Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
|
Cuồng
thảo của
Trương
Húc đời
Đường |
Thư pháp
書
法
là nghệ
thuật viết
chữ của
người Trung
Quốc với các
công cụ gọi
là
văn phòng tứ
bảo
文
房
四
寶(bút,
nghiên,
giấy, mực).
Người Trung
Quốc thường
nói:
«Học tập thư
pháp khả dĩ
tu thân,
dưỡng tính,
đào dã tâm
tình.»
學習書法可以修身養性陶冶心情
(học tập thư
pháp có thể
tu thân
dưỡng tính,
uốn nắn tình
cảm).
Với
quan niệm
này, thư
pháp cũng là
Đạo (Thư
pháp giả,
Đạo dã)
書
法者道也.
Người Nhật
từ thuở tiếp
thu văn hóa
Hán đã nhận
ra giá trị
cao nhã của
thư pháp nên
gọi tên là
thư đạo
書道
(shōdō).
Không những
thế, sự
nghiên tập
thư pháp từ
đời Hán đến
nay đã trở
thành môn
học hẳn hoi
với đầy đủ
cơ sở lý
luận gọi là
thư học
書學.
Nói đến thư
pháp là nói
đến khổ
luyện. Người
Trung Quốc
thường bảo:
«Học
thư vô nhật
bất lâm
trì.»
學書無日不臨池
(Học thư
pháp chẳng
ngày nào mà
không «vào
ao»). Thuật
ngữ
lâm trì
ý nói công
phu khổ
luyện thư
pháp. Thư
gia Trương
Chi
張芝
đời Đông Hán
mỗi ngày
luyện viết
xong thì rửa
bút ở ao,
lâu ngày
nước đen như
mực (Lâm
trì học thư,
trì thủy tận
mặc)
臨池學書池水盡墨.
Thuật ngữ
lâm trì bắt
nguồn từ đó.
Thời của
Trương Chi,
giấy chưa
phổ biến,
luyện chữ
chỉ có thể
viết trên tơ
lụa. Ông tận
dụng tất cả
vải lụa
trong nhà,
khi không
thể viết
thêm được
nữa thì đem
nhuộm và may
y phục. Giới
nghiên cứu
Trung Quốc
tổng kết
rằng các đại
thư gia
thường phải
mất vài chục
năm lâm trì
mới thành
danh. Vì bái
phục công
phu lâm trì
của Trương
Chi (đời
Hán) nên
Vương Hi Chi
王羲之(đời
Tấn) đã bỏ
ra 15 năm
luyện chữ,
bắt đầu từ
chữ
vĩnh
永
(mãi
mãi). Chữ
vĩnh bao
quát tám nét
cơ bản của
chữ Hán (gọi
là
vĩnh tự bát
pháp
永字八法
) và là bài
tập nền tảng
cho người
mới học thư
pháp. Nhưng
vĩnh tự bát
pháp
chính thức
được nghiên
cứu có qui
củ kể từ nhà
sư Thích Trí
Vĩnh
釋智永
(tục gọi
Vĩnh thiền
sư) đời Tuỳ.
Vị cháu bảy
đời này của
Vương Hi Chi
cũng là một
tấm gương
khổ luyện
thư pháp.
Ông tu ở
chùa Vĩnh
Hân
永欣,
huyện Ngô
Hưng
吳興.
Ông lên lầu
chùa rồi
không xuống,
ở đó 40 năm
khổ luyện
thư pháp (Đăng
lâu bất hạ
tứ thập niên
登樓不下四十年).
Bút cùn (thoái
bút
退筆)
vất thành
gò. Khi ông
thành danh,
người người
đến xin chữ
khiến ngạch
cửa bị dẫm
nát, phải
lấy sắt lá
bao lại (gọi
là
thiết môn
hạn
鐵門限).
