Lich sử Nền Văn Chương Nga.

Vietsciences-Phạm Văn Tuấn      15/08/2005 

 

            Cũng giống như các nền văn chương của các quốc gia khác, Văn Chương Nga gồm nhiều tác phẩm rất giá trị. Các nhà văn người Nga đã dùng tất cả các thể loại để diễn tả nhưng hai bộ môn chính nổi tiếng nhất là tiểu thuyết và thơ phú. Đặc điểm của các nhà văn này là thể văn, nội dung của tác phẩm và cách phân tích tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Các nhà văn Nga đã bận tâm về các vấn đề xã hội, tôn giáo, triết học và luân lý.

            Nền Văn Chương Nga chịu ảnh hưởng lớn của các biến cố lịch sử. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, đạo Thiên Chúa đã được truyền sang đất Nga và các tác phẩm văn học đều mang dấu vết tôn giáo. Tới khi quân Mông Cổ tràn vào chinh phục đất Nga thì nền Văn Chương Nga trong thế kỷ 13 tới 15 đã chứa đựng các đề tài về Rợ Thát Đát (Tartar). Nước Nga bị cô lập với thế giới Tây Phương trong hơn 200 năm, cho tới cuối thế kỷ 17 các bản dịch nhiều tác phẩm của Tây Phương mới bắt đầu xuất hiện trên đất Nga rồi từ cuối thế kỷ 18, bắt đầu phổ biến các hình thức văn chương phản kháng các tham nhũng chính trị, suy đồi đạo đức, chống đối Sa Hoàng và chế độ nông nô.

            Trong thế kỷ 19, nền Văn Chương Nga, kể cả thơ và kịch, đã phát triển rực rỡ và nền văn học này bước vào giai đoạn hiện thực (realism) vào giữa thế kỷ. Tới đầu thập niên 1890, các nhà văn Nga chịu ảnh hưởng của các đường lối nghệ thuật và thơ phú của nước Pháp và các tư tưởng của nhà triết học người Đức Friedrich Nietzsche. Họ đã dùng các tư tưởng du nhập phối hợp với nền triết học tôn giáo địa phương để viết ra các tác phẩm mang các nét vẻ đặc thù với sự xuất hiện của các nhà thơ lớn của nước Nga và giai đoạn sáng tác này đã chấm dứt khi xẩy ra Cuộc Cách Mạng Tháng 10.

 

Fyodor Tyutchev Лермонтов Михаил Юрьевич Picture of Fyodor Dostoevsky, author of Crime and Punishment; nineteenth century Russian Literature
Tyutchev Lermontov Dostoevsky

  

 Vào giai đoạn từ 1890 tới 1920, tinh thần cách mạng đã lan tràn trên toàn đất Nga. Văn Chương Nga được canh tân và mang nhiều sinh động và đây là Thời Kỳ Bạc (the Silver Age). Đời sống hàng ngày và các vấn đề xã hội đã được các nhà văn biểu tượng (symbolists) thể hiện qua các tác phẩm thơ phú và tiểu thuyết, đặc biệt là các tác giả như Tyutchev, Lermontov, Dostoevsky. Nhà thơ biểu tượng như Alexander Blok đã diễn tả các lý tưởng tôn giáo trong các tác phẩm thơ phú đầu tiên rồi về sau lại mô tả các xấu xa của thế giới. Tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà thơ Blok là cuốn "Mười Hai" (the Twelve, 1918) đã ca ngợi cuộc Cách Mạng Bolshevik năm 1917 là cách thanh lọc tinh thần của nước Nga.

  

Andrei Bely

Leonid Andreyev

Ivan Bunin

          Andrei Bely cũng là một nhà thơ nổi tiếng và nhà viết tiểu thuyết xuất sắc. Trong tác phẩm St. Peterburg (1913), thủ đô của nước Nga đã được mô tả là nơi mà các nền triết học Đông và Tây đã gặp nhau và xung đột nhau dữ dội. Leonid Andreyev là người viết nhiều truyện ngắn giật gân với các đề tài như sự điên khùng, tính dục hay sự khủng bố, ông đã phối hợp các yếu tố của biểu tượng và hiện thực trong các sáng tác và hai tác phẩm của ông là truyện ngắn "Nụ Cười Đỏ" (the Red Laugh, 1904) và vở kịch "Người bị đánh" (He who gets slapped, 1915).

