị lung lay, tôn thất nhà Trần đã không ngần ngại lấy
nhau trong họ hàng. Đây là một điều mà văn hóa Hán Hoa cấm kỵ.
Nhà Trần có nguồn gốc
là dân chài lưới đi từ đất Mân (hay có người nói là từ Quế Lâm) đã đến
vùng bờ biển Bắc Việt định cư. Đất Mân có địa thế ở vùng biển Nam Trung
Quốc dọc từ Phúc Kiến đến Quảng Đông. Vậy thì những người ở xứ Mân là
những người có nguồn gốc như thế nào.
Bây giờ nói đến chuyện
Hán hoá ở miền Nam Trung Hoa. Tôi có một chút ý kiến về mức độ Hán hóa
trong thế kỷ 13. Theo tôi mức Hán hóa trong giai đoạn này không sâu rộng
nhất là ở miền quê hẻo lánh hoặc ở miền núi và vùng biển của các làng
chài dọc bờ biển.
Như ta đã biết Vương
quốc Nam Chiếu (Nan Chao) ở miền Nam Trung Hoa (Vân Nam) tồn tại cho đến
khi nhà Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Sự di dân của người Nam Chiếu ở thế kỷ
13 dẫn đến sự thành lập của các vương quốc Thai Sukhothai, Ayuthaya và
ngày nay Thailand. Đến bây giờ ngay cả đi dến miền Nam Trung Quốc giáp
giới Vietnam, ta vẫn còn thấy nhiều dân tộc chưa bị Hán Hoá. Ngay cả đến
Côn Minh, phong thái của dân vùng này còn đượm nét Nam Á. Ta cũng không
quên nhắc lại là đảo Đài Loan (hay Formosa) đã được định cư từ lâu đời
bởi những người Polynesian thổ dân. Chỉ đến thế kỷ 17 khi nhà Minh mất
thì số lượng người Hán di dân và lập nghiệp đến đông đảo và chiếm đa số
và đẩy người Hoà Lan ra khỏi đảo. Hòa Lan lúc đó đang lập một thuộc địa
ở đảo Formosa và dùng nơi đó làm trạm buôn bán với các nước Nhật, Đại
Hàn và Trung Quốc. Họ đã đánh và đẩy người bản xứ
vào sâu trong rừng núi hải đảo.
Về nguồn gốc họ Trần,
tôi trích đây một đoan ngắn trong bài "Sông Châu, Núi Đọi Họ Trần và
những quan hệ với cụ Kép Trà" (Trần Quốc Vượng - Theo dòng lịch sử) :
"...
Ai cũng biết: Họ Trần
gốc dân chài miệt biển, trãi daì từ Phúc Kiến đến tận Xanhgapo, có cội
nguồn Malai cổ (Anhdônêdiêng), theo một hệ thống thân tộc khác với chế
độ cửu tộc của người Hoa mà sau này các họ người Việt cũng áp dụng, anh
em gọi là "con chú con bác ruột" thuộc diện "hôn nhân ưu tiên", mà giới
nho sĩ Hoa hoá sau này gọi là "loạn luân". Họ đã dần dà ngược
sông lên làm ruộng lúa nước ở các vùng ô trũng, tập trung nhất là ở Sơn
Nam Hạ (Thái Bình - Nam Định cũ) và ở Quảng Ninh (Yên Tử - Đông Triều)
rồi tản mát đi các nơi.
..."
Từ các kiến trúc đời
Trần, đời sống văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ về sông biển mà họ Trần có
nguồn Việt cổ dùng cùng với các địa danh vần còn lưu lại, cũng
như ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Chàm vào văn hoá Việt .. ta có thể
đặt câu hỏi : Phải chăng họ Trần có nguồn gốc Việt cổ mà các dấu vết để
lại đã cho phép và gợi cho ta câu trả lời xác định ?
Một vài phương chính về
tâm thức, xã hội học, văn hóa học.. bổ túc thêm về nguồn gốc họ Trần và
thời đại Trần nói chung sẽ được phân tích sau đây.
(1) Tâm linh văn hóa dưới đời Trần
Người dân Việt miền
biển Bắc phần mà họ nhà Trần tập trung từ Nam Định, Hải Dương lan vào
nội địa có văn hoá sông nước gắn liền với văn hóa vùng cao tạo thành một
bản sắc của văn hóa Việt nam. Bản chất sông nước của họ Trần được thể
hiện sau đây (trích Trần Quốc Vượng "Xứ đông Hải Hưng nhìn từ kẻ chợ"
trong sách "Theo dòng lịch sử"):
".. xứ Nam có Chử Đồng
Tử rồi mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải đại vương
với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc đường 5 xuống tận Hải Phòng.
Thần là ai?
Ai biết đi điền dã dân
tộc-sử (Ethno-historic) thì sẽ hiểu: Nguyên lai, đấy là những đền thờ
CÁ-ÔNG-VOI của ngư dân và cư dân ven biển; sau thời Lý sang đời Trần,
thì thần Đông Hải Hải Đông đã được nhân cách hóa và hóa thân vào một
nhân vật lịch sử có thật: Đó là tướng quân Đông Hải đại vương Đoàn
Thượng, người đã cùng tướng quân hoài Đạo Vương xứ Bắc Nguyễn Nộn làm
nghiên ngửa lịch sử
cuối Lý đầu Trần. Để cuối cùng, vì chia rẽ nhau, cả 2 tướng quân xứ
Đông, xứ Bắc đều thua trí, thua lực của dòng họ Trần gốc dân chài xứ
Nam.
Họ Trần trở thành hoàng
tộc, nở rộ từ xứ Nam-Thiên Trường rồi loan toa sang cả lộ Hải Đông và cả
nước, với "cái nhìn về biển" rộng rãi hơn. Chính nhà Trần đã chia miền
Biển Đại Việt khi ấy thành 2 khu vực quản lý: HẢI ĐÔNG từ cửa Đáy đến
giáp Khâm Liêm Quảng Đông, HẢI TÂY chạy dọc dài ven biển
Thanh-Nghê.-Tỉnh Bình-Tri.-Thiên..." Gốc nhà Trần vì thế là thế giới
sông nước và biển.
Nếu bây giờ chúng ta so
sánh với lập nghiệp của họ Trần so với lập nghiệp của họ Mạc Cưũ ở Hà
Tiên Trấn sau naỳ, ta sẽ thấy những sự khác biệt to lớn. Nếu viếng Hà
Tiên và xem đền thờ hoặc chùa chiền của họ Mạc, ta sẽ thấy kiến trúc và
thần linh đều là của Hán và ảnh hưởng Hán rất manh. Trái lại chúng ta
không thấy những dấu vết này ở các kiến trúc đời Trần.
Đền thờ và kiến trúc
của họ Trần ở Thiên Trường, Yên Tử hoặc các nơi khác như Thăng Long thì
rõ ràng là mang nặng tâm thần Đại Việt. Đặc biệt ở quê hương họ Trần, có
nhiều đền thờ thủy thần. Vùng Hà Nam Ninh cũng là nơi khám phá nhiều
thuyền mộ (một nghi thức tiêu biểu cuả cư dân sông nước Đông Nam Á). Có
thể nói nơi này là nơi các làn sóng cư dân hải đảo từ nhiều nơi đi đến,
kể cả họ Trần. Những đoàn ngư dân tổ họ Trần làm vua, nếu là Hán Hoa đến
đây bằng thuyền thì sẽ cảm thấy lạc lõng trong một môi trường văn hóa xa
lạ (Xem thêm Hà Văn Tấn: "Văn hóa nguyên thuỷ Đông Nam Á như một cội
nguồn của văn hóa dân gian", Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3,
p.9-12. Phạm Quốc Quân: Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới
phát hiện ở Hà Nam Ninh", Tap chí Khảo Cổ Học, số 2-1981)
Sự thờ thuỷ thần là một
nét đặc biệt ở vùng naỳ như thờ Quảng Bá đại vương và mẫu thuỷ thần cùng
5 con trai của thủy thần như ở đền Thánh Cả, Thánh Hai, Thánh Ba, Thánh
Tư và đền Thánh Ngũ.
