Thời
đồ đá là một thuật ngữ thông dụng khác để
chỉ thời tiền sử. Người ta phân biệt đồ đá cũ paléolithique
(chia ra thành hạ kỳ inférieur từ - 4
triệu năm đến -2 triệu năm, trung kỳ moyen
từ - 150 000 năm và thượng kỳ supérieur từ
- 40 000 năm) ; sau tới thời đồ đá giữa từ -10 000
năm ; rồi thời đồ đá mới từ -6000 đến - 4000.
Những con số thay đổi tuỳ nơi khảo sát, vì các
thời kỳ đó được xác định bởi các kỹ thuật làm công
cụ đá khác nhau, cùng với những thay đổi khác
trong sinh hoạt, chứ không bằng những mốc thời
gian tuyệt đối nào đó.
Người Neandertal đưa ma
: hình vẽ trong động đá tại Namibie ; theo [1]
Loài người
:
Nhưng trước hết : loài
người bắt đầu từ bao giờ, tại sao gọi loài người ?
Thuật ngữ sinh học Pháp/Anh có hai chữ genre
và espèce / (genus, specie) mà từ
điển Việt Nam đều gọi là loài, trong đời
thường ở Âu Mỹ người ta cũng nhập nhằng như vậy.
Nhưng ở đây xin tạm đề nghị dịch genre là
loài, và espèce là giống, để
phân biệt rõ : giống là một nhánh của
loài (và loài dĩ nhiên còn là nhánh của một
thứ khác... và có thể lên cao nữa trong một cấu
trúc dạng cây của việc phân loại sinh vật). Người
ta dùng một tiêu chuẩn quan trọng để chia giống,
bên cạnh những tiêu chuẩn khác về hình dạng, về
cấu trúc... đó là tiêu chuẩn " khả năng có thể
cùng nhau sinh sản ", tạm dịch là tiêu chuẩn
cộng sinh sản (interfécondité). Không đạt điều
ấy tức là khác giống, mặc dầu có thể cùng loài.
Tới đây không thể không
xin ra ngoài đề một đoạn : giống lại có thể chia
nhánh thành chủng loại (race). Có thể có nhiều
chủng loại khác nhau trong cùng một giống sinh vật
; và, vì khả năng cộng sinh sản, người ta có thể
lai tạo các chủng loại để thành một chủng loại mới
nếu thành công. Đó là với các sinh vật khác con
người, chỉ có thể xác định chủng loại bằng ngoại
hình. Với giống người thì khác, thứ nhất là nếu
tính từ vài nghìn năm trước trở lại đây thiø chúng
ta đều là con lai của các cuộc di dân khắp địa
cầu. Thứ hai là nếu lấy ngoại hình để " nội suy "
ra những giá trị tự tại của chủng tộc, như Đức
Quốc Xã đã làm, thì lịch sử cận đại đã chứng tỏ đó
là điều dã man, phản khoa học và vô văn hoá nhất.
Có thể miễn cưỡng định nghĩa các chủng tộc trong
giống người bằng ngoại hình, nhưng điều đó hoàn
toàn vô ý nghĩa so với tầm quan trọng của khả
năng tư duy tự tại, mà cho đến nay không có gì
cho phép so sánh hơn kém giữa các dân tộc (1).
Trở lại loài người và các
giống người. Câu hỏi : khi nào gọi là bắt đầu có
loài người ? là một câu hỏi không dễ trả lời, nó
tuỳ thuộc việc xác định thế nào là tiêu chuẩn phân
biệt loài người và các loài khác, đặc biệt là loài
khỉ - vượn... và ở đây lại chỉ có thể phân biệt
bằng hình thức vật chất bề ngoài. Dễ hiểu tại sao
chủ đề này gây bàn cãi sôi nổi, và sách vở báo chí
nói đến rất nhiều, cho nên có lẽ ở đây chỉ nên tóm
tắt những điều được đa số chấp nhận, nói chung có
ít nhiều ước lệ, dựa trên một số định nghĩa tiên
thiên a priori có phần võ đoán, và dựa trên
những kết quả của ngành khảo cổ - nhân chủng
học... với một số tương đối nhỏ những hiện vật
khảo cổ, nhiều khi quá nhỏ để đem lại được một xác
xuất đủ tin cậy cho việc phân loại và định hiønh.
