Phần 3
So sánh
kinh tế lúa gạo thời Pháp thuộc và ngày nay
Vai trò lúa gạo trong đời sống kinh tế và
chính trị ở Saigon-Chợ Lớn đầu thế kỷ 20
Phần 3
Nguyễn Đức Hiệp
So sánh kinh tế lúa gạo thời Pháp thuộc và
ngày nay
Từ năm 1989 khi lượng xuất khẩu gạo trở lại
bằng với giai đoạn trong thập niên 1930, và cho đến nay là hơn
gấp bốn lần, thì riêng về chất lượng thì ngày nay kết quả không
tiến triển được bao nhiêu so với thời Pháp thuộc. Chỉ khác là
tình trạng về sự liên hệ giữa người sản xuất (nông dân), thương
giá buôn gạo, công ty tư nhân chủ các nhà máy xay, và chính
quyền rất khác nhau.
Dưới thời Pháp thuộc, các công ty tư nhân chủ
các nhà máy gạo không phải chỉ có dịch vụ xay lúa lấy lãi mà còn
tham gia trực tiếp bán gạo trên thị trường. Các công ty này rất
lớn mạnh và trực tiếp xuất khẩu hay bán ra trên thị trường nội
địa.
Thương gia trung gian mua lúa cung cấp lúa
cho nhà máy hay mua gạo lại ở vào vị trí thế yếu nên không có
lợi nhuận lớn. Còn chính quyền thì hoàn toàn không tham gia vào
thương mại trên thị trường gạo mà chỉ lấy thuế. Mô hình thương
mại gạo dưới thời Pháp thuộc như sau

Ngày nay có thêm các công ty quốc doanh của
chính phủ là trung gian quan trọng nhất xuất khẩu bán ra thị
trường quốc tế, và các công ty nhà máy xay rất nhỏ rãi rác khắp
nơi trên các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, không còn tập trung
như các nhà máy lớn có vốn lớn như ở Saigon-Chợ Lớn trước kia.
Các nhà máy xay lúa tư nhân nhỏ này chỉ xuất hiện sau năm 1989
và họ hoàn toàn ở vị trí yếu thế. Họ không tham gia vào thị
trường mua bán hay xuất khẩu lúa gạo mà chỉ làm dịch vụ xay lúa
cho nông dân, cho thương gia trung gian mua bán gạo và cho các
công ty quốc doanh mua bán, xuất khẩu gạo.
Vì quá nhỏ, vốn đầu tư vào các máy xay rất
khiêm tốn nên những máy này kém hiệu quả và không có kỷ thuật
hiện đại cao và vì thế năng xuất gạo xay từ 100 kg lúa chỉ là
60-70% gạo. Nếu tính tổng số gạo xuất khẩu trên 3 triệu tấn
trung bình cho thập niên 1990 thì sự mất mát rất lớn.
Có hơn 200 nhà máy xay lúa nhỏ ở các tỉnh
miền Tây đầu thập niên 2000 (15) và những cơ sở tư nhân này hoàn
toàn bị chi phối bởi thương gia buôn lúa gạo và các công ty quốc
doanh. Họ không dám đòi hỏi tăng hay xác định giá mà chính các
thương gia buôn lúa đặt điều kiện ép giá nếu không họ sẽ không
đưa lúa đến xay. Các công ty quốc doanh cũng vậy, các công ty
này xác định giá gạo mua từ các nhà máy và sau đó xuất khẩu độc
quyền hầu như không có ai cạnh tranh mua gạo từ nhà máy để xuất
khẩu.
Vì thế nông dân và các cơ sở tư nhân xay lúa
là hai nguồn sản xuất nhưng lại bị thiệt thòi nhất vì có quá
nhiều trung gian giữa họ và thị trường. Hơn nữa, ngày nay đất
canh tác lúa bị thâu hẹp dần và ruộng lúa được chia nhỏ với
nhiều chủ khác nhau, không tập trung lớn như trước kia, nên chất
lượng lúa không đồng bô. Cơ cấu này là nguyên nhân cho sự kém
hiệu quả và chất lượng về kỷ nghệ lúa gạo ở Việt nam hiện nay.
