Những bài cùng tác giả Khoa học hiện đại có những đóng góp to lớn
vào đời sống xã hội con người. Nhưng khoa học là gì
và có phải chỉ có một hay là có nhiều nền khoa học
khác nhau tùy thuộc vào vũ trụ quan của một nền văn
hóa hay một nền tảng triết học mà các nhà hậu hiện
đại đã đặt ra. Bài này có mục đích tóm tắt quá trình
lịch sử triết học khoa học và những vấn đề khúc mắc
tồn tại từ thời Khai sáng đến nay.
1. Phác hoạ tổng quan
Khoa học ở Tây phương phát xuất và bùng nổ mạnh từ
cuộc tranh đấu giữa tôn giáo và các "triết gia thiên
nhiên" (natural philosophers) trong thời Khai sáng.
Chỉ từ thế kỷ 19 mới có các từ "khoa học" và "khoa
học gia"(scientist) (do William Whewell đặt ra) như
ta hiểu hiện nay [**]. Trước đó, những người nghiên
cứu hiện tượng thiên nhiên và đưa ra các định luật
về tự nhiên được gọi là “triết gia” (philosopher)
hay “triết gia thiên nhiên” (natural philosopher).
Francis Bacon là người hệ thống hoá và kêu gọi vận
dụng triết lý thực nghiệm làm nền tảng cho kiến
thức. Con người chỉ có thể tìm và biết được sự thật
về sự vận hành của thế giới thiên nhiên qua cảm
nghiệm (senses) về thế giới bên ngoài chứ không từ
tâm linh, niềm tin hay thượng đế.
Nền tảng khoa học phương Tây vì thế dựa trên cảm
nghiệm và thực nghiệm. Từ Bacon đến Whewell và đến
ngày nay, khoa học ngày càng phát triển và chia ra
nhiều ngành, nhiều nhánh khác nhau.

Khác với triết lý thực nghiệm (empirical) của Bacon
và
 |
 |
William
Whewhell |
Ernst Mach |
William
Whewhell phát triển mạnh ở Anh, triết lý thực
chứng (positivism) của Ernst Mach và sau đó chủ
nghĩa thực chứng logic (logical positivism) của
Nhóm Vienna phát triển mạnh ở những nước Âu châu nói
tiếng Đức. Tuy vậy, ngay cả ở những nước nói tiếng
Anh, nơi triết lý thực nghiệm phát sinh và làm nền
tảng cho việc khám phá ra một số lớn các định luật
tự nhiên trong khoa học, ít ai biết về chủ nghĩa
thực chứng vào các thập niên 1950, 1960. Lý do là vì
truyền thống lịch sử triết lý khoa học ở hai nước
khác nhau do đã có lúc các triết gia ở Đức lái triết
lý khoa học thực nghiệm của thời Khai sáng vào một
ngã rẽ quan trọng theo con đường của chủ nghĩa lãng
mạn. Các triết gia thuộc trường phái lãng mạn và
triết học duy tâm Đức đã đem "siêu hình học" về với
triết lý khoa học, gọi là Naturphilosophie, một hỗn
hợp của cảm tính, huyền bí và giả thuyết nửa khoa
học (quasi-scientific). Mục đích của họ là kết hợp
nhân bản với khoa học, một mục đích cao thượng. Tuy
nhiên, hậu quả là sự xuất hiện của các lý thuyết
không hoàn toàn "khoa học" mà sau này

Karl Popper
gọi là "ngụy khoa học" (pseudo-science). Sự ra đời
của chủ nghĩa thực chứng của Popper là phản ứng lại
các lý thuyết trên.
Theo chủ nghĩa thực chứng logic, khoa học là cái gì
có thể kiểm chứng được, bằng quan sát, dữ liệu, theo
một số quy luật. Những gì không thể kiểm chứng được
một cách logic là siêu hình học, hay "ngụy khoa
học". Chủ nghĩa thực chứng sau này bộc lộ nhiều giới
hạn. Giới hạn nổi bật nhất là lắm khi một lý thuyết
(thí dụ như thuyết nguyên tử với các điện tử
(electrons)) dù không quan sát được với kỹ thuật
đương thời nhưng rồi đã được kiểm nghiệm với kỹ
thuật tiến bộ hơn.