Nhà sư Hoài
Tố
懷素
đời Đường
thuở hoa
niên nhà
nghèo không
tiền mua
giấy, chỉ
khổ luyện
trên lá
chuối mà
thành danh
thảo thánh
草聖.
Vương Hiến
Chi
王獻之
thuở nhỏ
luyện chữ đã
gánh nước đổ
đầy 18 chum
để làm nước
mài mực. Nhờ
thế mà thành
danh. Hai
cha con
Vương Hi Chi
và Vương
Hiến Chi
được đời
xưng tụng là
Thảo thánh
nhị Vương
草聖二王.
Chữ thảo của
họ trở thành
khuôn mẫu
cho thế nhân
nghiên tập
từ đời Tấn
đến nay.
Thư thể Sấu
Kim đặc
trưng của
Triệu Cát
(tức vua
Tống Huy
Tông)
|
Chữ thảo
của
Vương Hi
Chi |
|
Chữ khải
của
Liễu
Công
Quyền |
|
Chữ khải
của Nhan
Chân
Khanh |
Những người
say đắm thư
pháp nhiều
vô kể. Mỗi
một đời đều
có một số
đại thư gia,
từ vua chúa
đến sĩ dân.
Đường Thái
Tông
唐太宗
(Lý Thế Dân
李世民)
lúc rỗi lấy
ngón tay
viết chữ
trong không
khí (trừu
không luyện
tự
抽空練字);
nửa đêm tốc
dậy thắp
đuốc luyện
Lan Đình
蘭亭
(mặc tích
của Vương Hi
Chi).
Lương Vũ Đế
梁武帝
cực kỳ hâm
mộ mặc tích
của họ
Vương, cho
người đi sưu
tầm tất cả
tác phẩm của
Vương Hi
Chi, truyền
lệnh cho mọi
người trong
cung phủ
phải lấy các
thư thể của
họ Vương làm
chuẩn, rồi
sai Chu Hưng
Tự
周興嗣
soạn Thiên
Tự Văn
千字文
và cho người
mô phỏng bốn
thư thể
chân, thảo,
lệ, triện
của họ
Vương mà
chép Thiên
Tự Văn để
dạy chữ Hán
và thư pháp
cho các con
em trong
cung phủ.
Chu Hưng Tự
là văn quan
kỳ tài, chỉ
dùng 1000
chữ Hán cơ
bản viết
thành từng
câu bốn chữ
(không chữ
nào lập lại)
mà giảng
giải được
mọi lý lẽ
trên đời.
Tác phẩm nổi
tiếng này
không chỉ là
sách giáo
khoa
khải mông
(dạy trẻ) từ
đời Lương
đến đời
Thanh mà còn
là bí kíp
rèn luyện
thư pháp cực
kỳ quan
trọng cho
đến ngày
nay. Trí
Vĩnh thiền
sư sao chép
800 bản
Thiên Tự Văn
theo chữ
hành và
chữ
thảo phổ
biến cho các
tự viện. Các
thư gia đều
có bản Thiên
Tự Văn với
thư thể của
riêng mình,
như Âu Dương
Tuân
歐陽詢
đời Đường,
Triệu Mạnh
Phủ
趙孟頫
đời Nguyên,
v.v... cho
đến các thư
pháp gia
Trung Quốc
hiện đại.
Lịch sử phát
triển của
thư pháp
xuôi theo
lịch sử phát
triển của
chữ Hán. Các
thư gia
Trung Quốc
nhiều vô kể,
mỗi người
chuyên trị
một thư thể,
có người vừa
là thư gia
vừa là họa
gia; nếu
liệt kê đầy
đủ phải là
một danh
sách dài
dằng dặc. Ta
chỉ có thể
kể những đại
thư gia tiêu
biểu nhất
của từng
đời.
Bắt đầu từ
đời Tần Thủy
Hoàng Đế
秦始皇帝
có thừa
tướng Lý Tư
李斯
(người thống
nhất văn tự
Trung Quốc,
được
thư pháp sử
書法史
kể là đệ
nhất thư
pháp gia),
Triệu Cao
趙高
, Hồ Mẫu
Kính
胡母敬
,...