            Vào đầu thế kỷ 20, còn có một nhà văn danh tiếng là Ivan Bunin với các tác phẩm có đề tài là tình yêu và cõi chết, và các văn phẩm của ông giống như của trường phái biểu tượng (symbolism). Một trong các tác phẩm của Bunin là "Kẻ sang trọng từ San Francisco" (the Gentleman from San Francisco, 1915), đề cập tới một nhà triệu phú người Mỹ, đã làm việc quá cực nhọc và về sau không được hưởng thụ cuộc đời.

           

Nikolai Gumilev

Osip Mandelshtam

Anna Akhmatova

Tới khoảng năm 1910 tại nước Nga, đã xuất hiện trường phái văn học hậu biểu tượng (Post-symbolism). Các nhà văn này đã dùng các hình ảnh rõ ràng của xã hội, dùng tới một thứ ngôn ngữ cụ thể hơn để diễn tả và họ đã phản kháng các tác phẩm mơ hồ, mang tính triết học của trường phái biểu tượng. Các nhà văn hàng đầu của trường phái mới này là Nikolai Gumilev, Osip Mandelshtam và Anna Akhmatova. Trong các nhà văn hậu biểu tượng, lại có một nhóm cấp tiến khác được gọi là nhóm tương lai (the futurists) với đường lối thể hiện khác trước, và đại biểu của nhóm này là nhà văn Vladimir Mayakovsky, với đặc điểm ngôn ngữ mạnh và hình ảnh mô tả khác thường.

            Về bộ môn thơ, có Boris Pasternak là một nhà thơ lớn mô tả đời sống và thiên nhiên. Các âm thanh và từ vựng của ngôn ngữ Nga được một nhà thơ khác thử nghiệm, đó là Marina Tsvetaeva.

 

Boris Pasternak

Marina Tsvetaeva

           Tháng 11 năm 1917, đảng Cộng Sản Bolshevik lên nắm chính quyền và đã kiểm soát mọi hoạt động văn hóa, nối tiếp chính sách kiểm duyệt chặt chẽ các tác phẩm văn chương của chế độ Sa Hoàng khi trước và vì vậy, kể từ năm 1917 mọi nhật báo, tạp chí và văn hóa phẩm tại nước Nga đã trở nên các dụng cụ chính trị của đảng Cộng Sản. Nhà Nước đã kiểm tra chặt chẽ việc ấn loát, nhiều nhà in bị đóng cửa, số lượng sách báo giảm hẳn đi đồng thời chính quyền Cộng Sản đã khuyến khích các nhà văn, nhà thơ phải làm phát triển một thứ văn chương của giai cấp vô sản, và các tác phẩm văn học phải phục vụ quyền lợi của giới công nhân và nông dân. Sự kiểm duyệt và chỉ đạo của chính quyền Cộng Sản đã bóp nghẹt các sáng tác văn học khiến cho trong giai đoạn 1917-20, đã không có nhiều tác phẩm được viết ra. Tới thập niên 1920, chính quyền Cộng Sản đã nới lỏng một đôi phần tự do, các phê bình văn học được cho phép nhờ đó đã xuất hiện một số nhà thơ, nhà văn mới. Isaak Babel với tác phẩm "Kỵ Binh Đỏ" (Red Cavalry, 1926) mô tả các hoàn cảnh khủng khiếp của chiến tranh. Leonid Leonov nói về các hệ quả tâm lý của cuộc Cách Mạng đối với người dân Nga bằng hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất là "Người bán rong" (the Badger, 1924) và "Kẻ Cắp" (The Thief, 1927). Alexei N. Tolstoy viết hai tác phẩm "Chị Em" (the Sister, 1921) và "Buổi sáng lạnh lẽo" (Bleak Morning, 1941). Các tiểu thuyết vào giai đoạn này mô tả đời sống trung lưu của người dân Nga trong thời gian từ 1914 tới 1920.

Isaak Babel

Leonid Leonov

Tolstoy

            Cuối thập niên 1920 là thời kỳ đàn áp của chế độ cộng sản, mọi nông dân bị dồn vào các "nông trường tập thể". Công cuộc cải tạo ruộng đất này đã làm thiệt hại 10 triệu mạng sống trong số đó một nửa bị chết đói. Các nhà văn không được nhà nước Liên Xô chấp nhận cũng bị thanh trừng, như Kharms, Pilnyak, Mandelshtam, nhà thơ nông dân Nikolaye Klyuyev. Rồi từ năm 1928, bắt đầu chương trình kinh tế 5 năm tại Liên Bang Xô Viết với chủ trương xây dựng nền kỹ nghệ. Các nhà văn Nga được yêu cầu viết về các vấn đề kinh tế, mô tả các nông trường tập thể, các công tác xây dựng nhà máy vì vậy chất lượng văn chương của giai đoạn này rất kém ngoại trừ một vài tác phẩm như cuốn "Thời gian, hãy tiến về phía trước" (Time, Forward!, 1932) của Valentin Kataev.

D. Ivanovich Kharms

Boris Pilnyak

Mandelshtam

            Qua đầu thập niên 1930, chính quyền Stalin đã ra lệnh cấm hẳn mọi hoạt động văn học tư nhân và thiết lập nên Hội Nhà Văn Xô Viết (the Union of Soviet Writers). Hội này là một công cụ của chính quyền Cộng Sản, có chủ đích kiểm soát và chỉ đạo tất cả các nhà văn chuyên nghiệp vào việc mô tả cách xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa. Các nhà văn được lệnh phải viết ra các tác phẩm lạc quan, phải có "tính đảng", có tính đấu tranh giai cấp, dễ hiểu và có thể văn tương tự như thể văn của Tolstoy hay Gorky. Các tài liệu văn học nào không đi đúng đường lối của đảng Cộng Sản đều bị kiểm duyệt và các nhà văn "khó bảo" bị loại ra khỏi Hội Nhà Văn, bị cầm tù và cuộc đời văn nghệ của họ coi như bị chấm dứt.

 

 

Valentin Kataev

Nikolai Ostrovsky

 

           Vào giai đoạn chuyên chính này, tác phẩm văn học khá phổ biến và tượng trưng cho công cuộc đấu tranh là cuốn tự thuật giả tưởng (fictionalized autobiography) có tên là "Thép đã tôi thế đấy" (How the Steel Was Tempered, 1932-34) của Nikolai Ostrovsky. Aleksey Tolstoy là một trong các nhà văn được Stalin ưa chuộng nhất, đã khen ngợi các Sa Hoàng dùng bạo quyền tức là những người Nga được Stalin ngưỡng mộ, trong cuốn tiểu thuyết dang dở "Đại Đế Peter" (Peter the Great, 1929-45) và trong vở kịch "Ivan khủng khiếp" (Ivan the Terrible, 1941-43). Đồng thời Gorky và 34 nhà văn khác, như Katayev, Shklovsky, Aleksey Tolstoy và Zoshchenko, đã ca tụng các công trường lập nên do các người tù cải tạo mà thực ra, mỗi công trường, nông trường đã dùng tới xương máu của hàng chục ngàn sinh mạng. Trong các năm đen tối này, tiểu thuyết được coi là giá trị nhất là cuốn "Bậc Thầy và Margarita" (The Master and Margarita) của Mikhail Bulgakov, viết ra để "cất kín" trong các năm 1928-40 và chỉ được phép xuất hiện vào năm 1973.

           

Sholokhov

Tác phẩm văn chương nổi danh nhất của giai đoạn Stalin là cuốn tiểu thuyết "Giòng Sông Don êm đềm" (The Quiet Don, 1928-40) của Mikhail A. Sholokhov, mô tả về cuộc Cách Mạng và nội chiến, về câu chuyện của một người Cossack trẻ có hạnh phúc bị tàn phá bởi thảm cảnh chiến tranh. Sholokhov nhận Giải Thưởng Nobel về Văn Học năm 1965.