Theo Trần Quốc Vượng, ở
các vùng văn hóa Champa cũng có cơ cấu gắn với các dòng sông miền Trung
và lên mô hình qui hoạch "tiểu quốc" Chăm cổ lấy dòng sông là trục chủ
đạo (generator) như ở cơ cấu Hà Nam Ninh thời Trần (xem TQV "Sông
Châu-Núi Đọi-Họ Trần và những mối quan hệ với cụ Kép Trà" trong sách
"Theo dòng Lịch Sử").
Cũng không lạ gì, khi
những từ Việt Nam như: sông ngòi, cá, cù lao.. là những từ gốc
Malayo-Polynesian mà người Việt, Chàm, Mã Lai và gốc Malaya-Indonesian ở
Đài Loan.. (xin mở ngoặc đây là từ cá, một món ăn không thể thiếu được
của cư dân đảo và nước, như Họ Trần nhà ta, là từ gốc cho nhiều dân tộc
trên)
"Theo Từ nguyên học dân
gian kiểu "đền Gàn" ở Thanh Trì là ông thánh này có tính gàn. Kỳ thực,
theo văn bia còn lại ở đền đời Lê và theo Lĩnh Nam Chích Quái đền có tên
là "Xá Càn" và thần là con của Thuỷ Thần. Xá Càn, cũng như Càn, Gàn (K-G
về ngữ âm, kiểu Cấu, Cáo của phương ngữ Thanh Hóa và Mường) đều có gốc
Malayo-Polynesian là CÁ. Tiếng Nhật: Xa-kan = cá, tiếng Chàm Kan=Cá)"
(TQV "Mấy nét tóm tắt về làng Giẽ Hạ - Xã Thịnh Phúc và Phủ Từ họ Đặng ở
xã nhà" trong Theo dòng Lịch Sử)
Cũng vậy các loại cửa
biển mang tên Cờn - Càn ở Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ
Tĩnh, Bình-Tri-Thiên đều mang ý nghĩ đó theo gốc Mã Lai cổ. Ông tổ các
họ Trần đi thuyền đến định cư vùng này sẽ tìm thấy một môi trường quen
thuộc và dễ chịu chứ không phải là một môi trường văn hóa xa lạ
(2) Giao lư u văn hóa Việt-Chàm dưới
đời Trần
Phần trên tôi trình bày
vài nét về tính chất Việt cổ trong tâm thức thời Trần. Đây là sự kết tục
từ đời Lý qua nhiều triều đại vua mà sự thể hiện rõ rệt và nổi bật nhất
là dưới triều vua Trần Nhân Tông.
Trong phần này tôi
trình bày về những ảnh hưởng và giao lưu văn hóa Chàm-Việt dưới thời
Trần. Sự giao lưu này là kết quả của những cộng hưởng tâm thức và văn
hoá ngội cuồn cổ của 2 dân tộc cùng nguồn mà ở đời Trần là tiêu biểu của
tính chất Việt gắn liền với đặc tính Đông Nam Á.
Vì nói về vấn đề giao
lưu cộng hưởng tâm thức Chàm Việt, tôi sẽ chú trọng nhiều về viễn tượng
văn hoá (cultural perspective) hơn là viễn tượng chính trị (political
perpective).
Về phương diện ngoại
giao và chính trị, trong thời điểm dưới nhà Trần, Champa ở vào thế nguy
kịch của lịch sử mình ở Đông Nam Á. Chiến tranh với Mông cổ, Khmer và
sau này Đại Việt chưa kể trước đó với Java.
Để mở đầu, tôi xin
trích một vài đoạn trong bài của GS Cao Xuân Phổ trong một hội nghị về
sử học Đông Nam Á (5):
“..
Lúc bấy giờ, cư dân
Đông Nam Á lần lần cư ngụ trên các đồng bằng và vùng trung du dọc theo
các sông lớn như Mekong, Menam, Salween, Irrawady, Hồng, Mã ... (và các
phụ lưu) và chính những con sông này, như những đường chỉ trong sâu
chuổi, nối những cư dân với nhau. Biển Nam Hải, với những dòng biển gió
mùa thổi trong những khu đã được thiết lập, nối những cư dân vùng biển
trên lục địa, kể cả dân hải đảo lẫn nhau. Sông, và biển ở Đông Nam Á,
không những là những thành phần cá tính đóng góp vào lối sống Đông Nam
Á, mà còn là sợi dây liên kết dân cư ở lục địa và hải đảo. Vì thế ngay
cả trước khi văn hoá Ấn Độ
và Trung Quốc, Đông Nam Á đã có một cá tính riêng biệt và thành đạt. “
“Khi mà dân ở vùng phía
Nam bán đảo Ấn Hoa và ỏ các hải đảo tiếp nhận
các thành phần của văn hoá Ấn
Độ và lần lần thiết lập tổ chức xã hội của họ
(Xây Dựng), thì những cư dân phía Bắc ở bán đảo, nhất là các bộ tộc
Việt, phải chống lại sự Hoa hoá (Bảo tồn) khi bắc buộc phải tiếp nhận
văn hoá Trung Quốc..”
“Các người Việt, dưới
triều đại Lý và Trần, trên đường thiết lập quốc gia, có để ý đặc biệt về
biển. Ta nên nhớ rằng từ thời đại Đông Sơn, họ đã kết hợp ba thành phần
văn hoá: đồng bằng, biển và núi trong một cơ cấu thành đạt, mặc dầu vẫn
còn thô sơ. Cơ cấu này sau đó đã bị phá mất dưới sự thống trị cả ngàn
năm của Trung Quốc. Và bây giờ nước Việt đang hội nhập vào đại gia đình
Đông Nam Á. Rất là tự nhiên rằng sau giải phóng và trở lại với các dân
tộc khác ở Đông Nam Á, người Việt tiếp nhận từ các dân tộc ấy những
thành tựu văn hoá để tăng thêm vị thế của mình
dù đây chỉ là việc trong gia đình các dân tộc. Trong sự tiếp nhận này,
không có sự chống đối thù nghịch. Thật là kỳ diệu khi con chim thần
Garuda đã nằm ở các bệ đá chùa của các triều đại Lý - Trần (thế kỷ 11 -
14). Các tượng người gác khổng lồ ở chùa Phật Tích (vết tích đời Lý -
thế kỷ 11) rất giống các tượng thần dvarapalas ở Đồng Dương (Champa),
hay các trống Java treo trước ngực của chim thần Kinnaris dưới đời Lý.
Và phật giáo dưới triều Lý rất hãnh diện với
phái “Thảo Đường” tạo lập bởi vị sư cùng tên đã sống ở Chàm “.
Quả vậy, ngoài hình
tượng rồng phổ biến trên nóc các đền, chuà.., khi ta đến chùa Ngọc Đ`inh
(Hà Sơn Bình) sẽ thấy ở vị trí trụ cột trên bốn góc của nhiều bệ đá,
hình dáng những con Garuda mình người đầu chim. Những hoa mỹ trên bức
trạm gỗ con Kinnari, mình chim đầu người, ở chùa Thái Lạc (Hải Hưng)
dâng hoa tấu nhạc với những nhân vật trung tâm là vũ nữ, là nhạc công.
Kiến trúc, hoa văn,
điêu khắc, tượng trong nghệ thuật Trần có phẩm chất dân gian. Phong cách
ấy chuộng những hình khối và đường nét mập và khoẻ. Cái mập và khoẻ ở
đây được thể hiện trong những khối căn và lẳn, những đường thanh và
mạnh, với một cấu trúc hình khối tinh lọc và giản dị, khiến cho tất cả
những tượng này nói chung đều vững chải mà không nặng nề, ung dung,
đường bệ mà không tĩnh. (Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1977).