Đời Hán có
các thư gia
Sử Du
史游
, Tào Hỉ
曹喜,
Thôi Viện
崔瑗
, Trương Chi
張芝,
Sái Ung
蔡邕,
Lương Hộc
梁鵠,
Lưu Đức
Thăng
劉德升,...
Đời Tam Quốc
và Tây Tấn
có Hàm Đan
Thuần
邯鄲淳,
Vỹ Đản
偉誕,
Chung Diêu
鐘繇,
Hoàng Tượng
皇象,
Vệ Ký
衛覬,
Vệ Cẩn
衛瑾
(con Vệ Ký),
anh em Vệ
Hằng
衛恆-
Vệ Tuyên
衛宣
- Vệ Đình
衛庭
(các con của
Vệ Cẩn), Tố
Tĩnh
素靖
(cháu gọi
Trương Chi
là cậu), Lục
Cơ
陸機,...
Đời Đông Tấn
có gia đình
Vương Hi Chi
王羲之
với các con
Vương Hiến
Chi
王獻之,
Vương Tuần
王珣
, Vương Dân
王民.
Đời Nam Bắc
Triều có Bạc
Thiệu Chi
薄紹之,
Vương Tăng
Kiền
王僧虔,
Đào Hoằng
Cảnh
陶弘景
(cũng là Đạo
gia), Trịnh
Đạo Chiêu
鄭道昭,
Triệu Văn
Thâm
趙文深,
Vương Bao
王褒
, ...
Đời Tùy và
Đường là
thời kỳ đỉnh
thịnh của
thư pháp với
các thư gia
Trí Vĩnh
智永
(thiền sư
Thích Trí
Vĩnh), Thích
Trí Quả
釋智果,
Đinh Đạo Hộ
丁道護,
Âu Dương
Tuân
歐陽詢,
Ngu Thế Nam
虞世南,
Chử Toại
Lương
褚遂良,
Lục Giản Chi
陸柬之,
Lý Thế Dân
李世民
(Đường Thái
Tông
唐太宗),
Vũ Tắc Thiên
武則天
(vốn là tài
nhân của
Thái Tông,
về sau bà
lên ngôi
xưng là Đại
Thánh Hoàng
Đế
大聖皇帝,
thư pháp
chuyên về
hành thư),
Tiết Tắc
薛稷,
Tôn Kiền Lễ
孫虔禮,
Kính Khách
敬客,
Hạ Tri
Chương
賀知章,
Lý Ung
李邕,
Trương Húc
張旭,
Hàn Trạch
Mộc
韓擇木,
Trương Hoài
Cẩn
張懷瑾,
Nhan Chân
Khanh
顏真卿,
Hoài Tố
懷素,
Từ Hạo
徐浩,
Lý Dương
Băng
李陽冰,
Liễu Công
Quyền
柳公權,
Đỗ Mục
杜牧,
Cao Nhàn
高閑,
...
Cuồng thảo
của
Hoài Tố
懷素
Đời Ngũ Đại
có Dương
Ngưng Thức
楊凝式,
Từ Huyễn
徐鉉,
...
Đời Tống có
Lý Kiến
Trung
李建中,
Vương An
Thạch
王安石,
tứ gia
Tô-Hoàng-Mễ-Sái
(tức là Tô
Thức
蘇軾,
Hoàng Đình
Kiên
黃庭堅,
Mễ Phế
[Phất]
米芾,
Sái Tương
蔡襄),
Tiết Thiệu
Chương
薛紹彰,
Triệu Cát
趙佶
(tức là vua
Tống Huy
Tông
宋徽宗,
với thư thể
đặc thù là
sấu kim thể
瘦金體),
Nhạc Phi
岳飛,
Lục Du
陸游,
Khương Quỳ
姜夔,
Trương Tức
Chi
張即之,
Vương Đình
Quân
王庭筠,
...