            Trong thời gian chiến tranh với Đức Quốc Xã từ 1941 tới 1945, chính quyền Cộng Sản đã cho các nhà văn đôi phần tự do trong việc sáng tác bởi vì họ quan tâm tới việc kháng chiến chống Đức hơn là xây dựng xã hội chủ nghĩa. Các tác phẩm quan trọng trong giai đoạn này thường mô tả những đau khổ và cõi chết. Konstantin Simonov viết cuốn "Ngày và Đêm" (Days and Nights, 1943-44), nói tới cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc.

      

 

 

Mikhail Zoshchenko

      Sau khi Thế Chiến II chấm dứt, chính quyền Cộng Sản lại xiết chặt việc kiểm duyệt. Một số tiểu thuyết gia bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn như Anna Akhmatova và Mikhail Zoshchenko, môt nhà châm biếm xuất sắc.

             Năm 1953, Stalin qua đời, bắt đầu một thời kỳ dễ thở trong đời sống Xô Viết và trong nền văn học. Sự thay đổi này được đánh dấu bằng cuốn tiểu thuyết ngắn "Tan Băng" (The Thaw) xuất bản năm 1954 của nhà văn Ilya Ehrenburg. Trái với chỉ đạo của chính quyền Cộng Sản là phải mô tả đời sống Xã Hội Chủ Nghĩa tràn đầy hạnh phúc và lạc quan yêu đời, Ehrenburg đã trình bày những cô đơn, những thất vọng… Sau đó bạo quyền của Stalin lại được nhà văn Alexander Solzhenitsyn phơi bày qua cuốn "Một Ngày trong Đời của Ivan Denisovich" (One Day in the Live of Ivan Denisovich) và cuốn tiểu thuyết này mô tả các trại tù lao động Xô Viết. Tới năm 1956, Nikita Khrushchev đọc một bài diễn văn tố cáo các tội ác to lớn của Stalin và từ nay, các nhà văn Cộng Sản chính thống bị người dân Nga coi như lỗi thời và các nhà văn bất đồng chính kiến được coi là những người cấp tiến.

Joseph Stalin (1879-1953). Nikita Khrushchev (1894-1964) Leonid Brezhnev(1906-1982)

            Trong thập niên 1960, đã có một số nhà văn trẻ, cấp tiến hơn, cổ động cho tự do và tính sáng tạo trong đời sống văn nghệ, chẳng hạn như hai nhà thơ trẻ Yevgeny Yevtushenko và Andrey Voznesensky. Các khuyết điểm trong cuộc sống Xô Viết còn được Vasily Aksyonov đề cập, còn Vasily Shukshin trình bày các cực khổ của lối sống nông thôn và cảnh nghèo khó của các nông dân trong các nông trường tập thể.

            Chế độ kiểm duyệt văn hóa gắt gao của chính quyền Cộng Sản đã khiến cho nhiều tác phẩm văn học không được xuất bản trong xứ, một số nhà văn đã lén lút đưa bản thảo ra nước ngoài. Năm 1957, cuốn tiểu thuyết "Bác Sĩ Zhivago" của Boris Pasternak xuất hiện bên nước Ý rồi năm sau, được phổ biến tại các quốc gia Tây Aâu và Hoa Kỳ. Ông Pasternak được trao Giải Thưởng Nobel về Văn Học năm 1958, nhưng ông đã từ chối nhận giải vì áp lực của chính quyền Cộng Sản.