Phong cách này hoàn
toàn hoà hợp với hình thể phong cách Champa trong những kiến trúc Chàm
sau khi gạt lọc đi những biểu tượng Ấn hoá.
Champa vi thế trong đời
Lý-Trần trở thành như trạm chuyển -gạch nối giữa Đaị Việt và cộng đồng
các dân tộc vùng Đông Nam Á. Ảnh hưởng và giao lưu của văn hoá Chàm vào
một đất Việt có tính cách đón nhận hay bổ sung chứ không miễn cưỡng như
văn hóa Hán. Để hiểu rõ thêm về luồng nhận trên, ta hảy xem xét một vài
khía cạnh văn hoá và con người dưới thời Trần.
Trần Quốc Vượng trong
bài "Bắc Thái - Anh là ai" trong 'Theo dòng lịch sử" có đề cập đến giao
thoa văn hoá như sau:
"..
Không thể hiểu được Bắc
Ninh văn hiến nếu không cắt nghĩa nó là một hiệu quả giao thoa, giao hoà
văn hoá Việt, Hán, Ấn, Chàm.. trong suốt một kỳ gian lịch sử từ thời cổ
đại đến Lý-Trần.. Không có Sĩ Nhiếp, Khâu Dà La (tỳ khuư A Xa Lê tức
Thầy Đen, Ấn Độ), Ti Ni Đa Luư Chi, Vô Ngôn Thông và nhiều tù binh-nghệ
sĩ Chàm đến tụ cư ở Luy Lâu, Long Biên, Phù Đổng.. thì cũng khó mà có
một truyền thống văn hiến Kinh Bắc của thời tự chủ như ta hiện thấỵ Đằng
sau một Nguyễn Nộn cư sĩ Phù Đổng, là một nguời Chàm Phan Ma Lôi "giỏi
cuỡi ngựa" như Ngôn Thông, Đa Bảo và cộng đồng Chàm nơi đó thì không thể
có Phù Đổng Thiên Vương, huyền tích Gióng và Hội Gióng hôm nay.. Tôi
cũng có thể nói như vậy về pho tượng Phật bằng đá và những điêu khắc đá
tuyệt vời ở chùa Phật Tích: Đấy là nghệ thuật Việt, cái đẹp Đại Việt đã
biết hội nhập nhiều yếu tố ngoại sinh Hán, Đường, Champa."
Nếu chia văn hóa làm
hai loại văn hóa dân gian và văn hoá bác học, thì giao lưu Chàm-Việt đạt
nhiều trong lãnh vực dân gian trong khi đó giao thoa Hán-Việt ở vào lãnh
vực bác học. Tuy vậy tính chất dân gian cũng không thiếu tính chất bác
học trong nền văn minh Đại Việt.
Trở lại Trần Quốc
Vượng:
"..
Quan họ là âm nhạc dân
gian Kinh Bắc nhưng các nhà nhạc học Trần Văn Khê, Thanh Bảo mách tôi
rằng giới nhạc học Nga và Tây Âu nói với hai vị ấy rằng Quan họ có rất
nhiều chất bác học về điệu thức và giai điệu. Ta nên nhớ âm nhạc Champa
đã được Nhạc Phủ đời Đường sưu tập và nghiên cưú. Lý Nhân Tông trở thành
nhạc sĩ là do biết "hoà Đường Phạn nhị âm". Quan họ hình thành, có nghệ
sĩ âm nhạc Chàm góp công, góp sức.."
Cũng theo An Nam Chí
Lược, ở Thăng Long đời Trần, về nhạc thì có trống cơm (tên chữ Hán là
"Phạn cổ") gốc ở Chiêm Thành truyền qua Việt Nam. Hình trống tròn dài,
nghiền cơm đắp vào giữa mặt trống rồi dánh, tiếng ra trong trẻo, rõ
ràng. Trống ấy hòa với tất tiêu (tiêu), tiểu quản (sáo), tiểu bạt (não
bạt), đại cốc (mõ to) gọi là đại nhạc.
("Hà Nội nghìn xưa",
Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn San, 1975)
Về sinh hoạt ở kinh
thành Thăng Long dưới đời Trần, sứ giả Nguyên Trần Phu lưu lại 52 ngày
năm 1293, đã tả chi tiết qua bài An Nam Tức sư. Vua quan nhà Trần thường
đi võng hay kiệụ Võng cánh dùng một mảnh vải dài hơn một trượng lấy 2
dóng gỗ tròn dài 5 tấc, treo 2 đầu tấm vải vào
hai dóng gỗ nhờ một sợi dây thừng, rồi lại lấy một đòn tre to xỏ qua 2
dây thừng ấy, hai người khiêng hai đầu đòn. Cáng thời ấy gọi là "Đề
Nha", một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Vua dùng kiệu hồng, tán
đỏ, tám người khiêng. Khi đi voi thì trên lưng
voi bày đủ yên cương bành ngồi, gọi là "la nga", cũng một từ gốc Chàm-Mã
Lai.
Xứ Nguyên, Trương Lập
Đạo, năm 1291 có kể trong bài "Hành Lục" về vua Trần Nhân Tông ở kinh
thành Thăng Long. Vua tiếp sứ và đọc chiếu xong, xuống điện Tập Hiền đãi
yến. Trên bàn tiệc, bày la liệt các bát món ăn, thịt cá, hải sản và hoa
quả quý lạ. Vua Trần ung dung ngồi nhai trầu, trầu têm, cau bổ và vôi
hàu, có đua mời sứ giả.
Về phương diện tâm
linh, Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần với sự ủng hộ của giới
quý tộc Trần và coi như là quốc giáo. Ngoài những thiền tăng từ nhà
Nguyên Trung Hoa, còn có nhiều nhà sư Ấn Độ, Trung Á có khuynh hướng Mật
giáo đến Việ Nam, như nhà sư Du Chi Bà Lam đến hai lần vào thời Nhân
Tông và Anh Tông, nhà sư Bồ Đề Thất Lý (Bodhisri) đến thời Minh Tông.
Trúc Lâm đệ nhị tổ, được thượng hoàng Nhân Tông sai đi tìm nhà sư Ấn có
tên là Ban Đề Đa Ô Tra Thất Lợi (Panditausasri ?). (Lịch sử Phật giáo
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991).
Phật giáo phát triển
lan rộng trong mọi tầng lớp nhân dân hoà hợp với một tâm linh bản địa
Việt tạo lên một kiến trúc van hoá hoài hòa với văn hoá phương Nam. Văn
hoá đời Trần là biểu hiện cuả sự nhập chung của hai tâm linh này. Cũng
vậy, sự suy thoái của Phật giaó và sự thắng thế của Nho giáo bắt đầu từ
thế kỷ 14 do tầng lớp ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ là quí tộc Trần đã mất
dần uy lực chính trị và kinh tế. Ở cuối nhà Trần và đầu nhà Hồ, thời kỳ
huy hoàng của Phật giáo mới chấm dứt.
"Chế độ sở hữu ruộng
đất lớn điền trang thái ấp bắt đầu tan rã. Các quan lại xuất thân nho
học "bạch diện thư sinh", đại diện cho tầng lớp địa chủ nhỏ, bắt đầu nắm
các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Nho giáo với chế độ khoa cử
dần dần thắng thế. Nhiều nhà nho như Trương Hán Siêu, Lê Quát bắt đầu
lớn tiếng công kích Phật giáo"
Trong số những nhân vật
tiêu biểu của đời Trần, ta sẽ nhận thấy có một vài nhân vật thông hiểu
tiếng Chàm như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật (xem Phan Huy Chú - Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí - Nhân Vật Chí). Trần Nhật Duật không những
giỏi tiếng Chàm và các ngôn ngữ hải đảo như Sách Mã Tích (gần Java ngày
nay) mà còn các ngôn ngữ dân tộc miền núi và tiếng Tống nữa. Ông cũng
thường cỡi voi đến thôn Đađa-li (sau gọi trệch là thôn Bà Già) nơi có
nhiều người Chàm tù binh định cư gần Thăng Long để nói chuyện và ca hát
suốt ngày.