Nhiều khi chỉ một phát hiện mới có thể đánh đổ cả
một giả thuyết đã được đa số công nhận trong vòng
hàng chục năm, xem thí dụ [6]. Tuy nhiên càng gần
chúng ta thì hiện vật càng nhiều và độ tin cậy của
những giả thuyết và suy đoán càng cao. Những hiểu
biết hiện đại về thời đồ đá giữa thiø đã chính xác
lắm rồi, vì hiện vật khảo cổ rất nhiều. Trước đó
thiø để xác định một giống người có khi người ta
chỉ dựa trên hai ba bộ xương.
Các giống
người
Hiện nay người ta cho rằng
loài người xuất hiện do một sự đảo lộn khí hậu đã
xẩy ra khoảng từ 5 đến 2,5 triệu năm trước, khí
hậu nóng lên khiến cho tại châu Phi trong một vùng
rộng lớn rừng biến mất dần mà trở thành đồng cỏ
khô (savane). Nơi đó các giống khỉ vượn sống trên
cây không thích nghi được thiø biến đi dần, trừ
một loài ' tinh tinh ' (2) do
đột biến gien mà đi được trên hai chân, giải phóng
được hai tay, và có bộ răng tốt để ăn thịt... đã
thích nghi được với môi trường mới này. Vì thiếu
rau cỏ, cần chuyển sang ăn thịt, tức cần chạy
nhanh để đuổi bắt các con thú với hai tay linh
động ( dĩ nhiên loài thú bốn chân có thể chạy
nhanh và săn đuổi tốt hơn, nhưng không thể tiến
hoá từ khỉ ngược trở lại được, loài khỉ đã tương
đối giải phóng được hai tay rồi để leo trèo trên
cây).
Thế rồi tư thế đứng đem
lại một món quà bất ngờ, đó là cái đầu và bộ não
được phát triển tự do hơn so với các loài thú, vì
tư thế đầu thẳng trên cổ thì độc lập hơn với trọng
trường. Rồi những đột biến gien khác đem lại tiềm
năng ngôn ngữ (3) cộng với khả năng
phát âm giàu có hơn... tới đây thiø giống tinh
tinh mới này được xếp vào loài người, và đã khởi
đi một quá trình tiến hoá đặc biệt người rồi : đó
là tư duy bắt đầu có tác động đến sự chọn lọc tự
nhiên. Trí thông minh, biểu hiện qua khả năng làm
công cụ, khả năng trao đổi và tổ chức cuộc sống
theo bầy lũ... trở thành một lợi thế của chọn lọc
tự nhiên, chứ không còn thuần tuý là bản năng và
sức mạnh vật chất của bắp thịt nữa. Chính trong
nghĩa đó mà có tác gia đã nói con người làm ra
công cụ, nhưng trong một nghĩa nào đó, chính công
cụ cũng lại làm ra con người. Và điều này hiện nay
vẫn còn đúng.
|
Erectus |
Sao lại có sự trùng hợp lạ
lùng và xảo diệu thế ? Đó là điều những người
không chấp nhận thuyết tiến hoá thường thốt ra.
Nhưng chúng ta không nên quên quá trình tiến hoá
này đã diễn ra trong hàng triệu năm, và kết quả
xảo diệu chỉ là cái còn lại sau khi biết bao nhiêu
" giải pháp " không thoả đáng đã bị triệt tiêu
trong ngõ cụt. Đột biến gien là chuyện xẩy ra
thường xuyên, và khi đó xác xuất không sống được
là rất lớn.
|
Neandertal |
Những sinh vật đầu tiên
được gọi là loài người đó, có thể có từ 5 triệu
năm trước hay 2,5 triệu năm trước, mang hai đặc
tính : đi trên hai chân, và làm công cụ bằng đá;
và đó là giống Homo Habilis ( giống người khéo
léo). Homo Habilis có thể tích sọ từ 600 đến 650
cm3. Khoảng 1,8 triệu năm trước thì
xuất hiện kẻ thừa kế là giống Homo Erectus ( giống
người đứng thẳng), có dung tích sọ khoảng 800 cm3.
Vì có lợi thế hơn các sinh vật khác, loài người
bắt đầu bành trướng, và chinh phục trái đất. Tới
một triệu năm trước đây thiø giống người này đã có
mặt ở Vùng Caucase, ven Địa Trung Hải phía Âu
châu, và Trung Quốc rồi. Hậu duệ của Erectus là
Sapiens (giống người hiểu biết) ; Từ Sapiens lại
phân hai nhánh Sapiens Néandertal và Sapiens
Sapiens. Giống Néandertal ( nhiều tác giả bỏ chữ
Sapiens đầu) khởi sinh tại châu Âu và sống từ -500
000 năm đến khoảng - 30 000 năm thiø tịch diệt, họ
có thể tích sọ từ 1200 đến 1500 cm3 .