            Vào năm 1964, Leonid Brezhnev đã thay thế Nikita Khrushchev làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Xô, nên kể từ nay, các nhà văn tự do lại bị bắt bớ, xét xử và cầm tù. Yuly Daniel, với bút hiệu là Nikolay Arzhak, đã bị bắt giam vì phổ biến "các tài liệu tuyên truyền chống Xô Viết" tại ngoại quốc. Tuy thế, các tác phẩm văn học Nga vẫn được đưa lén và phổ biến bên ngoài Liên Xô. Cuốn truyện "Cuộc xét xử bắt đầu" (the Trial Begins) của Andrey Sinyarsky, với bút hiệu Abram Tertz, mô tả các khủng bố tại một quốc gia sống dưới chế độ công an trị. Sinyarsky bị bắt giam năm 1966 và bị đưa đi cải tạo tới năm 1971 rồi sau đó được chính quyền Cộng Sản cho phép di cư qua Pháp vào năm 1973, mở đầu làn sóng thứ ba của các nhà văn Nga tị nạn với các nhân vật như Solzhenitsyn, Brodsky, Vasily Aksyonov, Georgy Vladimov, Vladimir Voynovich và Alexandr Zinovvyev.

            Tại phương tây vào năm 1968 đã xuất hiện tác phẩm "Vòng tròn thứ nhất" (the First Circle) của Alexander Solzhenitsyn. Cuốn tiểu thuyết này mô tả đời sống của các tù nhân chính trị trong thời đại Stalin. Solzhenitsyn được trao Giải Thưởng Nobel 1970 về Văn Học nhưng rồi bị trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1974.

            Trong các năm từ 1970 tới 1980, các hạn chế văn học đã làm khó khăn thêm việc sáng tác và xuất bản tại Liên Xô nhưng vẫn có một số nhà văn chỉ trích Xã Hội Chủ Nghĩa bằng cách mô tả những kiểu sống ích kỷ và đạo đức giả mà họ là nhân chứng. Các suy đồi luân lý và sụt giảm tiêu chuẩn tại các vùng nông thôn đã được Valentin Rasputin trình bày, còn Vladimir Voinovich châm biếm đời sống Xô Viết trong tác phẩm "Đời sống và các cuộc phiêu lưu lạ lùng của anh binh nhì Ivan Chonkin" (the Life and Extraordinary Adventures of Private Ivan Chonkin, 1975). Yuri Trifonov đề cập tới các nan giải đạo đức của giới trí thức Xô Viết qua tác phẩm "Một Đời Khác" (Another Life, 1975) và "Ông Già" (Old Man, 1978).

           Giữa thập niên 1980, nhà lãnh đạo Mikhail Gorbachev đã đưa ra chính sách "Cởi Mở" (glasnost) nhờ đó các tin tức và tư tưởng được nới lỏng và vì vậy, các tác phẩm của Pasternak và của Akhmatova lần đầu tiên xuất hiện tại Liên Xô.

            Vào thời đại Gorbachev, người dân nước Nga được tiếp xúc với các tác phẩm của các nhà văn bị cấm đoán trước kia như Solzhenitsyn, Mandelshtam và Tsvetaeva. Các tác phẩm mang tư tưởng tôn giáo cũng được phổ biến như của Vasily Rozanov và Nicolas Berdyaev. Các nữ văn sĩ có tài cũng xuất hiện, chẳng hạn như Aleksandra Tolstaya và Liudmila Petrushevskaia. Cuốn tiểu thuyết ngắn với tên dịch là "Moscow tới cuối đường hầm" (Moscow to the End of the Line, 1969) của Venedikt Erofeev được tầng lớp dân chúng mới ưa chuộng. Hình ảnh về "thiên đường sụp đổ" qua các tệ nạn như nghiện rượu, ma túy, tham nhũng, băng đảng… cũng được mô tả trong các tác phẩm văn học cho đến khi Liên Xô tan rã vào năm 1991.

II- Các tù nhân Gulag.

            Trong thời gian nắm quyền tại Liên Xô từ năm 1929 tới năm 1953, Stalin đã theo đuổi một đường lối cách mạng thực tế, không chấp nhận tình cảm ý thức hệ, không cho phép một người nào được thảo luận hay đi lệch ra khỏi chính sách của đảng Cộng Sản và phần lớn các câu nói của Lenin được coi là các châm ngôn, không được phép tranh luận. Stalin đã làm phát triển một thứ tôn sùng cá nhân, tự coi mình là người thừa kế duy nhất của Lenin, là người duy nhất có quyền diễn tả các ý thức hệ của đảng Cộng Sản. Tất cả những kẻ chống lại những giáo điều mới này đều bị coi là phản động.