Thời Nhân Tông, sứ giả
nước Sách Mã Tích sang cống, không tìm đâu được người phiên di.ch. Cả
Thăng Long, chỉ một mình Trần Nhật Duật dịch được.
Nếu ta còn kể thêm là
Trần Nhật Duật có vợ người Thanh Hoá, một vùng là cửa ngõ giao lưu văn
hoá 2 nước. Cơ sở hậu duệ của Trần Nhật Duật sau này là ở vùng này. (TQV
có nói thêm là trong bài của Quatrich Wales "The Dong Son genius and the
evolution of Cham Art", Journal of Royal Asiatic Society, 1949 đề cập về
văn hóa bản địa Chàm là di sản của văn hóa Đông Sơn, đó là chưa nói đến
sự giao lưu giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn)
Ta cũng biết thêm rằng
người Chàm không những định cư ở Thanh Hóa hay gần Thăng Long mà còn ở
ngay những chốn như Kinh Bắc (Bắc Ninh-Bắc Giang ngày nay). Cái nôi của
ngàn năm văn vật. Người Chàm hầu như hoà đồng với người Việt trong một
môi trường không xa lạ lắm dưới đời Trần. Ảnh hưởng của người Chàm vào
văn hoá Việt nam có thể kể như kiến trúc đdình đền, nhạc, quan họ như đã
đề cập ở trên.
Lại nói về vua Trần
Nhân Tông, sau khi xuống vua làm Thaí Thượng hoàng và về núi Yên Tử
thường dạo chơi và cũng có tiếp xúc với mọi giới ở vùng Luy Lôi, Kinh
Bắc. Sự giao thiệp của Nhân Tông mang tính cách đạo, văn và tâm thức. Có
thể qua những sự giao tiếp này, người Chàm cảm nhận và danh tiếng của
đạo sĩ Trần Nhân Tông vang dội đến Champa.
Trần Nhân Tông tháng 11
năm 1301 đi chơi ở các địa phương Champa trong 8 tháng dài và nơi đâu
cũng được đón tiếp nồng hậu coi như người nhà (1)(9).
Dĩ nhiên khi thượng
hoàng Nhân Tông khi đi thăm thú khắp đất Champa trong một thời gian dài,
chắc chắn đều có sự tháp tùng của những tu sĩ người Việt gốc Chàm hoặc
người Việt thông tiếng và văn hóa họ. Sự ngưỡng mộ của dân Champa với
thượng hoàng đã dẫn tới việc vua Champa Chế Mân (Jaya Simhavarman III)
đề nghị với thượng hoàng thắt chặt quan hệ chặt chẽ
của hai dân tộc bằng cuộc hôn nhân lich sử Simhavarman-Huyền Trân công
chuá.
Thượng hoàng Trần Nhân
Tông rất tán đồng với ý kiến này và xúc tiến một liên minh Chàm-Việt.
Chỉ có vua Trần Anh Tông và một số cận thần đều không muốn và miễn cưỡng
theo ý thượng hoàng. Liên minh Chàm-Việt vì thế chỉ vững khi còn Trần
Nhân Tông và Simhavarman.
Ta cũng biết trước đó,
vua Chế Mân đã đồng minh với vua Trần chống Mông Cổ và từ chối không cho
chiến thuyền Mông Cổ ghé Champa trên đường đi chinh phạt Java. Có thể
nói Jaya Simhavarman III nhận được ra thế chiến lược của nước Champa
giữa các thế lực quanh Champa. Và để bảo đảm sinh tồn của Champa, nên đã
hòa min`h tìm bạn đồng minh. Trước khi cưới Huyền Trân, Jaya
Simhavarman III đã cưới công chúa Java thành hoàng hậu Tapasi. Huyền
Trân công chúa trở thành hoàng hậu thứ hai tên Paramesvari (10).
Sau khi thượng hoàng
Nhân Tông và Simhavarman III mất, liên minh Chàm-Việt dần dần đỗ vỡ. Một
số các nho sĩ trong quan triều nhân cơ hội không còn thượng hoàng đã lên
tiếng chê bai và phá thế liên minh Chàm-Việt. Người quan trọng đứng đầu
là Đòan Nhữ Hài đã tìm mọi cách để phá vỡ. Trần Anh Tông không thấy
được thế chiến lược của ý tưởng Nhân Tông. Sau này dẩn tới cuộc chiến
tranh một mất một còn giữa Đại Việt và Champa. Đại Việt suýt bị tan dưới
sự tấn công liên tục của vua Champa Chế Bồng Nga. May thay, vận nước còn
cao nhờ các tên đạn cuả tướng Tran Khát Chân và vận Champa đã tới lúc
tàn.
(Trần Anh Tông thường
hay lẫn trốn đi chơi đêm và uống ruợu say, có lần bị thượng hoàng Nhân
Tông quở trách khi đến thăm cung mà vua vẫn còn ngủ vì say rượu. Thượng
hoàng giận bỏ về Thiên Trường. Vua tỉnh dậy, rất sợ hãi
may nhờ có Đòan Nhữ Hài thay mình viết thơ xin tạ tội. Từ đó vua rất
cậy nhờ Đoàn Nhữ Hài. Đoàn Nhữ Hài sau này bị tử trận trên chiến dịch
đánh Lào và Champa.. Cũng vậy, có lần Nhân Tông đi đến cung vua cùng với
thợ vẽ để thích hình rồng vào người nhưng Anh Tông vờ lúc thưọng hoàng
và tuỳ tùng không để ý, lẻn đi mất)
Cũng vậy, sử gia Ngô Sĩ
Liên và các quan dưới đời Lê chuộng nho học đã chỉ trích nghiêm khắc
hành động của thượng hoàng Trần Nhân Tông dẫn đến cuộc hôn nhân
Simhavarman-Huyền Trân. Nhưng tôi cho đó là những người hẹp về cái nhìn.
Tóm lại, tôi đã trình
bày tóm tắt và những nhận định chung về giao lưu văn hoá Champa-Vietnam
dưới đời Trần. Sự giao lưu này thể hiện mạnh mẽ trong văn hoá dân gian
Việt Nam. Văn hoá đời Trần tỏ rẽ nét văn minh bản chất Việt. Đây cũng là
thời kỳ mà ảnh hưởng từ Nam Á qua nút Champa thể hiện đậm nét và để lại
một dư âm qua các triều đại kế tiếp từ đời Lê đến đời Nguyễn khi Nho
Giaó chiếm lỉnh vị trí quan trọng trong triều đình, tầng lớp quan lại và
bộ máy chính quyền.
(3) Sự xung khắc của văn hóa bản
xứ với Nho giáo
Trong phần trước, tôi
có nói về văn hóa dân gian bản sứ Việt dưới đời Trần có những nét đồng
với văn hoá Đông Nam Á trong khi văn hóa và văn chương bác học chịu ảnh
hưởng Hán. Có thể nói ở văn hoá Việt, tầng ảnh hưởng Hán che trên tầng
(layer) bản xứ Việt. Nếu đào sâu xuống tầng
cuối, ta sẽ thấy nhiều điều lý thú.
Thí dụ, trở lại về
chuyện Cửa Càn (hay Cờn) mà chúng ta biết ở Quỳnh Lưu, Nghệ An về đền
thờ ở cửa biển này. Đền thờ này được thiết lập dưới cuối triều Trần Anh
Tông vào năm Nhâm Tý (1312).
