| |
Vietsciences-Võ Văn Lượng 29/06/2007 |
a: ước tính đến tháng 12/2004
Phân bố các phân typ và CRF của HIV-1Các phân typ HIV -1 và CRF đựơc phân bố không đều trên thế giới , trong đó các phân typ B và C phân bố rộng rãi nhất .Phân typ C chủ yếu gặp tại miền đông và nam châu Phi , Ấn độ và Nepal . Phân chủng này gây ra các vụ dịch HIV nặng nề nhất và khoảng một nửa các trừơng hợp nhiễm hiện nay là do phân chủng này . Về mặt lịch sử , phân typ B là phân typ/CRF thừơng gặp nhất tại châu Âu , châu Mỹ , Nhật , và châu Úc. Tình hình này có thay đổi chút ít , bởi vì hiện nay ít nhất 25 % những trừơng hợp mới nhiễm tại châu Âu là do các phân typ mới khác .
Phân bố các phân typ HIV-1 M theo vùng địa lý ( theo S Osmanov et al: J Acquir Imm Def Syndr 29:184, 2002.) Phân typ A và CRF A/G nổi trội tại Tây Phi và Trung Phi , phân typ A cũng đóng vai trò chủ đạo gây vụ dịch tại Nga . Phân typ D nói chung chỉ khu trú tại Đông phi và Trung Phi ; A/E phổ biến tại Đông nam Á , nhưng vốn có nguồn gốc từ Trung Phi ; F đựơc tìm thấy tại Trung Phi , Nam Mỹ và Đông Âu ; G và A/G đựơc ghi nhận tại Tây Phi và đông Phi và tại Trung Âu .Phân nhóm H chỉ tìm thấy tại Trung Phi ; J chỉ có tại Trung Mỹ ; và K chỉ có tại Cọng hoà Dân chủ Congo và Cameroon. Nguồn gốc HIVHiện nay , HIV được chấp nhận là hậu duệ của SIV bởi vì một số chủng SIV có cấu trúc di truyền rất giống với HIV-1 và HIV-2 . HIV-2 tương ứng với SIVsm, là 1 chủng của SIV tìm thấy ở loài khỉ mặt xanh (sooty mangabey) , là loài khỉ bản địa vùng tây Phi . Còn typ HIV-1, có độc lực mạnh hơn , gây đại dịch nhiều hơn . Mãi cho đến năm 1999 , mới xác định được đối tác gần gũi nhất của HIV-1 là SIVcpz, là SIV tìm thấy ở loài tinh tinh ( chimpanzee ) . Tuy nhiên , chủng virus này vẫn còn có một số khác biệt với HIV ở nhiều điểm quan trọng .
1999 : Phát hiện nguồn gốc HIV đi từ SIV .Vào tháng 2 /1999 , một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Alabama ( Mỹ ) tuyên bố là họ đã tìm thấy 1 typ SIVcpz rất giống với HIV-1 . Chủng virus này đươc phát hiện từ 1 mẫu nghiệm đông lạnh lấy từ 1 con tinh tinh bắt được thuộc phân nhóm Pan troglodytes troglodytes (P. t. troglodytes), là loài rất phổ biến tại vùng Trung và Tây Phi . Các nhà nghiên cứu (do Paul Sharp của Nottingham University và Beatrice Hahn của Đại học Alabama dẫn đầu) đã đưa ra phát hiện này sau 10 năm miệt mài nghiên cứu về nguồn gốc của virus HIV. Họ cho rằng mẫu nghiệm này chúng minh được HIV-1 đi từ tinh tinh, và virus này đã có lúc vượt qua được giới hạn loài để đi từ tinh tinh sang người . Kết quả nghiên cứu của nhóm được công bố 2 năm sau đó trên tạp chí Nature, trong đó họ kết luận rằng tinh tinh hoang dã đã bị nhiễm cùng lúc 2 chủng SIV khác nhau , 2 chủng này “giao phối “ và sinh ra 1 chủng virus thứ 3, chủng tứ 3 này có thể đã được lây sang những con tinh tinh khác, và điều đáng chú ý hơn, là chủng này có khả năng gây nhiễm cho người và gây ra AIDS Người ta truy tìm nguồn gốc của 2 virus này và lần ra được 1 SIV gây nhiễm cho khỉ mangabey đầu đỏ và 1 SIV khác gặp ở loài khỉ lớn mũi đốm (spot-nosed ) . Các nhà nghiên cứu tin rằng sự lai tạo đã xảy ra trong cơ thể loài tinh tinh khi chúng bị nhiễm với cả 2 chủng SIV sau khi chúng săn đuổi và giết 2 loài khỉ kia vốn nhỏ con hơn . Họ cũng kết luận rằng 3 nhóm HIV-1 ( M, N và O ) đều phát xuất từ SIV tìm thấy ở loài tinh tinh P. t. troglodytes, và mỗi nhóm đại diện cho 1 biến cố "nhảy" (crossover) riêng rẽ từ lòai tinh tinh sang người . Sau 17 năm nghiên cứu thực địa tại các vùng Đông, Tây, Xích đạo châu Phi, các nhà khoa học từ nhiều nứơc chứng minh có ít nhất có 40 lòai khỉ khác nhau bị nhiễm với 40 typ SIV khác nhau; 3 nhóm HIV-1 và 8 phân typ HIV-2 khác nhau là kết qủa của 11 biến cố nhảy sang lòai khác , trong đó có sự tham gia của 8 lòai khỉ mặt xanh và 3 tinh tinh đối với tất cả các trừơng hợp gây nhiễm ở người . Làm thế nào HIV nhảy sang loài khác được ?Từ lâu người ta biết rằng một số virus có thể “ nhảy “ từ loài này sang loài khác . Thật vậy , chính từ việc tinh tinh “ nhận “ SIV từ 2 loài khỉ nhân hình khác chứng tỏ rằng sự nhảy chéo này có thể xảy ra dễ dàng như thế nào . Con ngừơi là động vật , cho nên chúng ta cũng sẽ dễ bị cảm nhiễm như loài tinh tinh. Khi virus đựơc truyền từ động vật sang người , ta gọi đó là bệnh từ súc vật (zoonosis) . Dưới đây là một số lý thuyết được nhiều người nhắc tới giải thích về sự hình thành những bệnh từ súc vật và bằng cách nào mà SIV trở thành HIV ở người : Thuyết “ngừơi đi săn “Thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là thuyết “ ngừơi đi săn “. Theo thuyết này, thì SIVcpz đựơc chuyển sang người khi tinh tinh bị thợ săn giết và ăn thịt hoặc do máu của chúng vấy vào các vết cắt hoặc thương tích của ngừơi săn thú. Bình thừơng , cơ thể của thợ săn sẽ đánh bật SIV, nhưng trong một vài tình huống, virus này sẽ tìm cách thích ứng với cơ thể vật chủ mới và trở thành HIV-1 . Thuyết này căn cứ trên theo thực tế là có nhiều chủng HIV sớm khác nhau , mỗi chủng có bộ gien (make-up) hơi khác một chút (thừơng gặp nhất ở HIV -1M ) : mỗi khi những chủng HIV ban đầu này đi từ 1 tinh tinh sang 1 người , virus sẽ phát triển hơi khác chút ít trong cơ thể người đó, và từ đó sẽ tạo ra 1 chủng khác biệt một chút . Một bài báo trên tờ The Lancet năm 2004, cho biết ngay cả đến hiện nay retrovirus từ loài linh trưởng vẫn còn chuyển dịch sang người đi săn. Trong số những mẫu bệnh phẩm lấy từ 1099 cá thể tại Cameroon , các nhà nghiên cứu phát hiện có đến 10% bị nhiễm SFV ( (Simian Foamy Virus) , là 1 bệnh giống như SIV , trứơc đây người ta cho rằng chỉ gây nhiễm cho loài linh trưởng . Người ta tin rằng tất cả các trường hợp nhiễm virus này là do hành động săn giết và ăn thịt những con khỉ đó. Từ những phát hiện này đã dẫn đến lời kêu gọi nên cấm ngay việc tàn sát thú rừng để tránh lây truyền virus từ loài khỉ chuyển sang ngừơi .