            Stalin đã chủ trương đường lối "Xã Hội Chủ Nghĩa trong một quốc gia" (Socialism in one country) nhờ đó, mặc dù bị thế giới tư bản bao vây, Liên Xô vẫn sẽ có thể trở thành một xã hội không giai cấp. Để giành được nền độc lập kinh tế trong tương lai không bị lệ thuộc vào các nước tư bản bên cạnh, Liên Xô phải phát triển kỹ nghệ nặng, nhà nước phải mạnh, quyền lực phải được tập trung vào trong tay Stalin, tất cả các kẻ chống đối đều phải bị thanh trừng. Từ cuối thập niên 1930, tại Liên Xô đã diễn ra ba cuộc thanh trừng lớn và rất nhiều vụ xét xử nhỏ qua đó các cựu đảng viên Bolshevik bị tố cáo là phản bội, họ bị hành hình hoặc hành hạ trong các điều kiện sinh sống rất cực khổ.

            Vụ tranh trừng hay xét xử đầu tiên bắt đầu vào tháng 8 năm 1936, khi đó Genrikh G. Yagoda làm trùm công an mật vụ. 13 bị cáo bị buộc tội đi theo Léon Trotsky vào năm 1932 trong một tổ chức phá hoại để chống lại Stalin. Đây là các đảng viên Bolshevik xuất sắc của giai đoạn Cách Mạng Tháng 10 năm 1917 với những tên tuổi như Grigory Yevseyevich Zinovyev, Lev Borisovich Kamenev và Ivan Smirnov. Ngày 24-8-1936, họ bị tòa án kết tội và đều bị hành quyết.

            Vụ xử thứ hai mở ra vào tháng 1 năm 1937, khi N.I.Yezhov đã thay thế Yagoda làm trùm mật vụ NKVD. 17 bị cáo là những nhân vật danh tiếng như G.L. Pyatakov, G.Y. Sokelnikov, L.P. Serebryakov và Karl Radek. Họ cũng bị kết tội là thuộc trung tâm phản động Trotskít cộng tác với Đức Quốc Xã và quân phiệt Nhật Bản để phá hoại Liên Xô, lật đổ chính quyền Xô Viết để tái lập chế độ tư bản. Họ bị tòa án cộng sản kết tội vào ngày 30-1-1937.

            Vụ xử thứ ba vào tháng 3 năm 1938 gồm các bị can Nikolay Ivanovich Bukharin và Aleksey Ivanovich Rykov, là những nhân vật cộng sản xuất sắc của cuối thập niên 1920, gồm cả Genrikh G. Yagoda là trùm mật vụ trước kia và 3 bác sĩ danh tiếng… tất cả 21 bị cáo, bị buộc tội phá hoại và làm gián điệp để phá hủy chế độ Xô Viết và phục hồi chủ nghĩa tư bản.

            Ngoài ba vụ xử công khai kể trên, tại Liên Xô dưới thời Stalin còn có hàng ngàn vụ xử kín mà nạn nhân là các nhà trí thức, các sĩ quan cao cấp trong quân đội Xô Viết, các đảng viên bất mãn… Các vụ thanh trừng này đã khiến cho lực lượng quân sự Liên Xô bị suy yếu trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lăng Đức Quốc Xã vào tháng 6 năm 1941.

            Tại Liên Xô vào cuối thập niên 1920 cũng bắt đầu các công cuộc cải cách ruộng đất. Các phú nông và các nông dân chống lại chính sách tập thể của nhà nước Xô Viết đã bị đưa đến các nhà tù gọi là "trại cải tạo lao động" (forced-labor camps). Hệ thống trại cải tạo lao động, được gọi tắt là GULAG , được bắt đầu do nghị định Xô Viết ký ngày 15-4-1919, quản lý do cơ quan công an mật vụ OGPU (sau này đổi tên thành NKVD và KGB).