Còn giống Sapiens thì nảy sinh tại châu
Phi cách đây khoảng 150 000 năm (+- 50000 năm) và
toả ra dần (đây là lần thứ hai, sau hơn hai triệu
năm, giống người nảy sinh và bành trướng từ châu
Phi) cho đến khi chinh phục cả thế giới, cho đến
ngày nay còn lại là giống người duy nhất, thể tích
sọ trung bình của Sapiens là 1400 cm3,
cũng như Néandertal thôi.
|
Sapiens |
Chắc chắn là Sapiens đến
châu Âu vài chục nghìn năm trước khi Néandertal
biến đi, viø nó đến cả châu Mỹ trễ nhất là từ - 40
000 năm (4). Như vậy có sự hiện diện
của hai giống người trong một thời gian dài ở châu
Âu (xem [11]). Và cũng có thể ở nhiều nơi khác.
Về sự nảy sinh của giống
người hiện đại này còn nhiều giả thiết khác nhau
và tranh cãi lý thú. Tuy nhiên về đại thể như tóm
lược ở trên thì những tài liệu gần đây nhất cho
thấy có sự đồng thuận. Ở đây xin không đi vào chi
tiết của những bàn cãi đó, để tập trung vào chủ đề
là sự nảy sinh của tinh thần khoa học, mà trong
thời đại tiền sử này thì mới chỉ là sự nảy sinh
của tư duy nói chung.
Tư duy
thời đồ đá cũ
Từ những hiện vật bằng đá
hoặc đã hoá thạch, dấu vết của người tiền sử,
chúng ta có thể nói gì về tư duy của họ ?
1. Làm dụng cụ :
Cầm hòn đá tròn phẳng ghè
xuống phiến đá, hoặc đập một hòn đá khác vào nó,
để ra một chiếc rìu đá cầm tay theo một hình thể
hữu ích, tức là đã có mô hình của chiếc rìu ấy
trong đầu ; đã biết mình muốn làm rìu để làm gì...
tức là đã có khả năng tư duy khái niệm. Biết dự
phóng, tức là tưởng tượng trước vật mình muốn làm,
và thực hiện nó. Mặt khác chắc chắn người lớn đã
có thể dạy cho trẻ em cách làm rìu, tức là khả
năng thông tin cũng đáng kể. Tư duy như thế, giống
Habilis từ thời hạ kỳ đồ đá cũ đã làm rồi.
Tuy nhiên, có lẽ Habilis
không hề biết mình tư duy, và mọi sự dừng ở đó
trong cả triệu năm, riều đá được làm thủ công đơn
lẻ từng chiếc, chỉ ghè một mặt y như cũ. Chỉ đến
khoảng 500 ngàn năm trước mới thấy xuất hiện riều
đá hai mặt (biết là đối xứng thiø hữu hiệu hơn ?),
và ít mảnh rác hơn, chứng tỏ người làm có suy tính
lựa chọn chỗ ghè trước khi ghè để tối ưu hoá công
việc.
2. Chế ngự lửa :
Những dấu vết của lửa bị
thuần hoá để lại từ khoảng 400 ngàn năm trước, tức
là thành quả của người Erectus. Đây là một bước
ngoặt trọng đại có tác động rất lớn trên đời sống
loài người : Trước đó con người sống ngoài trời,
chắc là tụ tập thành bầy nhỏ. Khi có lửa có thể
sống trong hang động, ấm áp và an toàn hơn, ngủ
ngon và yên ổn lại càng làm cho bộ óc phát triển.
Rồi việc chuyển từ ăn sống sang ăn chín, việc có
thể giữ thực phẩm hun khói lâu hơn...không thể kể
hết những lợi ích của lửa trong việc gìn giữ và
phát triển giống người. Có lẽ trong những đêm ngồi
quanh lửa trại người ta có những cảm giác đặc biệt
thoải mái là vì trong ký ức tiềm thức sâu thẳm vẫn
còn giữ lại sức quyến rũ mê hồn của ngọn lửa.