Thuyết vaccin bại liệt uống (OPV)Thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm gây nhiều tranh luận nhất và cũng là thuyết gây nhiều suy nghĩ nhất . Người chủ trò của thuyết này là Edward Hooper , vốn là cựu phóng viên đài BBC đã từng sống tại châu Phi từ 1981 đến 1986 bằng nhiều nghề khác nhau như thủ kho , thầy giáo , người dẫn đường … Vào tháng 8/1986 , đang ở tại Kampala , ông ta nghe là có hàng trăm dân làng Kasensero ở bờ tây hồ Victoria đang chết dần mòn vì 1 chứng bệnh bí hiểm mà các chuyên gia y tế cho rằng có thể là do AIDS . Hooper đến ngay làng này và tổ chức gặp mặt các già làng dưới bóng 1 cái cây to duy nhất trong làng . Căn bệnh bí hiểm này có các triệu chứng như ho , sốt , loét miệng , lở loét ngoài da và tiêu chảy liên tục . Tất cả các bệnh nhân đều rất gầy ốm và suy mòn , đựơc gọi là bệnh Slims . Hooper nhớ lại cái cảm giác kinh hoàng và buồn rầu khi thấy cảnh đó . Các già làng cho biết là dân làng mắc chứng bệnh đó khi tiếp xúc với binh lính, các nhà buôn và gái bán dâm từ Tanzania tới . Kịch bản sau đó đựơc chuyển sang Mỹ. Vào ngày 31/5/1987, trên 1 chương trình radio của đài WABC "Natural Living with Gary Null" , Eva Lee Snead, một thầy thuốc tại San Antonio cho rằng OPV bị vấy nhiễm SIV từ loài khỉ mặt xanh châu Phi và từ đó đã gây ra vụ dịch AIDS . Louis Pascal , một ngừơi dân New York vốn sống ẩn dật , nghe đựơc chương trình này . Vốn không hề đựơc đào tạo gì về y học , nhưng có tham gia 1 bài viết duy nhất trong 1 tuyển tập triết học . Pascal quyết định nghiên cứu về lý thuyết này . Pascal nghiền ngẫm các tạp chí khoa học cho tới lúc ông ta tin rằng tế bào thận của loài tinh tinh ( không phải là của khỉ mặt xanh châu Phi theo ý kiến của Bs Snead ) được sử dụng để chế tạo OPV trong 1 chiến dịch thanh toán polio vào năm 1950 tại Trung Phi , bị vấy nhiễm virus SIV-SV40 , mà vào những năm 1950 là virus chưa đựơc phát hiện . OPV vốn đựơc 1 nhà virus học nổi danh , Hilary Koprowski, giám đốc viện Wistar tại Philadelphia phát triển . Pascal cũng nhấn mạnh rằng có 1 sự liên hệ giữa các địa điểm tiêm chủng và những trừơng hợp AIDS đầu tiên tại châu Phi . Pascal cố công viết ra 1 bài báo và tìm cách đăng trên những tạp chí chuyên ngành như Lancet, Nature và New Scientist. Nhưng những gì ông ta nhận được từ cọng đồng khoa học là sự từ chối hoặc im lặng. Sau 5 năm đầy thất vọng , trường đại học Wollongong, NSW, Australia công bố bài báo của ông này vào tháng 12/1991. Không có gì ngạc nhiên vì chẳng mấy ai chú ý . Nhưng tên của bài báo khá bắt mắt “ Điều gì xảy ra khi khoa học sai lầm . Sự sai lạc của khoa học và nguồn gốc bệnh AIDS - 1 nghiên cứu về sự hình thành tự phát “ . Nhưng để hiểu rõ hơn về diễn biến của vụ việc , ta cần phải hiểu rõ một vài sự kiện về việc ra đời vaccin polio . Nguyên vào tháng 8/1921 , Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt bị mắc bệnh “ polio bại liệt trẻ em “ . Trong đời mình , Roosevelt đã dành nhiều công sức cho các hoạt động thanh toán polio . NFIP là tên gọi của 1 tổ chức quốc gia nhằm mục đích thanh toán polio ra đời vào năm 1938 và do Basil O'Connor , bạn thân của Tổng thống phụ trách . O'Connor mở chiến dịch gây quĩ và trong 20 năm , mỗi năm đã quyên góp đựơc 25 triệu USD . NFIP tài trợ cho Jonas Salk - Giám đốc Phòng thí nghiệm nghiên cứu virus tại trừơng đại học Pittsburg . Vaccin polio bất hoạt dùng để tiêm ( IPV = Inactivated polio vaccine ) ra đời từ viện nay , và sau đó hàng ngàn trẻ em đã đựơc tiêm chủng . Nhưng vaccin tiêm lại gây biến chứng : ngày 26 tháng 5 /1955 – có 5 đứa trẻ sau khi tiêm IPV bị liệt chi dưới sau khi tiêm - vì thế ngừơi ta mới chuyển sang sử dụng vaccin uống OPV. Những ngừơi tham gia phát triển OPV là Hilary Koprowski và Albert Sabin của Đại học Cincinnati và Herald Cox của Lederle Laboratories. Vào ngày 27 tháng 2/1950 , Koprowski là nhà khoa học đầu tiên trên thế giới đem OPV sử dụng cho người . Koprowski cho dựng 1 trại thí nghiệm tại Lindi , gần Stanleyville, Belgian Congo (hiện nay là Kisengani, Cọng hoà Dân chủ Congo ) để lấy thận tinh tinh . Những quả thận này được sử dụng để bào chế 1 loại vaccin OPV được gọi là CHAT . Từ năm 1957 đến 1960 , vaccin CHAT được đem ra sử dụng cho khoảng 300.000 người tại lãnh thổ cựu thuộc địa của Bỉ , tức là vùng đất bao gồm Cọng hoà dân chủ Congo , Rwanda và Burundi ngày nay . Thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm sẽ trôi vào quên lãng nếu không có một số biến cố sau đây làm sống lại . Vào ngày 12/3/1992 , Tom Curtis , là 1 phóng viên tự do tại Texas viết 1 bài báo đăng trên tờ Rolling Stones , trong đó ông ta đưa ra 1 giả thuyết về vụ dịch AIDS . Thuyết của Curtis về cơ bản cũng giống như giả thuyết do Louis Pascal trình bày năm 1987 . Nhưng không như bài báo của Pascal , bài của Curtis gây đựơc sự quan tâm rộng rãi của các phương tiện truyền thông . Koprowski rất lấy làm giận dữ vì nhũng ức đoán của giới không chuyên môn . Tuy nhiên , khi được Curtis phỏng vấn , ông ta không nhớ nổi hoặc đưa ra đựơc bằng chứng là nhóm nghiên cứu của ông tại viện Wistar đã dùng tế bào thận của khì mặt xanh châu Phi, khỉ macaque hoặc tinh tinh . Viện Wistar chỉ định 1 nhóm chuyên gia trình bày những phát hiện của họ trong 1 báo cáo dài 8 trang trứơc 1 hội nghị báo chí vào tháng 10/1992. Báo cáo này đã giải tội cho vaccin CHAT. Ngay lập tức , Koprowski và viện Wistar kiện Tom Curtis và tờ báo Rolling Stones vì tội phỉ báng . Vụ việc đựơc dàn xếp tại toà khi tờ báo đưa ra lời giải trình rằng “ họ chưa bao giờ có ý định cho rằng có bằng chứng khoa học chứng minh vaccin gây ra bệnh AIDS “ Vào tháng 6/1992 , Hooper đọc được bài báo của Curtis và bị thuyết vaccin OPV vấy nhiễm thuyết phục . Ông ta kiên trì bám lấy lý thuyết này và cuối cùng trở thành ngừơi ủng hộ nhiệt tình nhất . Hooper liên lạc với Curtis và Pascal và xin đựơc tất cả các tài liệu nghiên cứu của họ . Qua nghiên cứu về vaccin polio , Hooper tình cờ đọc đựơc tên giáo sư William Hamilton. Hamilton là 1 nhà sinh học tiến hoá đã từng đạt đựơc nhiều phần thưởng danh giá . Ông giáo sư bị những khía cạnh tiến hoá của bệnh AIDS lôi cuốn và và hết sức quan tâm đến thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm . Hamilton cho rằng báo cáo của nhóm Wistar “không đủ chứng cứ khoa học “ và còn hời hợt quá . Tuy nhiên , điều làm cho ông lo ngại nhất là cọng đồng khoa học đã thằng thừng gạt bỏ thuyết vaccin OPV bị vấy bẩn và việc các tờ báo khoa học không chịu đăng công trình của Pascal . Hamilton đã viết nhiều thư cho các tờ báo nhưng đa số đếu không đựơc đăng và vì thế ông ta khuyến khích và hướng dẫn cho Hooper theo đuổi công trình của mình . Trong suốt 7 năm sau đó , Hooper kiên trì đào sâu thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm. Để bổ sung kiến thức cần thiết cho nghiên cứu , Hooper đã nghiền ngẫm rất nhiều ngành khoa học như sinh học phân tử , virus học, ngành học về loài linh trưởng và nhiều chuyên ngành khác . Việc nghiên cứu , bắt đầu từ năm 1986 , đã đem lại 1 công trình đồ sộ dày 1070 trang với tiêu đề -Dòng sông (The River) - việc truy tìm nguồn gốc HIV và AIDS “ đựơc xuất bản vào tháng 12/1999. Để viêt cuốn sách , Hooper đã rà lại hàng ngàn trang bệnh án , các bài báo khoa học và tài liệu , đã thực hiện hơn 600 cuộc phỏng vấn , có khi gặp những ngừơi ít thiện cảm , gọi ông là “đồ ngoan cố , quá khích và hiếu chiến “. Trong quyển sách , Hooper đưa ra các bằng chứng gián tiếp chứng minh rằng CHAT đã bị vấy nhiễm bởi SIV và là nguyên nhân gây ra dịch AIDS . Ông ta cũng chứng minh rằng có mức độ tương ứng cao giữa các địa điểm cho uống vaccin CHAT và bằng chứng đầu tiên của bệnh AIDS tại châu Phi . Hooper rà soát hồ sơ những mẫu nghiệm máu HIV dương tính đựơc lấy tại châu Phi trứơc năm 1981 . Có 47 trong số 52 mẫu nghiệm lấy tại các địa điểm cho uống CHAT. Tất cả các mẫu nghiệm đều được lấy trong vòng 100 dặm quanh khu vực chủng ngừa trong đó có làng Kasensero mà hồi tháng 8/1986 ông ta đã đựơc nghe về bệnh SLIMS lần đầu tiên . Cuốn sách “ Dòng sông “ ra đời đã dấy lên 1 cuộc tranh cãi gay gắt, buộc Koprowski và viện Wistarvà ra sức bác bỏ thuyết vaccin . Bill Hamilton quyết định chấm dứt việc tranh cãi này và tổ chức 1 hội nghị của Hội Hoàng gia về đề tài “ Nguồn gốc của HIV và dịch AIDS “ trong 2 ngày từ 11-12/9/2000 . Thuyết của Hooper đựơc nhiều nhà khoa học tìm cách kiểm chứng . Beatrice Hahn và cọng sự của trừơng Đại học Alabama , chứng minh rằng SIV từ 3 con tinh tinh ở vùng Tây Phi rõ ràng là có liên quan đến HIV-1 , trong lúc 1 con khác từ Trung Phi (con tinh tinh của trại Lindi) không tương quan với HIV-1 . Từ đó , dựa trên bộ gien (genetic makeup) của 1 con tinh tinh , họ cho rằng vaccin Wistar không bị vấy nhiễm bởi SIV cpz . Năm 2000, Betty Korber cùng với các đồng nghiệp từ Los Alamos National Laboratory , sử dụng 1 máy tính cực mạnh là Nirvana để tìm nguồn gốc HIV-1 nguyên thủy ( Eve HIV-1 ) và xác định thời điểm xuất hiện là năm 1930 ( xê xích 20 năm tức là từ 1910 đến 1950 ) . Còn John Beale , một chuyên gia về vaccin , cho rằng không thể nào có trừơng hợp vaccin vấy nhiễm vì chỉ có 1 vi hạt virus trong số 10.000 tỉ mới “ còn sống được “ trong qúa trình sản xuất vaccin bao gồm đun nóng , làm lạnh , làm khô và xử lý bằng enzyme . Nhưng Hooper vẫn không hề nao núng và kiên cường bảo vệ lý thuyết của mình . Xem ra cuộc tranh cãi vẫn còn tiếp tục . Vào tháng 2/2000 , viện Wistar cho biết là họ đã tìm ra trong kho lưu trữ 1 lọ vaccin polio đã đựơc sử dụng trong chương trình tiêm chủng tại châu Phi . Vaccin này được đem đi phân tích và đến tháng 4/2001 kết qủa đựơc công bố là không hề tìm thấy trong vaccin có vết tích gì của HIV hoặc SIV cpz . Một phân tích thứ 2 cũng xác định rằng vaccin CHAT chỉ sử dụng tế bào thận khỉ macaque , mà tế bào này không thể bị nhiễm bởi SIV hoặc HIV . Điều này chứng tỏ thuyết vaccin OPV không đứng vững . Một thực tế nữa là thuyết vaccin OPV chỉ chú ý đến 1 nhóm HIV-1 ( nhóm M) cũng cho thấy rằng sự lây chuyền còn phải