            Gulag là chữ tắt của Glavnoye upravleniye lagereiy, có nghĩa là "Cơ quan quản lý các trại cải tạo lao động" (Chief administration of Corrective Labour Camps). Danh từ GULAG không được Tây Phương biết tới cho đến năm 1973 khi xuất hiện các cuốn truyện "Quần Đảo Ngục Tù" (The Gulag Archipelago, 1918-56) của Alexander Solzhenitsyn và đây là quần thể các trại cải tạo rải rác trên khắp miền đất nước Liên Xô, mỗi trại chứa từ 2,000 tới 10,000 tù nhân. Các tù nhân Gulag gồm rất nhiều thành phần: các nông dân từ các vụ cải cách ruộng đất, các thành phần đảng viên và quân nhân bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản, các nhóm dân thiểu số bị nghi ngờ không trung thành, các nhà trí thức bất đồng chính kiến, các kẻ bị tình nghi phá hoại hay phản động, các người Đức hay tù binh chiến tranh người Nga đã bị Đức bắt, các tội phạm thường và các người dân vô tội, nạn nhân của các vụ thanh trừng do Stalin phát động.

            Có 3 đợt tù cải tạo Gulag chính: giai đoạn 1929-32 là các năm cải cách ruộng đất tại Liên Xô, giai đoạn 1936-38 khi chính sách thanh trừng của Stalin lên cao nhất và giai đoạn ba là sau Thế Chiến II. Từ cuối thập niên 1920, số tù cải tạo đã bắt đầu gia tăng tới hàng trăm ngàn người và theo Văn Hào Solzhenitsyn, trong khoảng các năm từ 1928 tới 1953, có vào khoảng từ 40 tới 50 triệu người bị kết án dài hạn và làm lao công trong quần đảo ngục tù. Làm sao biết được con số thực sự của các nạn nhân, nhưng theo Sử Gia người Nga Roy Medveda ước lượng vào năm 1989, đã có vào khoảng 20 triệu người dân Nga chết vì các lao động cải tạo, vì cải cách ruộng đất, vì bị chết đói hay bị hành quyết, còn các học giả tây phương ước lượng có từ 15 tới 30 triệu người chết trong các trại tù Gulag trong thời gian 1918-56.

            Từ năm 1923, Công An Xô Viết đã thiết lập các trại tập trung cải tạo trên đảo Solovetski nằm trên bờ Biển Trắng (the White Sea) rồi sau đó rất nhiều các trại cải tạo được xây dựng thêm tại Karelia, Vorkuta, Pechora, tại miền Cực Khuyên của mạn bắc Liên Xô và tại vùng Siberia băng tuyết. Hệ thống tập trung cải tạo từ nay trở thành một thứ tổ chức lao động vĩ đại trên toàn thể lãnh thổ Liên Xô, ngay cả tại Thủ Đô Moscow, để khai thác công sức của các tù nhân cần thiết cho chính sách kỹ nghệ hóa của Stalin. Lúc đầu, các tù nhân phải lao động trong các kỹ nghệ rừng, kỹ nghệ đánh cá và kỹ nghệ hầm mỏ, sau đó tại các công trình lớn như việc xây dựng kênh đào Biển Trắng - Biển Baltic (the White Sea-Baltic Sea canal). Những tù nhân Gulag này không được ăn uống đầy đủ, không có áo ấm mặc, lại phải làm việc trong thời tiết cực lạnh của miền băng giá nước Nga.

            Sau khi Stalin chết vào năm 1953, việc khai thác các tù nhân Gulag mới giảm bớt và các trại cải tạo lao động được sửa đổi vào năm 1955 và quản lý do cơ quan GUITK (Glavnoye Upravleniye Ispravitelno-Trudovykh Kolony = cơ quan quản lý các thuộc địa cải tạo lao động).

 

© http://vietsciences.free.fr http://vietsciences.net  Phạm Văn Tuấn