Những bài
cùng tác giả
Bóng một
giàn hoa một
lá trầu,
Ngày xanh
lui lại nhớ
hàng cau
Thái Ngộ Khê

Sau
mấy chục năm tha hương, về
nước dự đám cưới một người
cháu, tôi ngạc nhiên thấy
nhà trai còn đem cau trầu
làm sính lễ lại đón cô dâu
như thời trước. Tôi mừng
thầm, sau hai cuộc chiến
tranh dài dăng dẳng, thảm
thê, truyền thống vẫn còn
giữ và dân tộc không quên
chuyện truyền thuyết tình
cảm, sâu xa của hai anh em
Cao Tân, Cao Lang và cô gái
học Lưu tên Liên thời Hùng
Vương kể lại trong
Lĩnh Nam chích quái.
Thật ra, Việt Nam ta không
phải là nước độc nhất dùng
cau trầu trong dịp cưới hỏi.
Suốt vùng châu Á, phía đông
bao trùm Thái Bình Dương đến
các đảo cạnh Úc châu, phía
tây vượt quá Ấn Độ đến bờ
biển Phi châu, phía bắc lấn
tràn Miến Điện và miền nam
Trung Quốc, phía nam chiếm
toàn Đông Nam Á với quần đảo
Nam Dương, ở đâu đất đai và
khí hậu cho mọc cau, trầu là
nơi đó có tục lệ cau trầu.
Bên Java, khi một chàng trai
hỏi ý một cô gái, cô gởi trả
một miếng trầu bọc hai lá :
nếu úp cùng chiều là cô ta
ưng ý. Cô vợ Arakan bên
Myanmar thì đem lá trầu xé
làm hai đưa cho chồng một
nửa : nếu anh quấn làm miếng
trầu ăn tức là anh đồng ý để
vợ ra đi. Không phải tình cờ
mà người Mã lai lấy tên cây
cau, pinang, đặt tên
meminang cho cuộc dạm
hỏi rồi pinangam cho
đám hỏi, còn người ở đảo
Bali thì đặt tên cho một hòn
núi Pinang Gunggam.
Bên Ấn Độ, bất cứ lễ sinh
con hay lễ tế người chết đều
phải có cau trầu. Người
Borneo đặt cau trầu quanh
thi hài người quá cố cùng
với những vật thường dùng
hằng ngày. Người Sumatra
mang cau trầu đi biếu dân
làng mình đến viếng cũng như
lúc sắp từ giả... Cưới hỏi,
ly dị, kết nghĩa, chia
ly,... rất nhiều quan hệ xã
hội lúc sống, khi chết, đã
được diễn tả qua cau trầu.
Đi xa hơn, cau trầu còn là
mối liên quan giữa người và
thần linh. Nước miếng đỏ
trong miệng người ăn trầu,
rất lạ mắt và có phần ghê
tởm cho những người phương
Tây, hình dung một sức mạnh
cốt tử trong mắt nhiều bộ
lạc. Người Macassar ở
Sulavesi dùng nước ăn trầu
thoa trán và thái dương trẻ
con bị bệnh. Bên Philippines
thì nước trầu được bôi vào
bụng con nít để tránh cảm
lạnh. Ở nhiều chỗ khác, nước
trầu còn có tính chất bùa
yêu mầu nhiệm. Ở Timor chẳng
hạn, thầy phù thủy nhìn màu
nước trầu phết vào trán
người chiến sĩ để suy đoán
vũ lực và khả năng chiến
đấu. Bên Java, đường gân lá
trầu chỉ định bản chất cơn
bệnh, còn màu nước trầu thì
biểu lộ tính tình. Người
Batak ở Sumatra cung hiến
miếng trầu cho ma quỷ để
chúng khỏi rượt đuổi con
người (1). Ở
Bali, tôi chứng kiến được
hằng ngày các cô gái tân
thời, áo cụt, quần jeans,
tóc dài, da thắm, đẹp như
tiên nữ, tung tăn, tươi
cười, hồn nhiên chạy đặt
những khay trầu bằng lá tí
hon trước cửa nhà cũng như
khắp các nẻo đường, theo một
tục lệ có từ ngày xưa, bất
chấp chúng có tồn tại được
lâu hay không.