Mô hình thương mại gạo hiện nay như sau (15)

Hiện nay không còn có những nông dân sung
túc, điền chủ giàu có, các công ty lớn vốn cao có thế lực như
ngày xưa. Đây là một sự kiện đòi hỏi ta nên xem xét lại về mô
hình về quá trình sản xuất và thương mại trong nền kinh tế lúa
gạo ở Việt Nam.
Lời kết
Ngày nay bến Trần Văn Kiểu (quai de Mytho) và
khu cửa hàng, nhà ở, chùa chiền với kiến trúc cổ và đông tây dọc
bến đã biến mất không còn nữa. Thay vào đó là Đại lộ Đông Tây
thênh thang khánh thánh năm 2009. Một phần lớn lịch sử thương
mại và văn hóa của thành phố đã bị xóa sổ. Tác giả đã đi dọc
theo đại lộ Đông tây từ rạch Bến Nghé theo kênh Tàu hủ đến rạch
Lò gốm và bên kia kênh là bến Bình Đông (quai des Jonques),
ngoài bến Trần Văn Kiểu đã bị phá hủy hoàn toàn, các bến Chương
Dương (quai de Belgique) và bến Bình Đông một phần bị hủy một
phần bị biến dạng rất nhiều chỉ còn sót lại một số nhà cổ người
Hoa và chùa và cuối cùng là bến Hàm Tử (quai le Marne) không còn
lại vết tích đặc thù kiến trúc đông tây đầu thế kỷ 20.
Không như các thành phố trong vùng như Quảng
Châu, Singapore, Malacca, Penang, Hồng Kông, Sán Đầu vẫn còn
trân trọng bảo tồn các khu phố có kiến trúc đặc thù đông tây có
giá trị lịch sử tạo nên nét đặc trưng biểu tượng cho thành phố
(trong đó một số hiện nay là Di sản thế giới) thu hút nhiều
khách du lịch, thì thành phố Chợ Lớn trong các năm qua đã phá
hủy các di tích đặc thù liên hệ đặc biệt đến lịch sử thương mại
lúa gạo và nông sản qua sông rạch. Thời hoàng kim của Chợ Lớn
trong lĩnh vực kinh tế không còn, và thành phố này chỉ còn có
thể phát triển theo hướng kỷ nghệ dịch vụ tất yếu, nhưng tiếc
thay chính những vốn liếng văn hóa lịch sử cần thiết để tạo
hướng đi mới lại bị xao lãng hao mòn và mất dần.
Phụ lục
(theo (6), (7), (17)):
Danh sách và địa chỉ
các cơ sở thương mại và nhà máy dọc theo
kênh rạch từ bến Bạch Đằng vào Chợ Lớn
mà người Pháp gọi là Arroyo de Chinois
(gồm rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ, kênh
Đôi. “Arroyo” là từ tiếng Tây Ban Nha
chỉ kênh rạch có từ khi liên quân Pháp -
Tây Ban Nha đánh Saigon năm 1859). Ngày
nay tất cả các bến này cùng nhiều cơ sở
thương mại, văn hóa và dân cư không còn
sau khi Đại lộ Đông Tây được xây dựng
năm 2009.
Bến Chương Dương (Quai de
Belgique) |
Bến Trần Văn Kiểu (Quai de
Mytho, trước 1975 gọi là bến Lê
Quang Liêm) |
Bến Bình Đông (Quai des Jonques)
và các khu vực chung quanh |
Société commerciale francaise de
l’Indochine Exportation du riz
15 quai de Belgique
Administrateurs: P. Rauzy, P.
Ville |
Tia-lang-Heang Marchand de
graines, sucres et divers
(thương gia lúa gạo, đường và
thập cẩm)
63 quai de Mytho |
Pho Hong Rizerie
75 quai des Jonques |
Société Ban Joo Guan Rizerie,
Cholon
Adminsitrateur (Quản lý): Ông
Ong-Yu-Joo |
Van-Suong-Long Rizerie
156 quai de Mytho |
Rizerie "Ban-teck-Guan et Cie"
(công ty Vạn Đức nguyen)
122 quai des Jonques, |
Société Anonyme nouvelle Ban
Soon An 17 quai de Belgique
Directeur (Giám đốc): Ông
Ong-Yu-Joo |
Binh Dong Rizerie 164 Quai de
Mytho
Propietaire: Truong hiep Ky
|
Rizerie Guan-Hong-Seng 277
quai des Jonques
|
Rizeries d’Extrême-Orient 15
quai de Belgique et
301 quai des Jonques
Administrateurs: P. Rauzy, P.