Karl Popper đã đưa ra quan điểm mới tốt hơn triết lý
thực chứng logic. Theo ông, để phân biệt "khoa học
thật" sự với "ngụy khoa học" và siêu hình học, ta
cần tiêu chuẩn: một lý thuyết chỉ mang tính khoa học
khi nó có thể chứng nghiệm là sai. Đây là tính phản
nghiệm (falsification) nổi tiếng của Popper, có
nhiều ảnh hưởng vào thập niên 1970. Tuy vậy chủ
nghĩa phản nghiệm (falsificationism) có những khúc
mắc, nhất là với những nhà khoa học xã hội. Theo
những người này thì tiêu chuẩn ấy quá cứng nhắc, áp
dụng nó một cách rạch ròi thì ngay cả thuyết tiến
hoá của
Darwin cũng không là khoa học.
Đối thủ nổi tiếng nhất của Karl Popper là Thomas
Kuhn. Theo Kuhn, ít môn khoa học nào thật sự là
"khoa học" theo tiêu chuẩn của Popper. Kuhn cho rằng
chúng ta không thể so sánh lý thuyết khoa học này
với lý thuyết khoa học khác, vì chúng thuộc những
phạm trù khác nhau, với những giới hạn khác nhau.
 |
 |
 |
Charles
Darwin |
Thomas S. Kuhn |
Paul
Feyerabend |
Theo Thomas Samuel Kuhn, các lý thuyết khoa học đều tiến hoá theo
"bước nhảy cách mạng" (revolutionary jump). Khi một
lý thuyết hoạt động và gặp những giới hạn hay khủng
hoảng (chẳng hạn như khi vật lý Newton gặp những
hiện tượng lượng tử), thì một cuộc cách mạng về cách
nhìn là cần thiết. Nói theo Kuhn là cần chuyển sang
một "mô thức" ("paradigm") mới (“paradigm shift” là
một cụm từ dấu ấn của Kuhn). Không thể so sánh các
mô thức, dù với tiêu chuẩn nào, vì chúng thuộc các
phạm trù khác nhau. Thuyết của Kuhn được hồ hởi chấp
nhận, nhất là bởi những người theo chủ thuyết tương
đối (relativism) trong các thập niên 1960, 1970
chống lại phái bảo thủ tuyệt đối.
Song thuyết của Kuhn cũng có nhiều khúc mắc. Lịch sử
khoa học cho thấy hiếm có các chu kỳ lý thuyết như
Kuhn mô tả. Ngay vật lý Newton cũng không phải là
cách mạng khoa học (revolution) mà là tiến hóa khoa
học (evolution). Paul Feyerabend, bạn của Kuhn, thì
mạnh bạo hơn: ông cho rằng thật sự không có cái gì
gọi là "phương pháp khoa học". Theo Feyerabend,
chúng ta có thể dùng bất cứ phương tiện nào miễn là
phương tiện ấy giúp hiểu biết vấn đề trước mắt. Dễ
thấy, nhiều nhà khoa học đã cho khẳng định "khoa học
là cái gì mà các nhà khoa học làm" như
Feyerabend đề
xướng là đi quá xa!

Cơ bản quan điểm của Kuhn và Feyerabend là phản ứng
lại “mô hình cứng” của Popper, người chủ trương chủ
thuyết phản nghiệm như nói trên. Imre Lakatos cũng
là một phản ứng khác, nhưng không quá khích, "vô
trật tự" hay "vô chính phủ" ("anarchist") như
Feyerabend, Lakatos không phân chia rạch ròi giữa
khoa học duy lý ("rational" science) và khoa học vô
duy lý (non-rational science). Triết gia này kết hợp
quan điểm của Kuhn với phương pháp phản nghiệm (có
cải tiến) của Popper, cho rằng khoa học là một chuỗi
những "chương trình nghiên cứu" (research programs),
từng bước tiến lên từ một vấn đề này đến vấn đề
khác. Quan điểm của Lakatos có vẻ hợp lý nhất đối
với đa số các ngành khoa học hiện đại (kể cả các
ngành khoa học xã hội).