Thật ra, cau trầu không chỉ
là một chuyện dị đoan. Nếu
bây giờ miếng trầu qua các
tay phù thủy, thì trước kia
những thầy thuốc như
Sushruta ở Ấn Độ từ thế kỷ
1, những lương y Ả Rập như
Rhazes, Avicienne qua thế kỷ
10 đã công nhận những giá
trị y học của cau trầu. Các
sách xưa ghi miếng trầu kích
thích nhiệt huyết, đem hương
vào miệng, củng cố cơ thể,
nảy nở vẻ đẹp, tiêu tan bệnh
tật, giúp thêm điềm tĩnh,...
Nó còn có khả năng tăng sức
tim, chữa đau răng, củng cố
nướu răng,... Theo một số
sách khác, nó là một trong
những thích thú trong đời
bên cạnh ăn uống, áo quần,
hương hoa, phụ nữ. Ngày nay,
miếng trầu được xếp ngang
hàng với guarana, kola,...
những chất nhai chơi có khả
năng kích thích (9).
Trái lại, các tu sĩ Myanmar
tin nhai trầu cổ võ suy
nghĩ, kích thích tịnh tâm (2)
.
Hoa cau rụng trắng ngoài
thềm
 Tục
lệ cau trầu chỉ được phổ
biến ở Âu châu từ những thế
kỷ 16, 17, 18, bắt đầu với
những người Bồ Đào Nha. Tiếp
xúc với người Ấn Độ và người
Mã Lai, họ hấp thu hai danh
từ vittilei và
vetila để chỉ trầu ,
dần dần đọc trạnh ra
vettele, bettele,…cho
đến ngày nay thành betle
hay betel. Bên
phía cau thì hai danh từ
akakeya (Ấn Độ) và
adakka (Mã Lai) đã đưọc
biến ra thành arec,(noix
d'arec), aréquier. Những
người Anh quen dùng chữ
betle chỉ định trầu, từ
đấy cây trầu betle vine,
lá trầu betle leaf,
miếng trầu betle
quid, và kỳ quái là cả
ngay trái cau betle nut
cho nên lúc ban đầu hay có
sự lẫn lộn.
Ở Ấn Độ, tiếng Sanskrit để
chỉ trầu là tâmbula,
đổi thành tambuli,
tambulam trong tiếng
Pali, tamboli, tambolam
trong tiếng Prâkrit,
tambul trong tiếng
Persan, al tambul
trong tiếng Ả Rập. Phát xuất
từ một tiếng Sanskrit khác,
parna, người Hindi
ngày nay gọi trầu là pân,
cho nên những quầy quán bán
trầu bên Ấn Độ, Myanmar mang
tên panshop. Trong
ngôn ngữ Nam Á, chữ trầu
thay đổi với các sắc tộc :
Khơme mluv, Bana
bơlơu, Stieng mlu,
Kha blu, Kha blu,
Thái Lan phlu, Môn
jablu, halang lamlu
(1). Người
Chăm một thời gồm có hai thị
tộc : Dừa và Cau. Thị tộc
Cau chiếm giữ vùng
Panduranga tức Phan Rang
ngày nay và tháp Pô Klaung
Garai đã được vua Jaya
Simhavarman III (ta gọi Chế
Mân) dựng lên trên núi Trầu
(3) tức Bôn Hala.
Lễ vật cúng ở đây ngoài dê,
gà, bánh rượu, lúc nào cũng
có kèm theo cau trầu. Sách
vở còn kể nghệ nhân Chăm
biết dùng vàng, bạc, đá quý
tạo nên những hộp đựng cau,
trầu, vôi chạm trổ công phu.
Trong đám quân binh tháp
tùng nhà vua, luôn có những
người lính mang những hộp ấy
và lễ vật cống hiến Trung
Quốc không bao giờ thiếu hộp
cau trầu. Ở miền Nam nước ta
còn có làng Trầu Phù Lưu,
Thập bát Phù viên tức Làng
Trầu 18 thôn làm nên quê
hương vườn trầu lý tưởng
(4) .