Ville,
Directeur-general (Tổng giám
đốc): E. Ville, |
Rizerie Phuong-Hung 166 quai
de Mytho
|
Speidel et Cie,
166 quai des Jonques, Cho Lon
|
Société des rizeries du
Pacifique Usine à Binh Dong
Siège social 74 rue d’Ormay
(Mạc Thị Bưởi ngày nay), Saigon
Administrateur (Quản lý): Ông
A. Capdeville |
Société des riz d'indochine
(Denis-freres) Rizerie
216 Quai de Mytho
|
Speidel (C.)
“Rizeries de l’Orient”
(sau này nhà máy này thuộc
công ty Société des rizeries
d’Extrême-Orient)
quai des Jonques
|
Société des rizeries
d’Extrême-Orient
Rizeries Bang-hong-Guan et
rizeries Tong-Wo
a Binh Dong
Administrateur: Ông E. Ville
|
Ban-Guan (Société Anonyme)
Rizerie Tjia-Mah-Yen (Tạ Mã
Điền)
221-222 quai de MyTho
|
Ngy-Cheong-Seng Rizerie
289 quai des Jonques
|
Rizeries saigonaise,
Khanh Hoi |
Tjah-Mah-yen (Tạ Mã Điền)
Rizerie
231 quai de Mytho |
Rizerie d'Extrême-Orient R.C
Saigon No. 84
301 quai des Jonques
Directeur (Giám đốc): J. Joly |
|
Yue-Tai Marchand du riz
(thương gia gạo)
233 quai de Mytho
|
Rizerie des Jonques Rauzy et
Ville 203 quai des Jonques (6)
(Société des rizeries
d’Extrême-Orient)
Administrateur (Quản lý): E.
Ville |
|
Société Sam-Hing Riz et paddy
en gros (Mua bán sỉ lúa gạo)
243 à 253 quai de Mytho |
Thung-Mau Rizerie Quai de
Doublement (Binh Dong)
Proprietaire (chủ nhà máy):
Julio-Chang-Ping |
|
Cam
Thuan (Maison) Rizerie
262 quai de Mytho
Proprietaire: Cahu Tru dit
Kim-Soon |
Ban-Guan Rizerie, Rue de
Cay-mai (ngày nay là đường
Nguyễn Trãi)
Propietaire: Tja-Mah-Yan (Tạ
Mã Điền) |
|
Ban-soan-an (Vạn Thuận An)
Tang-ho-Seng, 269 quai de Mytho |
Du-hung Soa-a-Pan, 16 quai
Yunnam |
|
Huu
Man Rizerie
270 quai de Mytho
|
Quach Dam (maison) Rizerie
45 Boulevard Gaudot (nay là
đuờng Hải Thượng Lãn Ông)
(“Thông Hiệp” làm chủ) |
|
Tchao-Lung Marchand de paddy
(thương gia lúa)
283 quai de Mytho
|
Kwong-Choon-Thai Rizerie
Canal de Doublement (Kênh
đôi)
Proprietaire: Choon-lie-E |
|
Lee-How-Cheong Rizerie
289 quai de Mytho |
Rizerie Gressier 153 rue de
Paris (ngày nay là đường Phùng
Hưng) |
|
Kwong-Chung-Hing Marchand
Paddy et Riz (thương gia mua bán
lúa gạo)
293 quai de Mytho |
Truong Văn Công Rizerie
6 rue de Binh Tay
|
|
Colonial Commercial and
Engineering Cie
Enterprise industriel
311 quai de Mytho |
Zigo Hsuishing Proprietaire
2 rue de Mothe (Lê Đại Hành) |
|
Rizerie Ban-Aik-Guan (Vạn Ích
Nguyên) Société anonyme au
capital de 157500$
R.C Saigon No. 780
320 quai de ChoQuan
(địa chỉ trước: 1 route de
Choquan) |
Nam-long-chan Luu-Luc, 10 quai
Xom-cui |
|
Nam
Long Rizerie 334 à 361 Quai de
Mytho
Proprietaire: Man-Chéong-Yuen
(Vạn Xương Nguyên) |
Phuoc-du Ly-Souan, 9 quai
Xom-cui |
|
Tham khảo
-
La revue du Pacifique,
1923/07(A2,N7)-1923/12(A2,N12), pp. 501-502
-
Thomas Engelbert, Chinese Politics in
Colonial Saigon (1919–1936): The Case of the Guomindang,
Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
-
Geoffrey Gunn, The Great Vietnamese
Famine of 1944-45 Revisited, The Asia-Pacific Journal,
http://japanfocus.org/-Geoffrey-Gunn/3483
-
Annuaire administratif de
l'Indochine. 1937, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1937,
pp. 244
-
Li Tana, The Tomb Inscription of Tjia
Mah Yen, a Hokkien Businessman of French Cochinchina,
Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
-
Annuaire général de l'Indo-Chine
française ["puis" de l'Indochine], Publisher : Hanoi,
1905, 1906, 1907, 1910 (pp. 583), 1914 (pp. 453-455),
1918.