3. Tập tục chôn người
chết :
Từ khoảng 100 000 năm
trước cho tới khoảng - 30 000 năm, như trên đã
nói, có hiện tượng cùng hiện hữu của hai giống
người trên cùng những vùng đất, trước khi không rõ
tại sao mà giống Neandertal bị đào thải. Hai giống
người này có trình độ văn hóa và kỹ thuật tương
đương. Đặc biệt là chôn người chết và nghệ thuật
vẽ trong động đá. Một số dụng cụ khác riều đá dần
dần xuất hiện : mũi lao, riều có cán, dụng cụ bằng
xương, dụng cụ để bào củ, vỏ cây, hay da
(racloir)... Chôn người chết là sinh hoạt văn hoá
có ý nghĩa lớn đầu tiên của con người. người chết
được chôn theo với thức ăn và đồ dùng thường ngày.
Điều ấy chứng tỏ ý thức về sự sống, và niềm tin
vào một " thế giới bên kia ".
4. Nghệ thuật :
Có thể nói những hình vẽ
trong động đá là biểu tượng giàu nhất của tư duy
tiền sử, chúng vừa có giá trị nghệ thuật, vừa là
những minh chứng cho trình độ tư duy trừu tượng,
vừa là bản ghi lại (một phần nào, và với nhiều ước
đoán của nhà nghiên cứu) những hoạt động xã hội
thời đó. Bạn đọc có thể đội cái mũ Sherlock Holmes
mà suy đoán nhiều thứ trên những bức hình như trên
trang đầu của bài này. Những hình vẽ đầu tiên được
đánh dấu thời gian vào khoảng cách đây 40 000 năm.
Vậy ít ra có thể nói vào thời điểm ấy con người đã
có ý thức về chính mình và thế giới quanh mình, và
biểu diễn được ý thức đó qua những biểu tượng vật
chất như tranh tượng.
Chú thích
:
(1) Cho nên nói đến "
chủng tộc Việt Nam ", nói đến " cái gien Việt
Nam " là tự khẳng định một cách sai lạc và rất
nguy hiểm, vì đó chỉ là dựa trên con người vật
chất, gồm cả ngoại hình, bộ óc, và gien. Không
có cái gọi là bộ óc Việt Nam, không có cái gọi
là gien Việt Nam, chấm hết. Tất cả bản sắc là
văn hoá, và vì thế bản sắc dễ mất đi theo hoàn
cảnh lịch sử hơn người ta tưởng.
(2) Đó không phải là con
tinh tinh chimpanzé hiện nay, mà là ông
tổ chung của cả loài người và loài tinh tinh
hiện nay, mà hệ thống gien là gần với loài người
nhất.
(3) Những giả thuyết này
dựa trên các nghiên cứu liên ngành tổng hợp vật
lý học, địa chất học, khảo cổ học, và nhất là
sinh học phân tử... với nhiều tiến bộ đột phá từ
khoảng đầu những năm 60. Trên thực tế có khác xa
những ức đoán của nhiều bác học thời trước, tuy
họ cũng đã dựa trên tiến hoá luận nhưng quá
thiếu dữ kiện.
(4) Niên đại cổ nhất của
những bộ xương tìm thấy tại châu Mỹ, và thời
gian này trùng hợp với một thời kỳ băng giá của
trái đất. Nước đóng băng bị giữ lại trên đất
liền, khiến cho mặt nước biển rút xuống thấp viø
không được cung cấp nước. Vịnh Bering (giữa Nga
và Mỹ hiện nay) trở thành bán đảo Bering, và
trong vòng vài chục ngàn năm loài người đã khám
phá châu Mỹ bằng đôi chân mà chẳng hề biết.
Chính sự kiện này, cùng
với những sự kiện khác tương tự, như chinh phục
Úc Châu... cho phép nói rằng nếu tổ tiên ta 100
000 năm trước sống lại sẽ cộng sinh sản được với
người hiện đại. Viø nếu không thì người châu Âu
không thể cộng sinh sản được với người châu Mỹ
khi họ gặp nhau vào thế kỷ 16. Trong sinh học
khi một nhánh đã tách ra thì tách ra luôn, sự
phân loại là theo dạng cây, chứ không hề có việc
tách ra rồi lại nhập trở lại. Cho nên từ thủa đó
chúng ta vẫn là một giống người Sapiens Sapiens
thôi.
Tham khảo :
[1] La religion des
origines (dịch từ nguyên bản tiếng YÙ, 1995)
Emmanuel Anati, nxb Bayard, 1999.
[2]