Ở Việt Nam ta, từ điển
Alexandre Rhodes viết
blâu, đọc giầu ở
miền Bắc thay vì trầu.
Ngoài vôi, cau trầu
thường được ăn với vỏ cây
chay. Cũng như ở các nước
Đông Nam Á khác, cau trầu có
mặt trong tất cả các buổi lễ
cúng, cưới hỏi, trang hoàng,
trong hoàng tộc cũng như
ngoài dân gian. Nó "biểu
tượng cho sự kính trọng, cho
lòng biết ơn, cho sự tạ lỗi
- mỗi một khi nhà có việc,
đều không thể thiếu cơi
trầu, bình vôi, người bạn
đường chung thủy của trầu
cau - là quyền lực của người
nội tướng trong gia đình..."
(4a). Trong giao
tiếp, miếng trầu là đầu
câu chuyện, thay vì điếu
thuốc, chén trà. Rồi khi
quen nhau nhiều, không xa
nhau lâu được : Láng
diềng đã đỏ đèn đâu, Chờ em
chừng giập bã trầu em sang
(Nguyễn Bính).
Nhận một miếng trầu là gần
như một lời cam kết :
Miếng trầu ăn nặng bằng chì,
Ăn rồi em biết lấy gì đền
ơn. Sau nầy thành vợ
thành chồng, có con cái, ru
con ngủ cũng còn lẩn vẩn với
chuyện cau trầu : Mua vôi
chợ Quán chợ Cầu, Mua cau
Nam Phổ, mua trầu chợ
Dinh...
Nhưng nếu bản thân cau trầu
luôn còn là bài thơ muôn
thuở của con người (4)
thì ngày nay khoa học lại
phân tích tìm kiếm trong các
loại thảo mộc nầy những tính
chất dược lý có thể đem ra
ứng dụng trong đời sống hằng
ngày. Mang tên khoa học
Pepper (hay Piper)
betle (hay betel)
L., trầu, hay trầu không,
thuộc họ Hồ tiêu
Piperaceae. Tên khoa học
của cau, còn được gọi binh
lang, tân lang, là Areca
catechu L., thuộc họ Cau
Arecaceae. Trái cau
thường được miêu tả trong
sách báo qua tên areca
nut hay, vì lầm lẫn như
đã thấy, betle nut.
Bên ta nhân dân dùng lá trầu
giã nhỏ, cho thêm nước sôi
vào dùng rửa những vết loét,
mẩn ngứa, viêm mạch bạch
huyết. Nước pha lá trầu còn
được dùng làm thuốc nhỏ mắt
chữa viêm kết mạc, chữa bệnh
chàm mặt của trẻ em. Có nơi
còn giã lá trầu cho đắp lên
ngực để chữa ho và hen, hoặc
đắp lên vú cho sữa không ra
nữa. Trái cau thường được
dùng làm thuốc lợi tiểu (gọi
là đại phúc bì), chữa giun
sán cho người và súc vật,
giúp sự tiêu hóa, chữa viêm
ruột, lỵ, trẻ con chốc đầu,
hợp với thường sơn, thảo quả
trong đơn thuốc "trường sơn
triệt ngược" chữa sốt rét
(*).