Đời Nguyên
có Triệu
Mạnh Phủ
趙孟頫
(Tùng Tuyết
Đạo Nhân
松雪道人),
Tiên Vu Khu
鮮于樞,
Khang Lý Quỳ
Quỳ
康里夔夔
(gốc Mông
Cổ), Thái
Bất Hoa
泰不華,
Nghê Tán
倪瓚,
...
Đời Minh có
Tống Liêm
宋濂,
Tống Toại
宋璲
(con Tống
Liêm), Tống
Khắc
宋克,
Tống Quảng
宋廣,
Du Hòa
俞和,
Giải Tấn
解縉,
Thẩm Độ
沈度,
Trình Nam
Vân
程南雲,
Trần Hiến
Chương
陳獻章,
Thẩm Chu
沈周,
Chúc Duẫn
Minh
祝允明,
Văn Trưng
Minh
文徵明,
Văn Bành
文彭
(con Văn
Trưng Minh),
Lý Đông
Dương
李東陽,
Vương Sủng
王寵,
Trần Thuần
陳淳,
Vương Trĩ
Đăng
王稚登,
Từ Vị
徐渭,
Đổng Kỳ
Xương
董其昌,
Hình Đồng
邢侗,
Trương Thụy
Đồ
張瑞圖,
Hoàng Đạo
Chu
黃道周,
Nghê Nguyên
Lộ
倪元璐,
...
Đời Thanh có
Phó Sơn
傅山,
Vương Đạc
王鐸,
Kim Nông
金農,
Trương Chiếu
張照,
Trịnh Tiếp
鄭燮,
Lưu Dung
劉墉,
Vương Văn
Trị
王文治,
Vương Thời
Mẫn
王時敏,
Chu Đáp
朱耷
(Bát Đại Sơn
Nhân
八大山人),
Trịnh Phủ
鄭簠,
Đát Trọng
Quang
笪重光,
Trần Diệc Hi
陳亦禧,
Ông Phương
Cương
翁方綱,
Thiết Bảo
鐵保,
Quế Phức
桂馥,
Tiền Điếm
錢坫,
Tiền Phong
錢灃,
Đặng Thạch
Như
鄧石如,
Y Bỉnh Thụ
伊秉綬,
Bao Thế Thần
包世臣,
Hà Thiệu Cơ
何紹基,
Triệu Chi
Khiêm
趙之謙,
Ngô Xương
Thạc
吳昌碩,
Lý Thụy
Thanh
李瑞清,
Ông Đồng Hòa
翁同龢,
Trương Dụ
Chiêu
張裕釗,
Khang Hữu Vi
康有為,
Tề Bạch
Thạch
齊白石,
Trịnh Bản
Kiều
鄭板橋,...
|
Xích
Bích Phú
(của Tô
Đông
Pha)
với thư
pháp
Triệu
Mạnh Phủ
đời
Nguyên
|
Các thư gia
hiện đại có
Trịnh Văn
Trác
鄭文焯,
Tăng Hi
曾熙,
Hoàng Tân
Hồng
黃賓虹,
Vu Hữu Nhiệm
于右任,
Mã Nhất Phù
馬一浮,
Hoằng Nhất
Pháp Sư
弘一法師,
Hồ Tiểu
Thạch
胡小石,
Lỗ Tấn
魯迅,
Đặng Tán Mộc
鄧散木,
Quách Mạt
Nhược
郭末若,
v.v. (Trong
khuôn khổ
bài viết này
chỉ có thể
kể tên các
thư gia hết
sức sơ lược
như trên).