đi theo những con đường khác . Yếu tố cuối cùng chứng minh rằng thuyết OPV không đáng đựơc coi như là cách duy nhất để SIV truyền từ khỉ sang người dựa trên lập luận rằng HIV đã hiện diện trên con ngừơi khá lâu trứơc khi có các thử nghiệm vaccin . Thuyết kim tiêm bị vấy nhiễmThuyết này là phần mở rộng của thuyết “ người đi săn” ban đầu . Vào những năm 1950s , bơm kim tiêm plastic sử dụng 1 lần đựơc nhiều nứơc trên thế giới sử dụng vì rẻ tiền , vô trùng khi tiêm thúôc . Tuy nhiên , tại các nứơc châu Phi , thì không phải như vậy , trong các chương trình y tế, số lựơng bơm kim tiêm phải sử dụng rất lớn , cho nên gây tốn kém nhiều . Vì thế , nhân viên y tế ở đây sử dụng 1 bơm tiêm để tiêm cho nhiều người nhưng lại không tiệt trùng giữa 2 lần tiêm . Điều này làm cho các vi hạt virus được truyền từ người nọ sang ngừơi kia nhanh chóng , tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho virus biến dị và sao chép khi xâm nhập đựơc vào 1 cơ thể mới , ngay cả khi SIV ở ngừơi ban đầu bị nhiễm nhưng chưa chuyển đổi thành HIV . Người đóng vai trò chủ đạo của thuyết này là Preston Marx , vốn là 1 nhà virus học loài linh trưởng . Marx đã làm việc nhiều năm về SIV và đã thu đựơc nhiều mẫu máu của khỉ mặt xanh (sooty mangabeys ) cũng như mẫu máu của dân làng chuyên nghề săn bắt loài khỉ này khi đi khảo sát tại các tỉnh miền bắc , và miền đông xứ Sierra Leone . Đem các mẫu nghiệm về Mỹ làm xét nghiệm , Marx phát hiện là các mẫu máu khỉ mặt xanh cho kết quả dương tính với SIV và máu của một số dân làng có chứa cả 2 gien HIV và SIV . Marx tin rằng nhiễm SIV , với tính cách bệnh từ động vật ( retroviral zoonosis ) đã lưu hành tại đây nhiều thế kỷ , nhưng ông ta không rõ cái gì đã “ kích hoạt ” thành dịch HIV và thời điểm xảy ra dịch HIV lại xảy ra khá muộn tức là vào giữa những năm tuộc thập kỷ 70 của thế kỷ trứơc . Đến đây , mới thấy vai trò của sự tình cờ . Trên chuyến bay từ New York đi New Orleans , Marx chú ý đến 1 hành khách đọc 1 bài báo của 1 trong những đồng sự của mình tại Manhattan . Hành khách này là Ernest Drucker, giáo sư tại trường Y khoa Albert Einstein tại New York . Drucker cho biết là ông ta đang nghiên cứu vai trò của các kim tiêm bẩn đối với sự bùng phát dịch AIDS trong nhóm người nghiện heroin tại châu Á , Nam Mỹ và Tây Phi . Marx mê mẩn lý thuyết này ngay và nghĩ rằng bệnh từ động vật do retrovirus và việc sử dụng lại kim tiêm bẩn , vốn được thực hiện tại châu Phi vào những năm 1950 , có thể đã làm lây lan HIV từ người này sang ngừơi khác và làm cho vụ dịch phát triển mạnh . Qua đó , Marx đưa ra thuyết lây chuyển qua hàng loạt ( serial passage ) .
Thuyết lây chuyển qua hàng loạt ( serial passage )Tiến trình lây chuyển hàng loạt bắt đầu khi 1 ngừơi vốn bị phơi nhiễm với SIV từ 1 bệnh retrovirus súc vật chuyển sang , được tiêm 1 mũi tiêm ; sau đó kim tiêm tiêm người này đựơc dùng để tiêm thúôc cho 1 người khác , giúp cho SIV được truyền sang người thứ 2 và gây nhiễm virus cho người đó . Người thứ 2 sau đó lại nhận 1 mũi tiêm khác bằng 1 cây kim mới , cây kim này tương tự như trường hợp trên , được sử dụng lại để tiêm cho người thứ 3 . Qui trình này cứ tái diễn và qua mỗi lần lây chuyển thì SIV thích ứng và trở nên mạnh hơn đối với hệ thống miễn dịch của con người . Con virus như thế đựơc lây chuyển qua nhiều người do kim tiêm bị vấy bẩn và tiến trình này rốt cuộc đã chuyển đổi virus SIV lành tính trở thành HIV có độc tính cao . HIV bị biến đổi này có đủ độc lực để có thể lây truyền qua quan hệ tình dục và từ đó ó vụ dịch khởi phát . Lịch sử sử dụng bơm tiêm và kim tiêm tại châu Phi đã chứng minh cho thuyết này . Sau chiến tranh thế giới lần 2 , Penicilline đựơc sử dụng để điều trị nhiễm trùng rộng rãi . Vào năm 1943 , chỉ sử dụng 21 triệu mũi tiêm , đến năm 1949 , con số này là 120 triệu . Trong những năm thuộc thập kỷ 1950 , WHO và các cơ quan y tế khác đã phát động nhiều chương trình y tế khắp châu Phi . Nghèo đói và nguồn lực hạn chế buộc châu lục này phải sử dụng lại bơm tiêm và kim tiêm . Trong 2 năm ( 1917-1919 ) , để tiêm chủng cho 90.000 người , ngừơi ta chỉ dùng có 6 bơm kim tiêm . Từ 1952 đến 1957 , UNICEF đã cho tiêm 12 triệu mũi tiêm trong chiến dịch thanh toán bệnh ghẻ cóc ( yaw) tại Trung Phi . Cho đến năm 2000, bản tin của WHO vẫn còn nêu là có từ 20% đến 60 % các trạm y tế tại một số nứơc quá nghèo tại châu Phi vẫn còn sử dụng kim tiêm không vô trùng . Việc sử dụng các kim tiêm không vô trùng đã làm tăng theo cấp số nhân cơ hội lây chuyển hàng loạt virus SIV ở người và đã kích hoạt virus SIV lành tính trở thành HIV có độc lực cao . Marx đã chứng minh thực nghiệm rằng SIV có tính sinh bệnh cao gấp 1000 lần khi chỉ đựơc lây chuyển hàng loạt qua 3 con khỉ . Thuyết này có ít sơ hở hơn thuyết vaccin OPV nhiễm bẫn và thuyết người thợ săn bị thương (cut hunter) . Chỉ có 1 điểm mà thuyết này không giải thích đựơc vì sao có 1 khoảng thời gian “ lặng” giữa thời điểm sử dụng kim tiêm không vô trùng và thời điểm dịch HIV xuất hiện .