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
(DVSKTT) đã chép như sau về truyền thuyết thờ đền như sau:
"Nhâm Tý ..
Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải (tức cửa Cờn, chú thích Phan
Huy Lê). Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước
là Càn, tránh tên húy đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một
thần nữ khóc lóc nói với vua: "Thiếp là cung phi nhà Thiện Tống, bị giặc
bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt về đâỵ Thượng đế đã phong thiếp
là Thần biển đã lâu, nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập
công". Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lảo tới hỏi sự thực, cho tế rồi lên
đường. Biển vì thế không nổi sóng. Quân nhà vua tiến thẳng tới thành Đồ
Bàn (Vijaya, nay thuộc tỉnh Bình Định), bắt được chúa Chiêm đem về. Đến
nay, sai hưủ ty lập đền, bốn mùa cúng tế." (Quyển 6, Kỷ Nhà Trần, Anh
Tông Hoàng Đế)
Vị nữ thần biển đó như
tôi đã trình bày ở phần trước có nguồn gốc của các dân tộc và ngư dân
vùng biển Malayo-Polynesian từ lâu đời: thần phụ mạng cho ngư dân đi
biển, thần cá cứu độ (cá ông voi). Không chỉ đến đời Trần mới có thần để
nhân dân thờ phụng. Sự cá nhân hoá của một vài nhân vật thay thế cho
thần biển phù mạng cổ xưa qua truyện giấc mơ của vua quan Trần là sự
"bác học hoá” của tâm linh và văn hoá dân gian địa phương. Sau đó vua ra
sắc lênh lập đền thờ và phong nữ thần biển là "Quốc gia Nam Hải Đại Càn
thánh nương" là biểu hiện của triều đình đáp ứng tín ngưỡng xưa của dân
khi chiêu mộ dân đi biển đánh giặc. Nhưng thêm vào đấy là biểu tượng Hán
hoá qua thiên triều vừa mất.
Theo trào luư dân Việt
xuống miền Nam, thần Đại Càn thánh nương cũng theo xuống dồng bằng sông
Cửu Long cũng như thần Việt cổ Liễu Hanh vậy. Ngay tại Saigon, trên
đường Trần Quang Khải có đền Nam Chơn, thờ thần Đại Càn.
Cũng vậy, đền Chế Thắng
phu nhân ở huyện Kỳ Anh. Đây cũng là quan triều nhân vật hoá thần biển
nhưng lại dùng nhân vật Việt ở triều đình. Chế Thắng phu nhân là cung nữ
của Trần Duệ Tông, tên thật Nguyễn Thị Bích Châu, từng theo vua đi dánh
Chiêm Thành. Khi qua cửa biển, sóng gió nổi lên, vua muốn bày lể tế thần
biển : bà phải đứng trên cái mâm to bằng đồng, để cho vua ném bà xuống.
Nhờ vậy bớt sóng gió. Biết chuyện ấy, người địa phương lập đền thờ.
(xem "Sơn Nam - Phạm
Xuân Thảo, "Một thoáng Việt Nam", Nxb Trẻ, 1996)
Cuối đời Trần, nho học
đã bắt đầu có ảnh hưởng rộng lớn ở quan triềụ Hán-Việt hoá các thần
thoại, địa danh, danh từ dân gian tiếp diển mạnh hơn. Nhưng dưới những
vỏ Hán-Việt là di tích, truyền thuyết văn hóa cuả Việt xưa.
Tuy vậy ngôn ngữ dân
gian vẫn còn giữ những tên tục của các tên Hán hoá vẫn còn lưu truyền
nhiều thế hệ cho đến những thế kỷ gần đây như kẻ chợ (Thang Long), kẻ
bưởi..(các thương nhân người Bồ, Hoà Lan dùng "ke cho" để chỉ Thang Long
do tiếp xúc với dân gian buôn bán). Sự Hán-Việt hoá các danh từ dân gian
còn tiếp tục cho đến đời Nguyễn ở miền Nam như đổi Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Sa Đét.. ra tên Hán-Việt nhưng không thành công lắm.
Trở lại bản chất Việt
của văn hóa và tâm linh dưới đời Trần bắt đầu bị nho học dời chổ và cho
đến đời Lê thì nho học Hán thắng thế hoàn toàn mà đỉnh cao là dưới thời
vua Lê Thánh Tông.
Văn hoá làng mạc Việt
Nam dưới triều Lê được triều đình nổ lực cố gắng thay thế bằng phương
cách Hán nho hoá. Mục đích cuối cùng cũng vẫn là quyền lực của triều
đình nhà nước làm sao kiểm soát và làm chủ mọi đời sống nhân dân. Làng
xã Việt Nam tuy vậy vẫn còn giữ được một phần tự chủ cũng như tâm linh,
văn hoá truyền thống không bị nho hoá hoàn toàn cho đến ngày nay.
" Năm Quang Thuận thứ 8
(1467), ông vua độc tôn Nho Lê Thánh Tông đi bái yết sơn lăng, đường qua
bên tả núi Đọi, nên có lên chơi núi, làm bài thơ khắc sau bia Lý, cười
vua Lý tin chuyện quái đản (tin Phật). Và vua Lê để mặc chùa, bia đổ
nát" (Trần Quốc Vượng, Sông Châu-núi Đọi - họ Trần và những mối quan hệ
với cụ kép Trà. Trong Theo dòng lịch sử, Nxb Văn Hóa, 1996)
Để thấy một cái nhìn
tiêu biểu của giới nho học đánh giá về đời Trần, gần đây nhà sử học O.W
Wolters đã viết một bài nghiên cứu về những chủ ý và động cơ về những
lời bàn của Ngô Sĩ Liên trong bài "What else Ngo Si Lien mean? A matter
of distinctions in the fifteen century" (trong quyển “Sojourners and
settlers, Histories of South East Asia and the Chinese - Edited by
Anthony Reid”, 1996)
Trích một vài đoạn của
ọ Wolters, vì ông nói rõ hơn ý tôi nói:
"Ngô Sĩ Liên là một
người Việt lúc nào cũng kính trọng cái học từ Trung Quốc cho đến mực là
sự cao tụng cao nhất mà ông dành cho nguời cầm quyền ở Việt Nam là sự
nghiệp thành công của người đó cũng không thể làm hơn được bởi các vị
hoàng đế nổi tiếng nhất ở Trung Quốc ngày xưa . Năm 1479, Ngô Sĩ Liên
được hoàng đế Lê Thánh Tôn, trao cho nhiệm vụ viết lịch sử biên niên
Việt Nam. Cũng ở khoảng giữa cùng thế kỷ ấy, một nhà sử gia khác, Phan
Phu Tiên, cũng đã viết sử biên niên của đời
Trần (1226-1400), thời kỳ mà tôi chú ý đến. Lời bình của Liên về sử biên
niên nhà Trần dựa theo truyền thống sử học Trung hoa và có mục đích dạy
các bài học của quá khứ để huấn luyện những người ở thời nay and tương
lai; phần lớn những gì ông Liên viết có ý tương phản những gì xảy ra ở
Việt Nam với những điển cố hay sự kiện được ghi lại trong văn học lịch
sử Trung Quốc - hầu như lúc nào cũng không thuận lợi cho triều đại nhà
Trần.
Cái mà ông Liên khi đọc
niên biểu lịch sử nhà Trần đã làm ông than vãn quá khứ vừa xảy ra ở nước
ông là nước ông đã không xứng đáng đúng là một nước mẫu mực oai vệ "uy
nghi", được trị bởi một "thiên tử" và so sánh được trên mọi phương diện
với một quốc gia mẫu mực "uy nghi" duy nhất: Trung Quốc. Lời bàn của
Liên có ý gì? Những lời bàn này có thể cho ta thấy gì hơn không ngoài
việc ông là người giỏi thông thái về cổ văn Trung Quốc và dùng vốn ấy để
phê bình gay gắt triều Trần đã qua? ..."