Trong cộng
đồng người
Hoa tại Chợ
Lớn hiện nay
họa gia thì
nhiều nhưng
thư gia thì
hiếm. Tiêu
biểu là nhóm
Nam Tú Nghệ
Uyển
南秀藝苑
do lão sư Lý
Tùng Niên
李松年
và thân hữu
sáng lập mùa
xuân năm
1989. Thư
họa gia họ
Lý năm nay
(1999) được
67 tuổi,
sinh tại
huyện Hạc
Sơn
鶴山,
tỉnh Quảng
Đông. Thuở
nhỏ theo họa
pháp Tây
phương, lúc
trưởng thành
học hàm thụ
thủy mặc tại
Đại Hán Nghệ
Thuật Học
Viện
大漢藝術學院
ở Hương
Cảng. Năm
1961, ông
thụ giáo
danh họa gia
Lương Thiếu
Hàng
梁少航
thuộc họa
phái Lĩnh
Nam
嶺南.
Hoạ phái này
do Cao Kiếm
Phụ
高劍父
sáng lập sau
khi ông du
học tại Nhật
Bản. Hoạ
phái này chủ
trương phối
hợp họa pháp
Tây phương
với Trung
Quốc hoạ,
với các danh
gia Cao Kiếm
Phụ, Cao Kỳ
Phong
高奇峰,
Trần Thụ
Nhân
陳樹人,
Triệu Thiếu
Ngang
趙少昂
v.v... Về
thư pháp,
lão sư Lý
Tùng Niên sở
trường
thảo thư
và
hành thư.
Thảo thư của
Lý lão sư
chịu ảnh
hưởng thảo
thư của đại
thư gia Vu
Hữu Nhiệm
于右任
(1879-1961).
Hiện nay Vu
Hữu Nhiệm
được Trung
Quốc coi là
thảo thánh;
năm 1932
ông đề xướng
tiêu chuẩn
hoá thảo
thư, cống
hiến rất lớn
cho lịch sử
thư pháp
Trung Quốc.
Trong nhóm
Nam Tú còn
có thư họa
gia Quan
Cường
關強
(tức Quan
Tồn Chí
關存志).
Quan lão sư
sinh năm
1932 tại
huyện Nam
Hải
南海
tỉnh Quảng
Đông. Về hội
họa ông
thành thạo
thủy mặc,
sơn dầu Tây
phương,
thiết kế,
trang trí
sân khấu, đã
từng dạy hội
họa tại
trường Huỳnh
Kiến Hoa
黃建華
năm 1976. Về
thư pháp
Quan lão sư
sở trường
khải thư, lệ
thư và
hành thư,
nét bút hồn
hậu chân
chất. Chữ lệ
của ông chịu
ảnh hưởng
Triệu Chi
Khiêm
趙之謙
đời Thanh,
chữ khải
chịu ảnh
hưởng Nhan
Chân Khanh
và Liễu Công
Quyền đời
Đường, còn
chữ hành là
do ông tự
tạo phong
cách riêng.
Trong nhóm
Nam Tú thuở
ban đầu còn
có thư họa
gia Vương
Trung Phu
王中孚
nay định cư
ở nước
ngoài. Vương
lão sư bút
pháp rắn rỏi
sắc sảo chịu
ảnh hưởng
Nhan Chân
Khanh sâu
đậm, ngoài
ra ông và Lý
lão sư cũng
sở trường về
khắc ấn
triện. Họa
gia Trương
Lộ
張露
(sinh năm
1952 tại
Saigon) của
nhóm Nam Tú
còn đặc trị
triện thư
và
ngụy bi.
Họa gia
Hoàng Hiến
Bình
黃獻平
cũng thạo
hành thư
và
thảo thư.
Các thư họa
gia Lý Tùng
Niên, Quan
Cường, Vương
Trung Phu đã
tổ chức
nhiều lớp
thư pháp và
hội họa, tận
tâm truyền
dạy thư họa
cho cả người
Hoa và người
Việt. Hiện
nay nhóm Nam
Tú Nghệ Uyển
hoạt động
không sôi
nổi như xưa.