Thuyết chủ nghĩa thuộc địaThuyết chủ nghĩa thuộc địa hay thuyết “giữa chốn địa ngục“ dựa theo tên 1 quyển tiêu thuyết "Heart of Darkness" của Joseph Conrad . Thuyết này dựa trên tiền đề người thợ săn bị thương nhưng có tính toàn diện và khá đặc trưng hơn. Thuyết này do Jim Moore, một nhà nhân chủng học Mỹ chuyên về hành vi của loài linh trưởng , cùng với 2 sinh viên Amit Chitnis và Diana Rawls đưa ra trong một báo cáo đăng trên tờ “ AIDS Research and Human Retroviruses “ vào năm 2000 . Quyển "Heart of Darkness" (tạm dịch Giữa chốn địa ngục ) của Joseph Conrad tuy có tính tiểu thuyết nhưng cũng đủ để tả cảnh kinh hoàng của chế độ cai trị thuộc địa tại Congo thuộc Bỉ . Chế độ cai trị thuộc địa của Bỉ dưới thời Hoàng đế Leopold cực kỳ hà khắc và tàn bạo . Uớc tính số người Phi chết vì ách thuộc địa tại châu Phi xích đạo thuộc Pháp và Congo thuộc Bỉ từ 1880 cho đến khi chiến tranh thế giới lần 2 bắt đầu còn cao hơn số nô lệ được bắt ra khỏi châu Phi của 400 năm trứơc cọng lại . Đợt kiểm tra dân số đầu tiên vào những năm 1920 ứơc tính số dân tại 2 thuộc địa này là 15 triệu người . Tài liệu điều tra dân số cũng cho biết là có 15 triệu ngừơi khác đã chết trong 2 thập kỷ trứơc đó . Tỉ số chết lên tới 50% , trong khi tỉ số tử vong vì dịch hạch tại châu Âu cao nhất cũng chỉ tới 35%. Dân bị trị chết vì chế độ ăn thiếu thốn , điều kiện vệ sinh thấp và yêu cầu lao động nghiệt ngã . Có bác sĩ , nhưng trang bị thiếu thốn khiến cho việc chữa trị những bệnh địa phương trở thành qúa khó khăn . Do đó , việc tái sử dụng bơm tiêm và kim tiêm không vô trùng rộng rãi là thực tế đương nhiên. Moore tin rằng nhiều công nhân đã đựơc tiêm phòng chống một số bệnh như đậu mùa (để giúp cho họ sống và lao động ) bằng kim tiêm không sạch . Nhiều trại còn đem cả gái bán dâm tới để mua vui cho công nhân, càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền trong tương lai . Tất cả những yếu tố này cũng đủ để làm suy giảm sức khoẻ cả quần thể , cho nên , một con tinh tinh ốm và lạc bầy cũng có thể trở thành nguồn thực phẩm bổ sung cho đám công nhân đói ăn và cho phép SIV dễ dàng xâm nhập vào lực lượng lao động và chuyển thành HIV trong điều kiện hệ thống miễn dịch của họ bị suy giảm . Một số lượng lớn công nhân thậm chí chết trứơc khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của bệnh AIDS , và những ngừơi bị ốm không hề có gì khác biệt với những người trong cộng đồng vốn đầy bệnh tật . Mà nếu có biết rằng họ bệnh đi nữa , thì tất cả các bằng chứng ( kể cả các bệnh án ) cho biết sự hiện diện của trại lao động này cũng bị tiêu huỷ để xoá đi bằng chứng là con số dân địa phương bị chết lên đến mức kinh hoàng là 50% . Trong hoàn cảnh này , tác nhân lây bệnh lây từ người này sang ngừơi khác là điều không thể tránh khỏi . Thuyết này cũng giống như thuyết kim tiêm bị vấy bẩn , không giải thích đựơc vì sao có một khoảng thời gian chậm trễ từ khi bắt đầu có HIV vào những năm 1930 và dịch AIDS lan rộng bắt đầu vào những năm 1950 . Tuy nhiên , như Moore lý luận , liệu vụ dịch đã bùng nổ hoặc chỉ xuất hiện lẻ tẻ từng ca một , rồi cứ 2 hoặc 3 năm lại tăng gấp đôi ? Nếu vậy , sẽ cần tới ít nhất là 1 thập kỷ để có đủ số ca dồn lại đủ để ghi nhận là 1 hội chứng . Mặt khác , liệu các thầy thúôc thuộc địa quá tải vì công việc có đủ sức để phân biệt đựơc hội chứng mới xuất hiện này trong số biết bao nhiều bệnh nhiễm trùng đầy rẫy tại đây? Moore cho rằng , "thời gian trì trệ dài này có thể chỉ là do ta cảm nhận mà thôi" . Yếu tố cuối cùng mà Moore dùng để củng cố lý thuyết của mình dựa trên thực tế là các trại lao động được xây dựng vào thời điểm mà người ta tin rằng HIV được truyền sang người lần đầu tiên- tức là những năm đầu của thế kỷ 20.