Trong 72 lời bàn của sử
thần Ngô Sĩ Liên về đời Trần, ta có thể thấy một thầy nho nghiêm khắc
phê bình và chỉ trích gắt gỏng những chất không nho học của các dữ kiện,
hành động của các vua Trần từ tu hành Phật giáo tới không nghiêm trong
cai trị, lỏng lẻo luật pháp, hôn nhân trong họ hàng... Và tương phản
những giá trị chung của nhà Trần với những giá trị của các bậc thánh
nhân.
"..Ông, như người Việt
bao thế kỷ trước đã từng làm, mang những đoạn
trong sách vở Trung Quốc để ủng hộ cho những câu nói, ý tưởng của ông;
những lời bàn của ông thường kèm theo các dẫn chứng tham khảo về các
triều đại, vua của Trung Quốc cổ xưa hay các hiền triết của thế hệ xa
xưa.”...
Những lời bàn của Liên,
công kích cứng rắn và thẳng thừng. Ông là một thầy giáo nghiêm khắc hay
nhấn mạnh và thích nói lên những gì ông cho rằng "rất" không hợp hay sai
trái. Ông thích viết những câu như kêu la hoảng hốt với dấu chấm than,
một kiểu viết mang cảm tưởng là ông đang thét vào tôi để truyền đạt sự
giận dữ của ông .
Ngô Sĩ Liên lấy thước
đo quân tử, tiểu nhân để so sánh các nhân vật nhà Trần.
".. Người quân tử thì
tương phản với nhà sư; nhà sư cho rằng mình có quyền phép tiên đoán,
quay lưng lại với xã hội, từ bỏ thế giới và thiền tịnh để đạt yên bình.
Người quân tử không chấp nhận những thứ như vậy ."..
Ngô Sĩ Liên hầu
như coi tất cả đều phải dựa vào mô hình
hán-nho ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt xảy ra dưới đời Trần.
"Có chắc rằng Liên có
lý và đúng, thí dụ như than phiền rằng thi hài vua đã bị hoãn chôn cất
đến 4 năm khi mà theo phép phải được táng 7 tháng sau khi mất?. Việc như
thế có thể đúng ở Trung Quốc nhưng rõ ràng chắc chắn không thể áp dụng
khuôn phép y trang được như vậy ở Việt Nam. Có phải là Liên gắn liền thể
diện với quyền lực là xác thực không? hay là ông có một ý gì ấy hơn thế
nữa .
Liên dĩ nhiên có thể
hiểu sai và che đậy tình huống lịch sử trong giai đoạn lúc ấy thời nhà
Trần, bởi vì, lúc ấy trong thời ông, một khoảng cách văn hoá đã được tạo
ra giữa ông và quá khứ do một nền giáo dục mới và chính phủ mới, hậu quả
của sự chiếm đóng của nhà Minh ở đầu thế kỷ thứ 15.
Đối với Ngô Sĩ Liên,
triều đình nhà Trần dễ dãi, khoan hồng, lễ nghi xuề xoà và không có một
sắc thái nghiêm minh xứng đáng của triều đình một nước.
"Vì thế Liên đỗ lỗi các
vua Trần quá "khoan hồng" thay vì "kỹ cương" đúng mực. Phong tục thì
"giản dị" mà không "giới hạn" Ông quan sát rằng các vua Trần, cũng như
các vua Lý trước đó, "kính nể thờ phụng Đức Phật như là khởi nguồn của
tất cả thế sự", một niềm tin đã làm các vua có lòng từ bi trắc ẩn và
khuyến khích khuynh hướng rộng lượng ở lòng người"
Trong các vua Trần, chỉ
có dưới đời vua Trần Anh Tông là được Ngô Sĩ Liên chấp thuận hơn các đời
vua khác trong những quyết định và một số hành động nhưng cũng không
tránh khỏi những chỉ trích.
"Vua khéo biết thừa kế,
cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật
chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song
tụ họp nhà sư trên núi yên Tử, làm nhọc sức dân dưng gác Ánh Vân, thì
chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao? "
(DVSKTT, Kỷ Nhà Trần,
Quyển VI)
O. Wolters cho rằng
những giá trị truyền thống mà Ngô Sĩ Liên tấn công mãnh liệt ở nhà Trần,
đấy có thể là những điều tốt mạnh của xã hội Việt mà sử thần Ngô Sĩ Liên
không thấy.
“Tôi vì thế cho rằng
những gì Liên đau buồn không phải là những việc xảy ra trệch khác đi với
những gì đã được tạo dựng dựa trên tiêu chuẩn Trung Quốc mà là những dấu
hiệu che đậy không kỹ của một phong thái, tình trạng văn hoá còn tồn tại
qua bao thế kỷ ở Việt Nam mặc dầu đã có liên hệ với Trung Quốc từ bao
đời. Những gì Liên, đứng từ góc dộ quan điểm “nho giáo” ở cuối thế kỷ
15, cho đó là sự yếu kém thì phải nên nhận thấy thực sự ra đó là những
dấu hiệu của một truyền thống chính thể Việt Nam vững chắc”
Sự thật thì giá trị
truyền thống Vietnam uyển chuyển và hoà hợp với công đồng hơn là giá trị
cứng ngắt, "ưu tú" của nho giáo. Vì Ngô Sĩ Liên có ảnh hưởng lớn đối với
các tầng lớp sĩ phu sau này qua bộ sử quan trọng nhất của nước nhà nên ý
kiến cứng và độc tôn nho giáo của ông đã phủ lấp giá trị bản địa và
truyền bá cái cứng của giá trị Hán-nho đưa đến những hậu quả lớn lao sau
này khi Việt Nam phải đối diện với những thử thách và giá trị của tư
tưởng mới lạ ở thế kỷ 19, 20 khi tiếp xúc với nền Tây phương mang đến.
Tôi nhận thấy lời kết
của O. Wolters tóm tắt hoàn hảo ý chính tôi muốn nêu lên ở phần nàỵ
".. Và trong bài khảo
luận này, tôi đã cố gắng trình bày một nhận thức đã được thay đổi khác
đi về cái gì nên được xem là “thể diện” của một nước; nó phải biểu hiện
sức mạnh của “một vương quốc thích đáng”, phục vụ bởi các “quân tử”
không khi nào quay lưng ra khỏi những vấn đề của xã hội.
Những dấu hiệu đổi khác
này phản ảnh thế nào những nhà trí thức Việt Nam đã càng ngày càng
nghiêng theo những gì của Trung quốc mà họ tin rằng là những mẫu mực của
một chính phủ vững mạnh, từ đó là phơi trần ra một đối trọng: quyền lệ
của dân làng được để yên, và cũng là cơ sở bắt đầu để kiểm soát cai trị
tuyệt đối trên xã hội. Tôi xin được kết luận có thể vô trách nhiệm, cho
rằng một số trong chúng ta có thể hối tiếc rằng Ngô Sĩ Liên đã khuyến
khích khuyên giới ưu tú, lãnh đạo Việt Nam từ đi những phong tục cách
sống ngày trước. Chúng ta phải hối tiếc như vậy bởi vì cách và lối sống
lúc trước có thể bớt căng thẳng, bớt lề lối cứng ngắc, nhiều co dãn linh
động, và cởi mở hơn, và để lại cho thế hệ hệ sau một cơ sở tốt khi mà
thời điểm cuối cùng cũng phải đến để đối phó với thế giới phương Tây
cũng như Trung Quốc sau này.”