Gần đây có một cuộc tranh luận là liệu thật sự có
một nền khoa học phổ quát (universal science) hay là
có nhiều nền khoa học tuỳ theo vũ trụ quan của một
nền văn minh (thí dụ có “khoa học hồi giáo”, “khoa
học Trung quốc”... khác với khoa học hiện đại mà ta
nên gọi là “khoa học Tây phương” không?). Nhiều nhà
khoa học cho là chỉ có một nền khoa học phổ quát
(luật khoa học bất biến) chứ không có nhiều loại
khoa học tuỳ theo vũ trụ quan của những văn minh
khác nhau. Steven Weinberg (giải Nobel vật lý) (1),
và Alan Sokal (2) là tiêu biểu trong nhóm này. Mặt
khác, một số người như Jacques Derrida, Helen Verran
(3) lại cho rằng khoa học có nhiều loại, có thể khác
với khoa học mà ta vẫn biết hiện nay ở Tây phương.
2. Từ thực nghiệm quy nạp (induction) đến chủ nghĩa
thực chứng logic (logical positivism)
Các phương pháp và triết lý khoa học hiện nay cũng
như thành quả của chúng xuất phát từ sự phát triển
triết lý mạnh mẽ ở thời Khai sáng.
(a) Quy nạp thực nghiệm
Rũ bỏ quan niệm thần quyền theo đó tri thức phát
sinh từ sự tiết lộ của đấng tối cao qua niềm tin và
thuyết giáo, nhiều nhà tư tưởng và triết gia "thiên
nhiên" đã tìm hiểu và nghiên cứu về sự liên hệ giữa
thế giới bên ngoài và tri thức. Họ quan sát, nhận
thức tự nhiên qua cảm quan, rồi từ đó, qua phương
pháp quy nạp, khám phá ra các nguyên lý và định luật
thiên nhiên. Do đó tất cả các hiện tượng trong thiên
nhiên đều có thể giải thích và hiểu được bằng lý
trí, trí tuệ suy xét. Chủ nghĩa duy lý trong thời
Khai sáng cho rằng sự tiến bộ của con người là kết
quả của sự thâu thập và tích lũy tri thức vào kiến
thức của con người.
Tiêu biểu trong giai đoạn này là các khoa học gia và
triết gia như John Locke và Francis Bacon. Theo họ,
từ sự quan sát lâu dài các hiện tượng thiên nhiên,
ta có thể dùng quy nạp (induction) để thiết lập định
luật chung cho các hiện tượng ấy. Đây là nền tảng
của sự phát triển và bùng nổ kiến thức khoa học
trong nhiều ngành từ thế kỷ 18 cho đến đầu thế kỷ
20. Nước Anh là nơi mà truyền thống khoa học thực
nghiệm phát sinh và phát triển rộng rãi. Cơ học
Newton là một thành tựu lớn lao của khoa học thực
nghiệm quy nạp và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhà
tư tưởng của thời Khai sáng.
Trong giai đoạn phát triển của khoa học thực nghiệm
quy nạp, một nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng kỹ
nghệ lịch sử, còn có ảnh hưởng của hai nhà triết học
Descartes và Kant.