Thuyết âm mưuMột số người cho rằng HIV do con ngừơi tạo ra . Chẳng hạn , qua một cuộc điều tra mới đây được thực hiện tại Mỹ , có một số khá lớn ngừơi Mỹ gốc Phi tin rằng HIV được tạo ra trong một chương trình chiến tranh sinh học, với ý đồ tiêu diệt đám dân da đen và dân tình dục đồng giới . Nhiều ngừơi cho rằng chương trình này đựơc chương trình virus ung thư đặc biệt = 'Special Cancer Virus Program' (SCVP) của chính phủ Mỹ bảo trợ , có sự giúp đỡ của CIA . Một số khác thậm chí còn tin rằng virus đã lây lan ( cả cố ý hoặc vô tình ) sang hàng ngàn ngừơi trên khắp thế giới thông qua chương trình tiêm chủng vaccin phòng bệnh đậu mùa , hoặc chương trình thử nghiệm tiêm Vaccin viêm gan B cho những ngừơi tình dục đồng giới nam. Trong khi không có thuyết nào trên đây bị bác bỏ thẳng thừng , dù rằng các bằng chứng đưa ra còn qúa mỏng manh , và thừơng bỏ qua mối liên kết giữa SIV và HIV , hoặc thực ra thì HIV chỉ mới phát hiện trên người sớm lắm cũng chỉ vào năm 1959 . Các thuyết này cũng quên đến 1 chi tiết là vào thời điểm bệnh AIDS xúât hiện đầu tiên , trên thế giới chưa hề có công nghệ di truyền (genetic-engineering technology ) Để kết luận , tạm lấy lời của Katrak Sarosh , là có thể chúng ta không bao giờ biết được AIDS thực sự bắt nguồn từ đâu và khi nào . Có nhiều lý thuyết đựơc đưa ra và mỗi lý thuyết đều có những điểm đáng lưu ý . Tranh luận và bảo vệ lý lẽ của từng thuyết vẫn còn liên tục diễn ra khốc liệt và trong trừơng hợp thuyết vaccin OPV bị nhiễm bẩn , việc tranh luận đã vượt ra ngoài khuôn khổ của các thảo luận khoa học . Từ 4 lý thuyết đựơc trình bày , một kết luận chung là do một số lý do còn chưa rõ nguồn gốc của AIDS không phải bình thừơng , tự nhiên. Có 1 cái gì đó đã “ kích “ SIV lành tính thành HIV độc tính , mặc dù con ngừơi đã từng bị phơi nhiễm với SIV trong hàng ngàn năm . Cũng có lý khi cho rằng 3 trong 4 lý thuyết đều có liên quan đến những hậu qủa xui xẻo , dù rằng không có chủ ý , của tiến bộ y học vào thời điểm triển khai các chương trình y tế .
Thời điểm xuất hiện HIV.Trong vài năm gần đây , ngừơi ta không những có thể phát hiện sự HIV hiện diện trong mẫu máu hoặc huyết tương , mà còn có thể xác định ra từng phân typ virus . Khi nghiên cứu các phân typ virus của một số trừơng hợp đầu tiên nghi nhiễm HIV còn lưu giữ mẫu nghiệm có thể giúp ta hiểu được thời điểm HIV xuất hiện đầu tiên cũng như tiến hoá sau này . Có 3 tình huống HIV sớm nhất mà ta biết đựơc :
Kết qủa phân tích năm 1998 từ mẫu bệnh phẩm huyết tương lấy năm 1959 cho thấy HIV-1 đựơc du nhập vào con người khoảng năm 1940 hoặc đầu những năm 1950 , tức là còn sớm hơn so với tính toán trứơc đây . Cũng từ mẫu bệnh phẩm này , có nhà khoa học khác cho kết quả còn xa hơn nữa, thậm chí vào cuối thế kỷ 19 . Tuy nhiên , đến tháng giêng năm 2000, Bette Korber của phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos , trình bày kết qủa của 1 nghiên cứu mới tại Hội nghị về các bệnh Retrovirus và nhiễm trùng cơ hội lần thứ 7 , lại cho rằng ca nhiễm HIV-1 đầu tiên xảy ra vào khoảng năm 1930 ( xê dịch 15 năm ) tại Tây Phi . Con số 1930 ứơc tính dựa vào một mô hình tiến hoá của HIV chạy trên siêu máy tính Nirvana . Nếu ứơc tính này đúng , có nghĩa là HIV đã có từ trứơc , trứơc những kịch bản mà các thuyết đề ra (như thuyết vaccin OPV và thuyết âm mưu ) . Liên quan đến thời điểm HIV-2 lây truyền sang người .Cho đến tận gần đây , nguồn gốc của HIV-2 chưa đựơc nghiên cứu mấy . Người ta nghĩ rằng HIV-2 đi từ SIV ở loài khỉ mặt xanh (sooty mangabey) hơn là từ loài tinh tinh , nhưng ngừơi ta cũng tin sự nhảy chéo ( crossover ) từ khỉ sang con người cũng xảy ra theo cách tương tự ( tức là qua cách săn giết khỉ rồi ăn thịt ) . HIV-2 hiếm gặp hơn , ít lây nhiễm hơn và diễn tiến sang AIDS chậm hơn nhiều so với HIV-1 . Thành ra , HIV-2 gây nhiễm cho ít người hơn. Và chủ yếu chỉ khu trú tại một số quốc gia vùng Tây Phi . Vào tháng 5/2003 , một nhóm các nhà nghiên cứu ngừơi Bỉ do Anne-Mieke Vandamme đứng đầu , đã công bố kết quả nghiên cứu trên tờ Proceedings of the National Academy of Science. Bằng cách phân tích các mẫu nghiệm của nhiều phân typ HIV-2 khác nhau ( A và B) lấy từ các bệnh nhân và các mẫu nghiệm SIV lấy từ khỉ mặt xanh châu Phi , Vandamme kết luận rằng phân typ A đã truyền sang ngừơi vào khoảng năm 1940 và phân typ B vào năm 1945 ( xê dịch khoảng 16 năm ). Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện virus có nguồn gốc từ Guinea-Bissau ( vốn là 1 cựu thuộc địa của Bồ đào nha ), và sự lây lan có thể đã xảy ra trong chiến tranh dành độc lập của nứơc này từ 1963 đến 1974 . Thuyết này có cơ sở thực tế bởi vì những trường hợp người châu Âu đầu tiên nhiễm HIV-2 được phát hiện từ các cựu binh người Bồ đào nha , trong đó có nhiều ngừơi được truyền máu hoặc tiêm thúôc bằng kim tiêm không vô trùng sau khi bị thương , hoặc có khả năng do quan hệ tình dục với gái điếm địa phương . Nơi xuất hiện .Câu hỏi về tính chính xác là HIV được truyền sang ngừơi tại nơi nào , và từ khi nào “ vụ dịch “ chính thức nổ ra , vẫn còn đựơc tranh luận ráo riết . Có người cho rằng , quả là nguy hiểm khi cố tìm ra câu trả lời , bởi vì trong quá khứ ngừơi vô tội hoặc một nhóm ngừơi nào đó thường bị đổ tội gây bệnh AIDS . Tuy nhiên , các nhà khoa học vẫn kiên trì tìm nguồn gốc thực sự của HIV , bởi vì đa số đều nhất trí là cần phải hiểu rõ virus , và dịch tể học của nó thì mới phòng chống được .
Nguồn gốc thực sự của HIV .Dựa trên các bằng chứng đang có , dường như có nhiều khả năng châu Phi đúng là nơi HIV nhảy sang người lần đầu tiên ( chưa bao giờ tìm thấy SIV có thể gây HIV ở người trên khỉ ở châu Á và Nam Mỹ ) . Vào tháng 5/2006 , cũng chính nhóm các nhà nghiên cứu lần đầu tiên xác định chủng SIVcpz trên lòai tinh tinh Pan troglodytes troglodytes , tuyên bố là họ đã khoanh vùng đựơc địa điểm có chủng virus này trên những con tinh tinh hoang dại trong rừng rậm vùng nam Cameroon . Bằng cách phân tích mẫu 599 mẫu phân từ những con tinh tinh hoang dã ( P. t. troglodytes là động vật hoang dã đang có nguy cơ bị tiêu diệt , thuộc danh mục lòai được bảo vệ cho nên không được săn bắt hoặc giết để làm thử nghiệm ) , các nhà nghiên cứu lấy được 34 mẫu cho phản ứng với test HIV DNA chuẩn , trong đó có 12 mẫu cho kết qủa giống hệt như phản ứng HIV ở người. Vì thế , các nhà nghiên cứu kết luận rằng lòai tinh tinh ở vùng này có rất nhiều khả năng là nguồn gốc của cả 2 nhóm HIV-1 gây đại dịch là nhóm M và nhóm N ( ít hơn nhiều).Tuy thế ,vẫn còn chưa rõ nguồn gốc chính xác của nhóm O.