Đôi ta nâng mấy cơi trầu
Đem phân tích, lá trầu chứa
đựng năm propenylphenol có
tính chất khử nấm, trừ giun
: chavicol, chavibetol,
allyl pyrocatechol,
chavibetol acetat,
allylcatechol acetat. Những
chất phenol khác cũng đã
được tìm ra : hydroxy
chavicol, eugenol, methyl
eugenol, isoeugenol, flavon,
quercetin, nhiều nhất là
safrol trong hoa. Hydroxy
chavicol, tác dụng mạnh
nhất, cùng eugenol và
tocopherol là những chất
kháng oxi hóa đã được chiết
xuất từ thân trầu. Những
chất 3beta-acetyl ursolic
acid, ursolic acid và
beta-sitosterol có tính chất
chống viêm. beta-sitosterol
cũng đã được xác định dưới
dạng palmitat trong rễ trầu
cùng piperin,
piperlonguminin trong thân
và tritriacontan,
cepharadion,
dotriacontanoic, stearic
acid trong lá. Bên Ấn độ,
một cuộc khảo cứu các tinh
dầu, phân biệt được các loại
trầu trồng ở các vùng. Trầu
Bangla chứa nhiều eugenol
(64%), đặc biệt chống nấm,
trầu Desawari nhiều propenyl
benzodioxol (45%). Hai chất
anethol và cis-caryophyllen
nổi trội trong trầu Meetha.
Trong năm loại trầu vùng
Kapoori thì có cả một loạt
hóa chất : alpha-thujen,
beta-ocimen,
delta-cadinen,... Trầu
Sanchi đặc biệt có
steraldehyd không tìm ra
trong các trầu khác.
 Tinh
dầu trầu có tác dụng hạ
huyết áp, duỗi bắp cơ, trị
giun sán, chữa dị ứng
(22) như lá trầu
(23). Trầu hỗn hợp với
những phần chiết tiêu lốt
Piper longum, thùn mùn
Embelia ribes, cam
thảo dây Abrus
precatorius, tinh dầu
Polianthes tuberosa,
natrium borat, làm thành một
thuốc ngừa thai dài hạn
(11). Trầu có khả năng
hủy bỏ tác dụng đột biến của
những chất gây ung thư
nitrosonornicotin và methyl
nitrosoamino pyridyl butanon
từ thuốc lá nhờ những
eugenol, hydroxy chavicol,
chlorophyll, vitamin C cũng
như chống dimethyl benz[a]
anthracen nhờ beta-caroten.
Trầu chiết được dùng với bạc
hà trong một hỗn hợp thuốc
thơm để cho vào nước súc
miệng (21). Có
hoạt kháng chống oxi hóa
(24), lá trầu lại
hoãn chậm sự ô khét bơ dầu
nhờ vậy giữ được lâu
(25) .
Như trong lá chè, trái cau chứa
đựng nhiều tannin gây ra mùi vị
đặc biệt và được xem như là
những chất gây ung thư. Từ
tannin nầy, đã được chiết xuất
ra những catechin, epicatechin,
leucocyanidin, cùng những chất
proanthocyanidin, di- tri-
tetra- và penta procyanidin.
Trong số các procyanidin, đặc
biệt arecatannin B1
ức chế hoạt động của trùng
HIV-1-PR. Một số chất khác quan
trọng trong trái cau là những
alcaloid (2,38 mg/g) : (%)
arecolin (0,30-0,63), arecaidin
(0,31-0,66), guvacolin
(0,03-0,06), guvacin (0,19-0,72)
và những dẫn xuất nitroso của
chúng rất độc hại cho gen, cho
tế bào biểu mô miệng, niêm mạc
mũi, có thể gây u tuyến ở phổi.
Những aflatoxin B1, B2,
G1, G2
(3,5-26,2 µg/kg) trong cau bị
nhiễm trùng Aspergillus
flavus cũng có tác dụng gây
ung thư. Safrol có khả năng gây
ung thư ở thực quản. Acrolein
thì rất độc hại cho gen nhưng
lại làm giảm hạ đường trong máu
thỏ đã bị alloxan gây bệnh đái
đường. Vôi Ca(OH)2
cho phát xuất những gốc OH có
thể làm tổn thương những tế bào
miệng. Người ta biết khi thay
đổi pH, chẳng hạn lúc tiếp xúc
với vôi là một chất alcali,
những alcaloid có khả năng thay
đổi màu, ví dụ nhuộm đỏ trong
nước miếng người ăn trầu. Vôi có
khả năng ức chế methyl mercaptan
phát tiết ra ngoài nên ăn trầu
đở hôi miệng. Chính vôi cũng đã
thủy phân arecolin và guvacolin
ra thành arecaidin và guvacin.
