History of Battleships From Dreadnought to
Yamato War
- Phim tài liệu
Cho tới giữa thế kỷ
XIX, người ta đóng tàu chiến bằng gỗ vì đặc tính cơ học của vật liệu này.
Một quả đạn đại bác chỉ có thể làm thủng một tấm gỗ chứ không làm hư hại gì
thêm nữa. Nhưng, một quả bích kích nổ sẽ tàn phá một diện tích lớn của tấm
gỗ. Khi những loại đạn dược này được phổ biến thì người ta phải bọc vỏ tàu
những chiến hạm bằng một lớp sắt.
Nhờ ngành luyện kim
tăng trưởng, các xưởng hải quân có thể đóng những tàu chiến vỏ toàn bằng
thép gọi là thiết giáp hạm (battleship) và các xưởng vũ khí có thể rèn những
cỗ pháo cỡ nòng rất lớn. Khả năng này sinh ra cuộc thi đua vũ trang giữa hải
quân các cường quốc : mạnh ai nấy đóng những tàu với vỏ bọc thép dày nhất
được trang bị bởi những cỗ pháo lớn nhất.
Vào cuối thê kỷ XIX
một chiến hạm lớn tiêu biểu là một chiếc tàu vỏ bằng thép, nặng 15.000 đến
20.000 tấn, có một số lò hơi chạy bằng than cung cấp lực cho một động cơ hơi
với công suất 10.000/20.000 mã lực. Về vũ khí thì mỗi tàu có hai cỗ pháo,
một ở mũi, một ở đuôi tàu, mỗi cỗ có hai khẩu đại bác 10/12" (254/305 mm),
một chục đại bác 4"/6" (101/152 mm) đặt ở những ụ dọc hông tàu, vài chục
súng cỡ nhỏ khác rải rác trên boong tàu và bốn tới sáu ống phóng ngư lôi
400/500 mm.
Các chiến hạm loại này
là những tàu chiến lớn nhất của thời đó. Chúng được gọi là pre–Dreadnought
vì thuộc thế hệ tàu được đóng trước những chiến hạm loại Dreadnought.
Dreadnought là tên chiến hạm Anh đầu tiên được đóng theo những quy tắc này.
Đầu thế kỷ XX, các
chiến hạm loại Dreadnought là một cách mạng công nghệ của ngành đóng tàu
chiến. Rút kinh nghiệm trận hải chiến Tsushima năm 1904, tất cả các tàu Nga
đều bị tàu Nhật bắn chìm từ xa, hải quân các cường quốc phải có đại bác lớn
có tầm bắn xa. Để tiện việc quản lý đạn dược, những cỗ pháo chính chỉ có một
cỡ nòng duy nhất. Đó là khái niệm gọi là "all big gun" (chỉ có súng lớn
thôi). Máy của tàu là tuabin hơi chứ không còn là động cơ hơi luân phiên
nữa. Chất đốt của các lò hơi mau chóng chuyển từ than sang dầu. Về vũ khí
chính thì nòng tối thiểu là 12" (305 mm). Chiến hạm có thêm vài súng phụ để
chống tàu phóng ngư lôi. Nhưng sau Đệ nhất Thế chiến thì những súng này cũng
dùng để phòng không.
Trong cuộc thi đua vũ
khí giữa hai Thế chiến, tiến bộ của ngành cơ khí luyện kim cho phép các
cường quốc quân sự đóng những chiến hạm gọi là super–Dreadnought mỗi ngày
mỗi lớn, nặng tới 45.000 tấn, với hỏa lực mỗi ngày mỗi mạnh, nòng súng lên
tới 16/18" (406/456 mm).
Những đại bác có tầm
bắn tối đa 30/40 km. Khi phi cơ chiến đấu được thông dụng thì người ta xây
những hàng không mẫu hạm để có thể tấn công tàu địch ở xa hơn nữa. Cũng như
những chiến hạm loại Dreadnought, sau Đệ nhị Thế chiến, các hàng không mẫu
hạm lợi dụng tiến bộ công nghiệp để trở thành những khổng lồ nặng tới
100.000 tấn, chở 100 phi cơ và chạy bằng lò hơi hạt nhân.
Sử sách ghi lại rất ít
hải chiến giữa các siêu chiến hạm : trận Tsushima năm 1904 giữa những
pre–Dreadnought Nhật và Nga, trận Jutland năm 1916 giữa những Dreadnought
Anh và Đức, ở Bắc Đại Tây Dương năm 1941 giữa hai super–Dreadnought, tàu
Bismark của Đức và tàu Hood của Anh và các trận Midway năm 1942 và Leyte năm
1944 giữa các hàng không mẫu hạm Nhật và Hoa Kỳ. Lý do chính là những siêu
chiến hạm quá nặng và quá đắt nên các bộ tư lệnh hải quân không dám cho
chúng ra khơi nghênh chiến một đối thủ cùng hạng.