HIV-1 nhóm N chủ yếu gây nhiễm cho các cá thể sống tại miền Trung và Nam Cameroon , cho nên không khó khăn gì khi thấy dịch bùng phát ở đây . Tuy nhiên , nhóm M , là nhóm đang gây đại dịch tòan cầu , đầu tiên đựơc phát hiện tại Kinshasa , thuộc Cọng hòa Dân chủ Congo . Ta vẫn còn chưa biết rõ cách mà virus di chuyển từ Cameroon sang Kinshasa , nhưng có nhiều khả năng là do 1 ngừơi bị nhiễm xuôi dòng sông Sangha là dòng sông chảy dọc từ nam Cameroon đổ vào sông Congo và sau đó chảy qua Kinshasa là nơi mà vụ dịch do nhóm M có thể bắt đầu . Cũng như phần trên ta chưa biết chính xác bằng cách nào mà virus chuyển từ Cameroon đến Kinshasa , còn vì sao mà virus vượt biển từ châu Phi sang châu Mỹ lại càng không rõ . Tuy nhiên , các bằng chúng gần đây gợi ý rằng virus có thể đã đến châu Mỹ qua đảo quốc Haiti trong vùng biển Caribê .
Nghiên cứu bản đồ châu Phi trình bày những vùng cung cấp nô lệ và lãnh địa của khỉ nhân hình và khỉ bị nhiễm các dòng SIV nguồn gốc của cả 2 typ HIV-1 và HIV-2 ta thấy : vùng cung cấp nô lệ ( màu đen) trùng với lãnh địa của loài tinh tinh ( màu xanh ) và khỉ mặt xanh ( đỏ ) là những loài có mang các chủng SIV nguồn gốc của cả 2 typ HIV-1 và HIV-2 . Người ta cho rằng nhiễm HIV đã xảy ra trong khỏang thời gian cuối thế chiến lần 2 đến đầu những năm 1960. Còn bệnh AIDS chắc chắn đã xuất hiện bên ngoài lục địa châu Phi từ cúôi những năm thuộc thập kỷ 1970 nhưng không có bằng chứng cho thấy HIV/AIDS đã hiện diện tại châu Phi và các nơi khác trứơc thập kỷ 50 của thế kỷ trứơc , chứng tỏ AIDS là 1 bệnh mới tại châu Phi cũng như những nơi khác . Vai trò của HaitiVụ dịch AIDS tại Haiti được đưa ra ánh sáng vào đầu những năm 1980 , cũng cùng thời điểm với những ca bệnh đầu tiên được phát hiện. Theo sau việc phát hiên một số ngừơi gốc Haiti bị ung thư Kaposi và những bệnh có liên quan đến AIDS , báo chí và sách vở y học bắt đầu tung tin là AIDS phát xuất từ Haiti , và người gốc Haiti là nguyên nhân của dịch AIDS tại Mỹ .Luận điệu này , tuy không có bằng chứng vũng chắc, lại càng làm nóng lên sự phân biệt chủng tộc vốn có sẵn tại Mỹ , và vì thế nhiều ngừơi gốc Haiti bị phân biệt đối xử và kỳ thị nặng nề. Nhiều ngừơi bị mất việc, vì ngừơi ta cho rằng họ là 1 trong 4 thành phần trong “câu lạc bộ 4 H” ( Homosexual, hemophiliacs , heroine-user , Haitian ) có nguy cơ bị mắc AIDS cao . Trong khung cảnh dễ kích động vì lời buộc tội và đầy thành kiến liên quan đến HIV và AIDS trong những năm đó đã làm cho việc nghiên cứu và trình bày các kết qủa nghiên cứu dịch tễ học khác quan , không bị ảnh hưởng của chính trị được . Trong nhiêu năm trời , mối liên hệ giữa Haiti và dịch AIDS tại Mỹ không đựơc ai đụng tới . Tuy nhiên , vào tháng 3/2007 , tại hội nghị bệnh nhiễm trùng cơ hội và Retrovirus lần thứ 14 tổ chức tại Los Angeles , các nhà khoa học đưa ra bằng chứng dựa trên phân tích di truyền 122 mẫu nghiệm (được lưu mẫu từ trứơc) HIV-1 nhóm M , phân typ B ( là chủng thừơng gặp nhất tại Mỹ và Haiti ) cho thấy rằng chủng virus này chắc chắn đã đựơc mang đến Haiti từ châu Phi, chỉ do 1 người duy nhất vào khoảng năm 1966 , thời điểm có nhiều ngừơi Haiti sang Congo làm việc và sau đó về nước . Phân tích di truyền sau đó cũng cho thấy là virus lây lan lặng lẽ từ ngừơi này sang người khác trên đảo này , trứơc khi được lan truyền vào nứơc Mỹ, và lần này chắc cũng do 1 cá thể duy nhất vào 1 thời điểm giữa giai đoạn 1969 và 1972. Từ thời điểm này trở đi , dịch AIDS phát triển khá nhanh , lây truyền bên trong và giữa Mỹ với Haiti , và toàn cầu làm cho ta không lần ra được nơi đầu tiên xuất phát bệnh này . Nguyên nhân làm cho dịch lan rộng đột ngột .Năm 2000, nhóm của Betty Korber tại Los Alamos National Laboratory , đã xác định thời điểm xuất hiện HIV-1 nguyên thủy ( Eve HIV-1 ) là năm 1930 ( xê xích 20 năm tức là từ 1910 đến 1950 ) . Nhưng trong 1 thời gian dài , nhiễm HIV chỉ đóng vai trò âm thầm , lặng lẽ . Phải đến những năm 80 , HIV mới bùng phát dữ dội , và đến nay , số người nhiễm HIV cọng dồn đã xấp xỉ 40 triệu người . Nguyên nhân gì đã tạo ra sự bùng nổ này?. Dưới đây , ta sẽ xem xét một số yếu tố tham gia làm cho HIV lan rộng đột ngột , phần lớn xảy ra vào hậu bán thế kỷ 20 . Du lịchDu lịch quốc nội và quốc tế rõ ràng đã đóng 1 vai trò chính trong sự lây lan ban đầu HIV . Tại Mỹ sự bùng nổ du lịch quốc tế của thanh niên cọng với cuộc "cách mạng" của giới đồng tính vào những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 thế kỷ trứơc đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm virus lây lan nhiều nơi . Tại châu Phi , chắc chắn virus đã đựơc lây lan theo lộ trình của các xe tải đi qua các đô thị và làng mạc tại châu lục này . Tuy nhiên , điều này không có nghĩa là một số vụ dịch bùng phát tại một số nứơc châu Phi hoàn toàn là do ngừơi châu Phi bị nhiễm virus tại chỗ , mà còn do những ngừơi bị nhiễm từ nước ngoài về . Tiến trình lây nhiễm của đại dịch toàn cầu này quá phức tạp , cho nên không thể qui đó là do một người hay một nhóm nào cả .