Cùng với hai chất nầy, đã được
xác định những alcaloid khác :
nicotin, methyl nicotinat, ethyl
nicotinat cùng dimethyl
piperidin carboxylat, ethl
methyl tetrahydro pyridin
carboxylat. Những polysaccharid
trong vỏ trái có tính chất chống
bổ thể, trình bày một số đường
48,2% (rhamnose, arabinose,
mannose, galactose) cùng uronic
acid, protein. Saccharin được
xác định trong cau dưới dạng
muối natri. Ngoài các acid mỡ
(lauric, myristic, palmitic,
stearic, phtalic acid) cau còn
chứa đựng những amin acid : ít
tryptophan, methionin, hơn 15%
prolin, hơn 10% tyrosin,
phenylalanin arginin.
Trong một cuộc khảo cứu rộng lớn
trên 100 thảo mộc ở Á Đông, hãng
Coreana Cosmetics đã tìm ra cau
cùng với riềng, nghệ, cải, đinh
hương, đơn bì, đại hoàng,… trong
số những cây có thể dùng để
chiết xuất chất kháng oxi hóa.
Một ứng dụng được thực hiện dựa
lên tính chất nầy là cho trộn
cau với dương mai (28)
hay với riềng Curcuma longa,
đinh hương Syzygium
aromaticum, mộc hương
Saussurea lappa (có khả năng
khử melanin) làm thuốc bảo vệ da
(18). Có mỹ phẩm dựa
lên tính chất khử thải những gốc
tự do của cau (27),
hỗn hợp vói vitamin C (29)
hay cam thảo bắc Glycyrrhiza
glabra (30). Nhờ
khả năng ức chế tác dụng
5’-nucleotidase,
glucotransferase trong
Streptoccocus mutans của
những chất phenol, procyanidin
và acid mỡ, cau được dùng để
chữa sâu răng, trị viêm răng,
chống mảng răng (17).
Bên ta trước kia đã thấy có thói
dùng vỏ trái cau chùi răng, một
vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ
kiếm cần phải được khuyến khích.
Những chất phenol, đặc biệt
những ester, thức biệt thành
NF-86I, NF-86II, NPF-86IA,
NPF-86IB, NPF-86IIA, NPF-86IIB,
cau được đưa vào thuốc trị u
khối (13,14), chữa
các chứng nhiễm virus (16).
Vì ức chế glycerophosphat
deshydrogenase, chúng được cho
vào thức ăn chống béo (20).
Cũng như trầu, tiêu Piper
nigrum, rau ngót Sauropis
androgynus,… cau thuộc số ít
thảo mộc ức chế rất mạnh giun
tròn Bursaphelenchus
xylophilus, theo một bản báo
cao Mã lai. Trong cau có một
phần tannin ức chế được enzym
chuyển đổi angiotensin nên được
xem là chất chống huyết áp
(12). Dùng dichloro methan
chiết xuất, cau cống hiến một
chất thuốc chống trầm cảm
(26).