Đáng tiếc
trong một
cộng đồng
người Hoa
lớn như vậy
số người học
thư pháp
không nhiều,
có lẽ vì bộ
môn này đòi
hỏi nhiều
khổ luyện
hay chăng?
Tuy vậy thư
họa gia Quan
Cường vẫn
còn nhiệt
tâm truyền
dạy thư pháp
và hội họa
cho một nhóm
môn đệ tại
tư gia của
ông.
|
|
Thọ Xuân
Đường Ký
(thư
pháp
Triệu
Mạnh Phủ)
|
Chữ TINH
精
(thư
pháp
Nhạc Phi) |
Việc học thư
pháp xưa nay
khởi đầu
bằng khải
thư, khi
thuần thục
mới chuyển
sang hành
thư và thảo
thư hoặc
triện thư.
Thời kỳ đỉnh
thịnh của
khải thư là
đời Đường,
nổi bật nhất
là các đại
thư gia Nhan
Chân Khanh
顏真卿,
Âu Dương
Tuân
歐陽詢
và Liễu Công
Quyền
柳公權.
Đến đời
Nguyên thì
có thêm
Triệu Mạnh
Phủ
趙孟頫.
Họ tạo thành
bốn phong
cách khải
thư mô phạm
từ đời Đường
cho đến nay,
gọi là Nhan
thể
顏體,
Âu thể
歐體
, Liễu thể
柳體
, Triệu thể
趙體.
Nhan thể mộc
mạc mạnh mẽ,
Âu thể thanh
tú trang
nghiêm, Liễu
thể cứng cỏi
quật cường,
Triệu thể
yểu điệu
kiều lệ.
Người học
thư pháp tùy
theo sở
thích và cá
tính của
mình mà bắt
đầu từ một
trong bốn
phong cách
này. Người
học thư pháp
luôn cần có
thầy, không
thể nào tự
học được,
phải chứng
kiến kỹ pháp
của thầy mới
lĩnh hội
được bút ý,
có những kỹ
pháp cần
giảng giải
trực quan
không thể
nào đọc sách
mà hiểu. Vai
trò của thầy
rất quan
trọng:
phá mê
破迷
và
giải hoặc
解惑
. Người mới
học thường
có ảo tưởng
về nét bút
của mình,
người thầy
phải chỉ ra
những nét
sai (gọi là
tự
bệnh
字病)
của họ, đó
là
phá mê.
Giảng cho họ
những điều
chưa thông
suốt hay
hoài nghi,
đó là
giải hoặc.
Nhiều học
viên quá nôn
nóng, muốn
đốt giai
đoạn nên bắt
đầu tự học
hành thư và
thảo thư.
Hậu quả tai
hại là nét
bút không có
gân cốt,
muốn quay về
luyện khải
thư thì cũng
khó: nét bút
đã thành
bệnh tật.
Thế hệ nhà
Nho tiền bối
của Việt Nam
có rất nhiều
vị thư pháp
rất đẹp như
Phan Thanh
Giản, Phan
Bội Châu,
Huỳnh Thúc
Kháng,
Nguyễn Long
Cát, v.v...
Nhưng giới
nghiên cứu
Hán Nôm chưa
có ai quan
tâm nghiên
cứu về mảng
thư pháp
trong di sản
Hán Nôm của
tổ tiên để
lại, thật là
đáng tiếc.
Hiện nay ở
Việt Nam, cụ
Lê Xuân Hòa
là thư gia
rất nổi
tiếng khắp
trong và
ngoài nước.
Thư pháp là
một đề tài
rất rộng
không thể
nào gói ghém
trong một
hai trang
giấy, thành
thử bài viết
này chỉ là
tản mạn đôi
nét khái
quát về một
môn nghệ
thuật tao
nhã của
Trung Quốc
mà thôi.●
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12] |
© http://vietsciences.free.fr , http://vietsciences.org
và http://vietsciences2.free.fr Lê
Anh Minh |