-
Annuaire complet (européen et
indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie,
plantations, mines, adresses particulières... :
Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs
madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A.
J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
-
Recueil des procès-verbaux des
séances plénières du Grand Conseil des intérêts
économiques et financiers de l'Indochine: session
ordinaire de 1938, Grand conseil économique et financier
de l'Indochine, Impr. de Le-Van-Tan (Hanoï), 1929-1939,
pp. 242-244.
-
Annuaire de la Cochinchine française
1865, Saigon,1865-1888.
-
Bulletin bi-mensuel (de la Chambre de
commerce de Saïgon), 20 Juin 1881, 25 Janvier 1890, 5
Juillet 1900, 19 Fevrier 1918, 21 Mai 1924, 2 Janvier
1923, 15 Fevrier 1928, 15 Janvier 1933, Saigon
-
Louis Imbert, La Cochinchine au seuil
du XXe siècle, Impr. de J. Durand (Bordeaux), 1900.
-
Pierre Passerat de la Chapelle,
L’industrie du decorticage du riz en basse-cochinchine,
Bulletin de la Société des études indochinoises de
Saigon, Imprimerie L. Ménard, 1901, pp. 49-85.
-
Guillaume Capus, Le riz d’indochine,
Annales de Geographie, 1918, Vol. 27, No. 145, pp.25-42.
-
Annuaire complet (européen et
indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie,
plantations, mines, adresses particulières: Indochine,
adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L.
Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J.
Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933
-
Le Khuong Ninh, Investment of Rice
Mills in Vietnam, The Role of Financial Market
Imperfections and Uncertainty,
http://www.economicswebinstitute.org/essays/investviet.pdf
-
Albert Naud, L'exportation des grands
produits agricoles indochinois, Annales de Géographie,
1930, Volume 39, Numéro 217, pp. 50-60.
-
Annuaire général de l'Indo-Chine
française, 1901, 1923.
-
Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam,
Nxb Trẻ 1997.
-
Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb
Tp Hồ Chí Minh, 1991.
-
The Straits Times, 23 December 1903,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19031223.2.2.4.aspx
-
Li Tana, 尋找法屬越南南方的華人米商 (Tầm trào Pháp
thuộc Việt Nam nam phương đích Hoa nhân mễ thương),
Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 4, 2010,
http://csds.anu.edu.au/volume_4_2010/20-5C_CSDS_2010_Tana_Li.pdf
-
Julia Martinez, Chinese rice trade
and shipping from the North Vietnamese port of Hai
Phong, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 1, 2007,
http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Martinez.pdf
-
Rajeswary Ampalavanar Brown, Bank
archives and research on Chinese business communities in
Indo-China, South China Research Resource Station
Newsletter, 15/7/2001,
http://ihome.ust.hk/~schina/PDF/news24.pdf
-
The Strats Times, 3 September 1915,
‘Sagon Rice Mills Sold”, trang 6,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19150903.2.36.aspx
-
Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De
Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois
(1890),
Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191
-
The Straits Times, 22 May 1931,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19310522.2.17.aspx
-
Nguyễn Đức Hiệp,
Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa
từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20,
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/singapore-saigon-hong-kong/
-
Rapports au Conseil de gouvernement,
session ordinaire 1927, 1928, 1929 / Gouvernement
général de l'Indo-Chine, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï),
1927, 1928, 1929
-
Sơn Nam, Phong trào Duy Tân ở Bắc
Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ 20 – Thiên Địa Hội và
Cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ 2003
Đã đăng trên
Diễn Đàn
|