Vườn em đất tốt trồng cau
 Một
vấn đề khá quan
trọng đã được nhiều giới khoa
học lưu ý, đặc biệt ở Ấn Độ là
khả năng gây ung thư của miếng
trầu. Các bài tổng kiểm đã được
sử dụng lượt kê gần 500 bản báo
cáo đủ loại. Kết luận đến nay
chưa ngã ngũ rõ ràng. Công tác
sâu rộng và đầy đủ nhất, tuy hơi
xưa (1985), được Tổ chức Quốc tế
Khảo cứu về Ung thư thực hiện
(5). Theo bài nầy, có
đủ chứng cớ để tin ăn trầu, thêm
hút thuốc, dễ gây ung thư trên
con người nhưng không thể buộc
tội miếng trầu một mình. Như vậy
là nghĩa là người vừa ăn trầu
vừa hút thuốc có nhiều khả năng
mắc bệnh ung thư họng nhưng
không thể nói gì về người chỉ ăn
trầu mà thôi. Hai mươi năm sau
nầy, nhiều bài tổng kiểm khác
lại bổ túc. Theo Giáo sư Iwao
Hirono (6), dựa lên
những khảo cứu về mặt dịch tể
học ở đàn ông, đàn bà các nước
Ấn Độ, Mã Lai, Trung Quốc, thì
ung thư chỉ do những yếu tố môi
trường như cách thức ăn trầu chỉ
định chứ không dính dáng gì đến
di truyền dân tộc. Ông đưa ra
mâu thuẫn lá trầu có khả năng ức
chế gây ung thư benzo[a]pyren
còn cau và vôi thì có tác dụng
ngược lại. Một công tác tương
đối mới hơn (1989) (7)
nhấn mạnh vai trò của những
alcaloid trong miếng trầu vì
chúng tác dụng với vôi để cấu
tạo những gốc tự do phá hoại
màng nhầy trong miệng, nơi mà
vôi đã từng gây viêm. Đằng khác,
thuốc lá vừa gây phản ứng
nitroso hóa các alcaloid kia vừa
đem thêm vào những nitrosamin
độc hại của chính mình. Tuy
nhiên các tác giả công nhận là
không có thuốc lá, miếng trầu
chưa chắc đã gây ung thư. Thiếu
vitamin trong cơ thể, hoạt động
vi khuẩn trong miệng và tác dụng
gây kích thích của vôi và cau là
những tác nhân tiềm lực.
Theo Giáo sư P.C. Gupta (8),
người đã theo dõi lâu ngày lãnh
vực nầy bên Ấn Độ, tuy khảo cứu
dịch tể học cũng như thực nghiệm
không chứng minh được miếng trầu
không thêm thuốc lá đã đem lại
ung thư, cau trong miệng đã gây
những xơ dưới niêm mạc trong
miệng tức là một tổn thương tiền
ung thư. Một người hút thuốc đã
có sẵn những xơ nầy tất nhiên dễ
bị ung thư hơn những người khác.
Ông lập chương trình phòng ngừa
: ngừng hút thuốc nếu ăn trầu và
khám nghiệm kịp thời để phát
giác thời tiền ung thư. Sau
cùng, một công tác khảo cứu tại
viện Đại học Đài Loan (10)
đặt lại toàn thể vấn đề. Theo
các tác giả bài báo nầy thì tính
độc của polyphenol, alcaloid và
tannin trong cau chưa được chứng
minh rõ ràng và cần phải được
xem lại. Phản ứng oxi hóa những
polyphenol của cau trong nước
miếng người ăn trầu cho phát
xuất những loại oxi có hoạt tính
lớn là mấu chốt mọi khởi xướng
và phát triển ung thư miệng.
Phản ứng nitro hoá những
alcaloid cấu tạo nên những
nitroamin đặc thù của cau đã
được chứng minh là những chất
gây đột biến, rất độc về mặt gen
và có khả năng cho đột nhập u
khối vào thú vật như arecaidin
và phần chiết từ cau. Nhiều thí
nghiệm sẽ cần được thực hiện để
nêu rõ sự chuyển hóa của những
thành phần cau và vai trò của
chúng trong phản ứng nhiều đợt
gây ung thư hầu mong từ đấy tìm
ra phương pháp phòng ngừa và
chữa ung thư miệng cũng như u xơ
dưới niêm mạc miệng.
Song song với những khảo cứu y
khoa kia, kỹ nghệ cũng kiếm cách
ứng dụng những tính chất của
cau. Những phenol có khả năng
bảo vệ những nucleotid chống tác
dụng phá hoại của những enzym
nên được dùng bảo vệ thức ăn
như dưa chuột để giữ hương vị.
Chúng ức chế urease chế tạo
ammoniac trong urea nên được
dùng làm thuốc thơm trong vật
liệu bảo dưỡng mèo. Người ta đã
làm thuốc nhuộm vải, lụa với
phần chiết từ cau. Tannin được
trộn với natrium sulfat, natrium
carbonat làm thuốc nhuộm tóc đen
xám (15). Nhờ chất
proanthocyanidin, đặc biệt chất
epicatechin-catechin, cau đưọc
hòa với acetyl glutamin acetat,
butylen glycol glycerol trong
ethanol và nước thành thuốc kích
thích tóc mọc (19).