Sự thắng thế và ảnh
hưởng rộng lớn của nền văn hoá Hán nho sau đời Trần quả thật đã để lại
những di sản to lớn trong lịch sử Việt Nam. Lịch sử Việt Nam có thể khác
đi nhiều không khi tâm thức Việt đi theo chiều khác?.
(4) Tính Chất Việt đời Trần - Viễn
cảnh lịch sử
Một số tư liệu và ý
tưởng trong phần này lấy từ sách của Gs Vĩnh Sính nhưng những nét chính
của bài là cái nhìn của tôi về toàn cảnh lịch sử của nước nhà dưới góc
cạnh tư tưởng và đặc tính tâm thức của con người Việt Nam sau đời Trần.
Ở phần trước tôi có nói
về sự thắng thế của nho giáo Hán ở xã hội và tầng lớp quý tộc học thức
cuối đời Trần. Phần này tôi nói về giai đoạn sau về nho giáo và ảnh
hưởng của nó từ đời Lê, Lê trung hưng tới đời Nguyễn.
Như tôi đã nói, phong
cách, tôn giáo và tâm thức đời Trần đã bị chỉ trích và bị dần dần xoá bỏ
hoặc lãng quên nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Một vì vua thành công
nhất gây dựng lên nền tảng nho giáo và pháp chế trong các triều đại
phong kiến ở Việt Nam mà sau này vua Minh Mạng dưới triều Nguyễn đã coi
như là gương mẩu để noi theo.
Để làm nền cho việc bàn
luận sau, tôi xin nhắc lại một một vài điểm chính của tư tưởng Việt Nam
trong lịch sử
(a) Thời sơ nguyên và
dựng nước : Vật tổ (totem) rồng tiên, thành hoàng thổ thần, thần đồng cổ
và tín ngưỡng vật linh như cây, đá.. gọi chung là tâm linh Việt cổ cùng
cơ bản với các dân tộc khác ở Đông Nam Á.
(b) Thời Bắc thuộc tới
Đinh Lê : Tâm linh Việt cổ với Sĩ Nhiếp bắt đầu sáng tạo ý thức hệ Tam
giáo Nho Đạo-Thích ảnh hưởng lan rộng. (Thích tức đạo Phật Thích ca)
(c) Thời Lý-Trần : Tín
ngưỡng Thần Đồng Cổ (Thần Trống Đồng) được triều đình chính thức áp
dụng. Thần hoàng thổ thần cùng với Tam giáo, Phật Nho và Lãọ với Phật
giáo ảnh hưởng chính.
(d) Thời Lê, Mạc : Nho
giáo độc tôn (trừ tư tưởng thiền nhân bản Nguyễn Trãi và trong đời Mạc
giảm đi sức ảnh hưởng của Nho giáo).
(e) Lê Trung hưng tới
Nguyễn : Nho giáo uư thế và thành độc tôn dưới triều Nguyễn Minh Mạng.
Nho giáo độc tôn ảnh
hưởng trong 5 thế kỷ từ Lê đến Nguyễn. Nói đến Nho giáo, chúng ta phải
phân biệt ra hai trường phái nho giáo mà sự khác biệt rất là quan trọng
và cơ bản : Tống nho và Minh nho.
Minh nho có một cái
nhìn khá cởi mở về văn hóa, tín ngưỡng mà không bị giam hãm trong những
tín điều của Tống nho. Minh nho mà cốt lỏi là Vương học (Vương Dương
Minh) là cái học thực tế, nhân bản hơn cái học Tống nho.
Chu Hy là một đại diện
tiêu biểu của Tống Nho chủ trương "Đạo vấn học", đời người ta xem rộng,
xét nhiều rồi mới thu vào chổ yếu ước chủ chốt, cho nên bắt đầu bằng
công phu "Cách vật, trí tri" mà phân ra "tri" rồi mới "hành". Chu Hy
thuyết cùng lý ở ngoài "tâm". Chu Hy quan niệm lý đứng độc lập với
"Tâm". Cái học Tống nho thường nặng về giáo lý, coi trọng thuyết lý hơn
hành động thực tế.
Trái lại, Minh nho chủ
trương "tâm" tại vật là "lý". "Đạo tâm" là "lương tri". Vương Dương Minh
với triết lý "lương tri", hợp nhất tri hành ("Tri Hành Hợp Nhất") đã đặt
cơ sở cho một cái học hợp nhất khoa học với đạo đức, trên nhân bản toàn
diện "Thiên địa vạn vật nhất thể".
(Đỗ Bang-Nguyễn Minh
Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1, Nxb Thuận Hoá, 1996)
Tư tưởng ảnh hưởng mạnh
đến văn hóa và tạo thành một đặc thù cá tính của dân tộc, của con người
Việt Nam. Bắt đầu từ thời cuối Trần văn hoá Hán nho đã chiếm địa vị độc
tôn. Một đặc điểm của nho giao (nhất là Tống nho) là không khoan nhượng
một tâm linh tôn giáo khác cùng đứng chung.
"Sau Nguyễn Trãi ý thức
hệ Thiền Tam Giáo khai phóng thời Lý Trần cũng cáo chung. Nhà Lê độc tôn
Nho giáo theo Tống Nho "tịch Thích Đạo" bài Phật Giáo và Lão Giáo, tạo
nên ở Việt Nam trong triều đình bè phái tàn sát lẫn nhau gây nên tranh
giành, nào Lê Mạc, Lê Trịnh, Trịnh Nguyễn suốt hai trăm năm cho đến ngày
mất chủ quyền với thực dân"
(Nguyễn Đăng Thục -
Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Tư tưởng bình dân Việt Nam)
Trái với "tịch Thích
Đạo" của Tống Nho, Phật giáo và tín ngưỡng Thổ thần Thành hoàng của
người Việt nguyên thuỷ thu hút và chấp nhận các tư tưỏng và tôn giáo
khác cùng chung đất dụng võ. Nhưng sự uyển chuyển khoan dung và thực
dụng này đã bị Tống nho lần lần tiêu diệt và tạo nên một văn hoá Hán nho
cứng, kỹ cương và giáo điều từ chương trong suốt 5 thế kỷ tạo nên một
đặc thù cá tính của người Việt mà hiện nay tâm thức chúng ta đang mang.
Bắt đầu từ thế kỷ 20
khi Nho giáo bắt đầu tàn lụi và con người Việt Nam phải đối diện trực
tiếp với một thế giới cạnh tranh khắc nghiệt và có lúc tàn nhẩn như dưới
thời thực dân, hay thay đổi nhanh chóng và xa lạ như hiện nay, chúng ta
đã không còn một hệ thống giá trị nào khác để dựa vào khi Tống nho đã
làm tàn lụi hết những giá trị của tôn giáo khác hay tâm linh cơ bản uyển
chuyển, thực dụng của người Việt xưa.
Con người Việt Nam phải
tìm mọi chủ thuyết hay giá trị mới để thay thế để có một chỗ
đứng làm nền. Giá trị văn minh Tây phương với nhiều mô hình, giá trị nền
tảng gia đình mà nho giáo và tâm thức củ vẫn còn ảnh hưởng trộn lẫn để
cố gắng đến một văn hoá, con người Việt nam mới hiện nay.
Di sản Tống nho độc tôn
đã làm cho con người Việt ngay cả lúc thu nhận vẫn còn đặc thù cứng. Có
phải mặc cảm tự ti nhưng cố gắng che đậy không mất sĩ diện và cố chấp,
lý thuyết, ít thực dụng, không uyển chuyển là một trong những di sản đó
còn tồn tại trong con người cũng như trong các cá tính đặc thù khác của
người Việt ngày nay?
Để tìm một khía cạnh
cho sự trả lời câu hỏi này, ta có thể so sánh 2 hình thức thu nhận của
Nhật và Việt Nam về phương diện Hán nho nói riêng và văn minh Hán Trung
quốc nói chung.