Trong thời chiến,
người ta dùng các siêu chiến hạm để
– tấn công những tàu
có hỏa lực kém hơn hay ở vị trí yếu : chiến tranh Nhật–Trung năm 1894–1895,
chiến tranh Hoa Kỳ–Tây Ba Nha năm 1898, chiến dịch Guadalcanal năm 1942,...
– yểm trợ bộ binh trên
đất liền hay đang đổ bộ : cuộc đổ bộ lên đảo Iwo Jima năm 1945, cuộc đổ bộ
lên cảng Incheon năm 1950, chiến hạm New Jersey trong chiến tranh Việt–Mỹ
những năm 1960–70,...
– uy hiếp những nước
nhược tiểu (gọi là chính sách pháo hạm ngoại giao) : cuối thế kỷ XIX, Trung
Quốc đã phải ký nhiều hiệp ước không công bằng dưới sự đe dọa của chiến hạm
ngoại quốc,...
– phong tỏa những hải
cảng và tuyến hằng hải địch : sau trận Jutland năm 1916 hải quân Anh đã ngăn
cản các chiến hạm Đức ra khỏi biển Baltique để tấn công những đoàn tàu tiếp
tế ở Đại Tây Dương, trong chiến tranh Việt–Mỹ những năm 1960–70 các tàu
không số Việt Nam đã phải chơi những "trò mèo vờn chuột" để tiếp viện miền
Nam,...
Trong thời bình thì
những siêu chiến hạm dùng để
– phụ trợ chính sách
bang giao quốc tế : thủy binh Mỹ mời đồng nghiệp Việt Nam đến thăm hàng
không mẫu hạm George Washington để bầy tỏ thiện cảm của Hoa Kỳ đối với chúng
ta, khi Trung Quốc gây hấn ở eo biển Đài Loan thì Hoa Kỳ cử đệ thất hạm đội
đến đó để trấn an chính phủ Cộng Hòa Trung Hoa,...
– giương
oai diễu võ : trước Đệ
nhất Thế chiến và cả tới vài tháng trước khi Thế chiến bùng nổ tàu chiến hai
nước Anh và Đức thường gặp nhau để ướm sức nhau, Trung Quốc chưa trang bị
xong một chiếc hàng không mẫu hạm cũ là đã lên tiếng đe dọa cả thế giới,...
Nhìn chung thì những
siêu chiến hạm chỉ có công dụng hỗ trợ một chiến lược bá chủ đại dương trên
quy mô toàn cầu. Chiến lược này do binh sư đề đốc Mỹ, Alfred Mahan, phát
biểu. Trước thế kỷ XX, nước Anh là nước giữ vai trò bá chủ này. Sau Đệ nhất
Thế chiến thì tới phiên Hoa Kỳ. Sang tới thế kỷ XXI, Trung Quốc tỏ ý muốn
giành vai trò này. Theo học thuyết của Mahan thì phải có thể trấn áp đối thủ
ở mọi nơi trên thế giới và có khả năng tiêu diệt toàn bộ hải quân địch trong
một trận quyết liệt (conclusive battle). Để thực hiện ý đồ này thì phải có
một hạm đội có khả năng chiến đấu rất xa căn cứ gồm bởi một hay hai siêu
chiến hạm (bây giờ là hàng không mẫu hạm) với một số khu trục hạm, hộ tống
hạm, tàu ngầm và tàu phụ trợ.
Vì lý do kỹ thuật, một
tàu biển chỉ có thể vận hành liên tục tối đa hai tháng. Vậy, để gây áp lực
liên tục ở một nơi nào đó thì phải có số tàu tương đương với ba hạm đội cơ
bản kể trên : một tàu có mặt ở hiện trường, một đang về căn cứ để được bảo
trì và một đang tới hiện trường để đổi phiên. Một nước như Trung Quốc, với
ba vùng hải quân chiến lược, phải có ít nhất chín hàng không mẫu hạm và hai
trăm hộ tống hạm thì mới có thể đọ trán được với Hoa Kỳ ở mạn Tây Thái Bình
Dương.
Một nước nhỏ chỉ muốn
bảo vệ hay giành lại lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của mình thì chỉ cần
đến vài khu trục hạm, vài tàu ngầm, một số lớn pháo hạm bắn hỏa tiễn và một
hai phi đội khu trục cơ. Điều quan trọng là những quân khí này phải thuộc
loại hiện đại nhất. Ngoài ra, nếu có chiến tranh thì có thể trang bị đại bác
và súng cao xạ những tàu đánh cá và tàu chở hàng để người dân có thể tự vệ.
Chiến lược chiến tranh nhân dân trên biển này đã được Anh Quốc áp dụng có
hiệu quả trong hai Thế chiến của thế kỷ trước. Chúng tôi không dám khai
triển thêm : tướng Võ Nguyên Giáp và các lão tướng Việt Nam khác đã viết
nhiều về chiến tranh nhân dân rồi.
|