Một loại giấm giàu enzym và amin
acid, xúc tiến sự tiêu hóa, gồm
có một phần hột cau, nước gừng,
cải củ, khoai mài,... Thân cây
cau có nhiều lignin, ít
hollocellulose, có tính chất cơ
lý học tương đương với các gỗ
cứng khác thường được dùng làm
giấy. Vỏ trái cau đem xử lý với
nấm đỏ Phanerochaete
chrysosporium tăng số lượng
protein lên quá 100%, còn nếu để
nguyên cho ủ thì lignin hủy hoại
đến 62% nhưng năng suất khí
methan phát ra tăng lên 48%. Tôi
rất ngạc nhiên chưa thấy một
nước nào, nhất là các nước ít
giàu, dùng vỏ trái cau làm bót
đánh răng, vừa rẻ tiền, vừa vệ
sinh.
Mỗi lần về quê, nhìn hàng cau
trong nắng, tôi nhớ đến Hàn Mặc
Tử, nhớ qua thôn Vỹ, nhớ về Nam
Phổ làng xưa. Trong tai tôi bên
phương trời Tây luôn còn văng
vẳng giọng hát ngọt ngào của Thu
Hiền :
Nhà anh có một vườn cau,
Nhà em có một vườn trầu,…
Võ Quang Yến
Trích "Thông tin Khoa học và
Công nghệ 2(28)
(2000) 3-11 "
(có sửa chữa và bổ túc tài
liệu)
Tham khảo
(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam,
nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội (1968/1986) 135,190
1- Solange Thierry, Le
bétel trong
Catalogues du Musée de
l'Homme, I. Inde et Asie
du Sud-Est, 14-20
2- Dawn F. Rooney, Betel
Chewing. Traditions in
South-East Asie trong
Images of Asia (1993)
1-15
3- Ngô Văn Doanh, Tháp cổ
Chămpa. Sự thật và huyền
thoại, nxb Văn hóa –
Thông tin (1994) Hà
Nội 175-186
4- Nguyễn Ngọc Chương,
Trầu cau Việt điện thư,
nxb Hồ Chí Minh (1990/1997)
18 ; 4a- Trần Ngọc Thêm,
Lời giới thiệu
5- International Agency for
Research on Cancer, IARC
Monographs on the evaluation
of the carcinogenic risknof
chemicals to humains,
Vol. 37, IARC (1985) Lyon
141-202
6- I. Hirono, Naturally
occuring carcinogens of
plant origin, trong
Bioactive molecules, nxb
Kodansha-Elsevier
(1987) Tokyo-Oxford-New York
167-181
7- S. Sen, G. Takukder, A.
Sharma, Betel
cytotoxicity, J.
Ethnopharm. 26
(1989) 217-46
8- P.C. Gupta, Betel quid
and oral cancer : prospects
for prevention,
Tobacco Smoke and Mycotoxins,
IARC (1991) Lyon 466-470
9- J.F. Morton,
Widespread tannin intake via
stimulants and
masticatories, especially
guarana, kola nut, betle
vine, and accessories,
Basic Life Sci. 59
(1992) 739-65
10- J.H. Jeng, M.C. Chang,
L.J. Hahn, Role of areca
nut in betel quid-associated
chemical carcinogenesis :
current awareness and future
perspectives, Oral
Oncology 37(6)
(2000) 477-92
11- P.C. Das, Oral
contraceptive (long-acting),
Brit. 1,445,599
(1976) 11tr.
12- J. Inokuchi, H. Okabe,
T. Yamauchi, A. Nagamatsu,
G. Nonaka, I. Nishioka,
Antihypertensive substance
in seeds of Areca catechu L.,
Life Sci. 38(15)
(1986) 1375-82
13- K. Uchino, T. Matsuo, M.