Theo giáo sư Vĩnh Sính,
thì thái độ của Việt Nam là đề kháng xâm lăng quân sự nhưng chấp nhận y
như khuôn mẫu văn hoá Trung quốc, điển hình là Tống nho dưới triều Lê.
Đây cũng là tính chất "bảo hoàng hơn vua". Ngược lại Nhật Bản với tinh
thần sáng tạo và độc lập hơn có thái độ là "kính nể hoặc phủ nhận văn
hóa Trung quốc" (15).
"Nay ta thử xem thái độ
"kính nể/phủ nhận" của người Nhật đối với Nho giáọ Tokugawa Ieyasu (Đức
xuyên Gia khang), người sáng lập chính quyền Tokugawa (1600-1868), đã áp
dụng học thuyết Tống nho của Chu Hy để củng cố chính quyền Bakufu (mạc
phủ). Tống học nhờ vậy trên lý thuyết trở thành học phái chính thống.
Nhưng trên thực tế, dưới thời Tokugawa có nhiều Nho gia như Yamaga Soko
(Sơn lộc Tố hành; 1622-1685) và Yamazaki Ansai (Sơn kỳ Ám tế; 1618-1682)
phủ nhận cơ chế Nho giáo của Trung quốc và cho rằng về cả ba mặt nhân,
trí, dũng, Nho giáo Nhật Bản hơn hẳn Trung Quốc. Ngay đối với Khổng Tử,
cách đặt vấn đề của Ansai cũng khác hẳn các nhà Nho ở Trung Quốc và Việt
Nam.
Sách Sensetsu sodan
(Tiên triết Tùng đàm) biên soạn cuối thời Tokugawa có ghi lại đoạn vấn
đáp sau đây giữa Ansai và các môn đê.. Ansai một hôm vấn nạn các môn đệ:
"Nếu bây giờ Trung
Quốc cử Khổng Tử làm đại tướng và Mạnh Tử làm phó tướng dẫn vài vạn kỵ
binh sang tấn công nước ta, với tư cách là người Theo học đạo của Khổng
Mạnh, các trò thử nghĩ chúng ta phải ứng xử như thế nào?"
Thấy các môn đệ lúng
túng, Ansai tự đáp:
" Nếu điều bất hạnh này
xảy ra, thì chúng ta chỉ có cách là mặc giáp mang kiếm ra trận bắt sống
Khổng Mạnh đặng báo ơn nước. Đây chính là điều Khổng Mạnh dạy chúng
ta!".
Chắc hẳn đối với các
Nho gia Việt Nam, phản ứng đầu tiên khi nghe đoạn vấn đáp này là: "Đối
với các bậc thánh hiền ai lại đặt câu hỏi kỳ cục như thế?". Cách vấn nạn
của Ansai chắc hẳn đã lạ lùng, khó nghe, mà câu trả lời của Ansai cũng
lhông kém bất ngờ, đường đột. Phải là một "Nho gia" không bị chi phối
bởi thế giới quan Nho giáo của Trung Hoa mới có đủ tính khách quan để
đặt vấn đề trực tiếp và tận gốc như vậy.
Vị trí lãnh đạo về văn
hoá của Trung Quốc cũng bị các học phái Kokugaku (Quốc học) và Rangaku
(Lan học) phủ nhận tận gốc. Motoori Norinaga (Bản cư Tuyên Trường;
1730-1801) và các học giả của học phái Kokugaku khởi đầu nghiên cứu Hán
học, nhưng sau đó chủ trương chối bỏ triệt để "đầu óc Trung Hoa"
(Karagokoro) thể hiện qua những lý lẽ gò bó và nhân tạo của Nho giáo, sự
sai lạc và tính chất quá khích của thuyết "thiên mệnh". Theo Norinaga,
trước khi văn minh Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, tâm hồn người Nhật
thuần phác và bộc trực, được thể hiện qua những thơ ca trong tuyển tâ,p
thơ đầu tiên của người Nhật là Manyoshu (Vạn diệp tập; biên soạn xong
năm 760 sau CN). Học phái Kokugaku đã đóng vai trò quan trọng trong việc
làm sống dậy tinh thần dân tộc của người Nhật vào thế kỷ XIX."
Tại sao tâm hồn người
Nhật thuần phát và bộc trực không khác mấy tâm hồn Việt truyền thống của
con người Diên Hồng lại sáng tạo thu nhập văn minh Hán nhưng không mù
quáng mà chúng ta lại "bảo hoàng hơn vua", sao rập từ chương cứng ngắt
trong nô dịch văn hoá để đi dến thảm họa sau này?.
Cũng vậy dân tộc anh em
Thái Nam Chiếu uyển chuyển như dòng nước cùng
thời điểm lập nước đời cuối Trần đã đi gây dưng một nước với văn hoá hấp
thụ các tinh hoa của các nền văn minh mà không độc tôn, tạo thành một
văn minh bản sứ thực dụng và mở rộng.
Phải chăng mô hình Tống
nho mà Việt Nam theo đuổi trong 5 thế kỹ qua đã đưa Việt Nam tới thái độ
cứng ngắc, bảo thủ, một giá trị xa lạ với tâm thức người Việt truyền
thống xưa, làm đất nước rơi vào tay thực dân Pháp mà giới trí thức nho
sĩ phải chịu trách nhiệm chính?
Nhưng trong khi quốc
gia trong nguy kịch hoặc phải đối diện với những khủng hoảng thì người
dân thường lại phải gánh chịu nhiều nhất. Sĩ phu thường nói "Quốc gia
hưng vong thất phu hữu trách". Sĩ
phu chúng ta có trách nhiệm nhiều lắm với lịch sử
Phải chăng Nguyễn
Huy Thiệp gần đây trong những năm cuối thập niên 80 đã có những truyện
đả kích dữ dội trí thức sĩ phu là có cơ nguồn
gốc này?
Tham Khảo
(1)
Đại Việt Sử Ký toàn thư, Quyển 5 và 6, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học
Xã Hội Việt Nam, 1993
(2)
Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb Văn Hóa, 1996
(3)
Hà Văn Tấn, Văn hóa nguyên thuỷ Đông Nam Á như một cội
nguồn của văn hóa dân gian, Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3,
p.9-12.
(4)
Phạm Quốc Quân, Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền
mới phát hiện ở Hà Nam Ninh, Tap chí Khảo Cổ Học, số 2-1981.
(5)
Cao Xuân Phổ, Vietnam in her South East Asian Context - A
historical cultural view, Eight Conference International Association of
Historians of Asia, 25-29 August 1980, Kuala Lumpur.
(6)
Nhiều tác giả, Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hoá, Hà Nội,
1977
(7)
Trần Quốc
Vượng và Vũ Tuấn San, Hà Nội nghìn xưa, 1975.
(8)
Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
(9)
Nguyễn Duy Hinh "Yên Tử -Vua Trần-Trúc Lâm Suy nghĩ sử
học", trong Nghiên Cứu Lịch Sử, 2, 173, 3-4/1977.
(10)
G. Coedes, The indianised states of Southeast Asia, 1968,
University of Hawaii.
(11)
Sơn Nam - Phạm Xuân Thảo, Một thoáng Việt Nam, Nxb Trẻ,
1996.
(12)
O.W Wolters, What else Ngo Si Lien mean? A matter of distinctions
in the fifteen century, trong sách “Sojourners and settlers, Histories
of South East Asia and the Chinese”. Edited by Anthony Reid, 1996.
(13)
Đỗ Bang-Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1, Nxb
Thuận Hoá, 1996.
(14)
Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Tư
tưởng bình dân Việt Nam.
(15)
Vĩnh Sính, Hồn Đại Việt giọng Hàn Thuyên, Vị trí lịch sử
của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản, trong sách "Việt Nam và
Nhật Bản trong thế giới Đông Á", Sở VHTT, Khoa sử DHSP, Tp HCM. 1993
|