Những năm đầu của vu dịch ngừơi ta nói nhiều đến 1 người tạm gọi là bệnh nhân Zero , là mấu chốt của 1 « kịch bản lây truyền « phức tạp do Bs William Darrow và các đồng nghiệp tại CDC ( Mỹ ) đề ra . Nghiên cứu dịch tể học của họ chứng minh cách mà 1 bệnh nhân O (sau đó báo chí gọi sai đi thành bệnh nhân Zero ) đã truyền HIV cho nhiều bạn tình, rồi những ngừơi này lại truyền cho ngừơi khác và chẳng bao lâu sau đó làm lây lan virus ra khắp thế giới . Một nhà báo tên Randy Shilts, sau đó viết 1 bài báo dựa trên nghiên cứu của Darrow , và cho biết bệnh nhân Zero đó có tên là Gaetan Dugas, là 1 tiếp viên hàng không ngừơi Canada, là ngừơi có tình dục đồng giới nam. Trong nhiêu năm , Dugas bị coi là người làm lây lan HIV cho hàng loạt ngừơi khác và là ngừơi đầu tiên gây nhiễm HIV trong cọng đồng ngừơi tình dục đồng giới nam . Tuy nhiên, 4 năm sau khi Shilts công bố bài báo, thì Bs . Darrow rút lại nghiên cứu , thừa nhận rằng phương pháp nghiên cứu sai và Shilts đã hiểu sai kết qủa nghiên cứu . Trong khi Gaetan Dugas là 1 nhân vật có thực và sau đó chết vì AIDS , thì bệnh nhân Zero chỉ là 1 câu chuyện đầy huyền hoặc và làm cho nhiều ngừơi sợ hãi . HIV tại Mỹ lúc đầu lây lan trong cọng đồng tình dục đồng giới nam, nhưng thực ra tình trạng này đã xảy ra với qui mô lớn nhiều năm rồi , có lẽ trứơc lúc Dugas làm tiếp viên khá lâu . Sự sử dụng rộng rãi máu và các chế phẩm từ máu .Khi truyền máu đã trở thành 1 kỹ thuật thông dụng trong y học , thì 1 nền công nghệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về máu bắt đầu phát triển nhanh chóng. Tại một số nứơc như nứơc Mỹ , ngừơi cho máu được trả tiền , đây là 1 chính sách khuyến khích kẻ cần tiền bán máu trong số đó có ngừơi tiêm chích ma tuý . Vào thời gian đầu của vụ dịch , các thầy thúôc không biết rằng HIV lây truyền qua đường máu rất dễ dàng và việc cho máu không đựơc sàng lọc kỹ . Máu lấy đựơc , sau đó đựơc gởi đi khắp nơi , và những ai không may mắn nhận được máu bị nhiễm virus sẽ trở thành ngừơi nhiễm HIV . Vào cuối thập niên 1960 , những ngừơi bị bệnh ưa chảy máu (hemophiliac) được điều trị bằng 1 chế phẩm của máu là yếu tố VIII. Tuy nhiên để chế tạo được yếu tố chống chảy máu này , người ta phải lấy máu của hàng ngàn người , trích lấy yếu tố này từ phần huyết tương được « dồn « (pooled) lại . Điều này có nghĩa là chỉ cần 1 đơn vị máu HIV + cũng sẽ làm vấy nhiễm cả 1 lô máu sản xuất yếu tố VIII . Như thế hàng ngàn người bị bệnh ưa chảy máu khắp thế giới có nguy cơ nhiễm HIV , và thực vậy sau đó nhiều ngưòi trong bọn họ đã nhiễm virus . Sử dụng ma túyNhững năm từ 1970 trở đi , giới nghiện ma túy chuyển sang chơi ma túy bằng đừơng tiêm . Hiện nay , có khỏang 10-15 triệu người tiêm chích lén lút trên tòan thế giới , và con số này mỗi ngày càng tăng khi heroin đựơc sản xuất nhiều hơn tại các khu vực như Mexico , Columbia , các nứơc thuộc Liên xô cũ, Afghanistan . Thêm vào đó , sự ra đời của bơm kim tiêm nhựa giá rẻ , sử dụng một lần đã tạo điều kiện cho ngừơi nghiện ma túy tiêm chích dễ dàng tại các tụ điểm tiêm chích , tạo ra một phương thức lây truyền mới phổ biến tại nhiều nứơc nhất là những nứơc tại vùng Đông nam Á.
Tài liệu tham khảo :- Barin F : Diversitédu VIH origine, évolution, conséquences . XIIe Actualités du Pharo. -Chitnis A. et als : Origin of HIV Type 1 in Colonial French Equatorial Africa? AIDS Research and Human Retroviruses 16(1): 5-8 . -Hodgkinson N. :Origin of the specious. Continuum Sept./Oct. 1996 . -Katrak S. M. : The origin of HIV and AIDS: An enigma of evolution . Annals of Indian Academy of Neurology Year: 2006 Vol: 9 Issue 1. - Lemey P. et als. Tracing the origin and history of the HIV-2 epidemic .PNAS /May 27, 2003 / vol. 100/ no. 11 / 6587 -92 . -Marx Preston A. : Unsolved Questions over the Origin of HIV and AIDS . ASM News : Volume 71, Number 1, 2005 . - Rambaut Andrew et als :The causes and consequences of hiv evolution .Nature. N .54 /January 2004 / volume 5 . -Ruaridh N.:AIDS: A Man-Made Disaster?F riday, 23 June 2000 The Scotsman, 24 June 2000, Magazine pp. 16-21. -Ruaridh N. :AIDS: A Man-Made Disaster?Generated: 20 June, 2007, 04:06 .aidsorigins.com. - Sharp P. et als: Origins and Evolution of AIDS Viruses .Biol. Bull. 196: 338-342. (June 1999).-Telenti A. : Adaptation, co-evolution , and human susceptibility to HIV -1 infection . Cloëtta Foundation . -Weiss R. A. :HIV and AIDS in relation to other pandemics . EMBO reports 4, S1, S10–S14 (2003) . -Weiss R. A :Origin of hiv and emerging persistent viruses .Conferenza annuale della Ricerca (Roma 28-29 settembre 2001) .- Wikipedia, the free encyclopedia: AIDS conspiracy theories . © http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Võ Văn Lượng |