Iwamoto, New
5’-nucleotidase inhibitors,
NPF-86IA, NPF-86IB,
NPF-86IIA, and NPF-86IIB
from Areca catechu. Part I.
Isolation and biological
properties, Planta
Med. 54(5) (1988)
419-22
14- T. Matsuo, M. Iwamoto, Y
? Tonosaki, A. Fukuchi,
Novel antitumor substances
from betel nut, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP
63,307,892 (1988) 24tr.
15- K. Mizumaki, Hair
dyes extracted from plants,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP 02,138,114 (1990)
7tr.
16- A. Fukuchi, M. Iwamoto,
K. Uchino, H. Ogawara, H.
Hideki, N. Yamamoto,
Virucide extraction from
betel nuts for treating
human immunodeficiency virus
infection, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP
02,196,725 (1990) 22tr.
17- M. Iwamoto, K. Ugino, Y.
Toukairin, K. Kawaguchi, T.
Tatebayashi, H. Ogawara, Y.
Tonosaki, The growth
inhibition of Streptococcus
mutans by 5’-nucleotidase
inhibitors from Areca
catechu L., Chem.
Phar. Bull. 39(5)
(1991) 1323-4
18- S. Shirota, K. Myazaki,
M. Ichioka, T. Yokokura,
Skin-lightening cosmetics
containing melanin
inhibitors from plants,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP 06,227,960 (1994)
54tr.
19- T. Takahashi, Y.
Kobayashi, M. Kawamura, Y.
Yokoo, T. Kamiya, T.
Tamaoki, Hair growth
stimulant , PCT Int.
Appl. WO 96 00, 561
(1966) 22 tr.
20- T. Wada, T. Mizumo, K.
Uchino, Glycerophosphate
dehydrogenase inhibitors,
their use as food additives,
and antiobesity foods
containing them, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP
09,286,734 (1997) 6tr.
21- Y. Yahamara, T. Aoki, K.
Miyake, H. Shioda, Agents
and method for improvement
of flagrances and flavors
using Piper betle extracts,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP 11130685 (1998) 8 tr.
22- Y. Yamahara,
Anti-allergic effects of
Piper betle, Food
Style 21 2(4)
(1998) 66-8
23- J. Yamahara, Allergy
inhibitors containing
extracts of Piper betel,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP 11130685 (1999) 5 tr.
24- C.K. Wang, H.Y. Su, C.K.
Lii, Chemical composition
and toxicity of Taiwanese
betel quid extract,
Food Chem. Toxicol.
37(3-2) (1999) 135-44
25- L.P. Lean, S. Mohamed,
Antioxidative and
antimycotic effects of
tumeric, lemon-grass, betel
leaves, clove, black pepper
leaves and Garcinia
atriviridis on butter cakes,
J. Sci. Food Agric.79(13)
(1999) 1817-22
26- A. Dar, S. Khatoon,
Behavioral and biochemical
studies of dichloromethane
fraction from the Areca
catechu nut,
Pharmarm. Bochem. Behavior
65(1) (2000) 1-6
27- B.G. Cho, G.G. Lee, G.S.
Lee, Composition of free
radical eliminating cosmetic
material containing extract
of Areca catechu L.,
Repub. Korean Kongkae Taeho
Kongbo KR 2001058419
(2001) không có số tr.
28- J.D. Choi, G.H. Kim,
G.S. Kim, G. Geon,
Whitening and wrinkle
improvement cosmetics
composition containing Areca
catechu extract and arbutin,
Repub. Korean Kongkae
Taeho Kongbo KR 20021205
(2002) không có số tr.
29- J.D. Choi, G.G. Lee,
G.S. Lee, Cosmetic
compositions comprising
vitamin C or derivatives
thereof and Areca catechu L.
extract for preventing skin
aging, Repub. Korean
Kongkae Taeho Kongbo KR
2003043471 (2003) không có
số tr.
30- K.K. Lee, K.S. Lee,
medicinal cosmetical
composition with Areca
catechu seed extract,
PCT Int. Appl. WO
2004089327 (2004) không có
số tr.
|