Descartes với "triết lý cơ học" cho rằng mọi hiện
tượng liên quan đến vật thể trong thiên nhiên đều có
thể hiểu được bằng lý trí: thiên nhiên vận hành qua
các lực đẩy, lực kéo do sự liên tác của các vật thể
rắn hay lỏng. Tất cả đều theo quy luật cơ khí chứ
không theo quy luật huyền bí hay mê tín về một đấng
tối cao. Sau thời Khai sáng, triết lý này có ảnh
hưởng rất lớn ở thế kỷ 19, trong các ngành hoá học
và nhiệt học được phát triển với giải thích cơ bản
dựa vào các nguyên tử. Tuy vậy, các triết gia theo
triết lý cơ học khó chấp nhận vật lý Newton, vì theo
họ thì khó giải thích sức hút hay liên tác giữa các
vật thể qua không gian mà không qua sự tiếp xúc của
các vật thể. Tuy có những giới hạn, triết lý
Descartes đã có nhiều đóng góp đáng kể vào khoa học
và vẫn còn được áp dụng, ngay cả trong thời kỳ hưng
thịnh của vật lý Newton.
David Hume là người đã vạch ra những khó khăn cơ bản
của triết lý quy nạp thực nghiệm. Theo ông, các sự
kiện xảy ra kế tiếp nhau ở thế giới bên ngoài mà ta
cảm nhận cho ta ấn tượng là chúng có liên hệ nhân
quả. Song, thật ra, có thể chúng không liên hệ gì
nhau, và chưa chắc là các chuỗi sự kiện ấy cũng sẽ
như vậy trong tương lai. Cơ bản là kinh nghiệm của
chúng ta chỉ dựa vào cái gì đã qua và hôm nay, không
ai có kinh nghiệm về tương lai. Hume đưa thí dụ:
thấy mặt trời mọc hôm qua và hôm nay, rồi nghĩ là
mặt trời sẽ mọc ngày mai, thì thật sự chỉ là một
thói quen. Dùng quy nạp qua cảm nhận thực nghiệm để
thiết lập nguyên nhân và hậu quả vì thế rất đáng
nghi ngờ. Tri thức, lý thuyết khoa học kiểu đó có
thể hoàn toàn sai lầm .
Qua triết lý của Kant, khúc mắc trên được giải quyết
ở một mức trừu tượng hơn. Kant cho rằng chúng ta có
thể có nhận thức một cách tiên nghiệm (a priori) các
phạm trù có sẵn trong vật thể. Song, theo ông, dù
chúng ta có biết được mọi đặc tính của các vật thể
và sự liên hệ giữa chúng, chúng ta vẫn không thể
thực sự biết chính vật thể đó. Theo Kant, có thể
giải thích hoàn toàn liên hệ giữa các vật thể bằng
lý trí thuần tuý (pure reason), và phương pháp khoa
học có thể giải thích được tất cả thế giới hiện
tượng. Ông cũng nghĩ rằng có thể chỉ dùng lý trí
thuần tuý mà chứng minh được là luật sức hút và cơ
học Newton.
Kant cho rằng không gian và thời gian không phải là
một bộ phận của thế giới bên ngoài mà là sản phẩm
của tư tưởng. Ý niệm thời gian, theo ông, không phát
sinh từ sự thu nhận qua các giác quan của con người
về thế giới bên ngoài. Vì thế, ta có thể hoàn toàn
qua lý trí thuần túy mà phát huy kiến thức về những
gì liên quan đến thời gian. Triết học của Kant do đó
khó dung hoà với thuyết vật lý tương đối của
Einstein sau này, qua đó không gian và thời gian là
những khía cạnh thông thường của vũ trụ vật thể,
những khía cạnh có thể bị ảnh hưởng bởi chuyển động
và lực hút.
Tư tưởng duy lý với quy nạp thực nghiệm trong thời
Khai sáng bắt nguồn từ mục đích nhân bản: kiến thức
mà lý trí Khai sáng tạo ra là để giải phóng con
người bằng cách nâng con người vượt qua khỏi thế
giới hoang dã. Tuy vậy, trong thực tế, việc giảm đi
giá trị tinh thần và niềm tin tôn giáo cũng có nguy
cơ đưa đến tư tưởng và chủ nghĩa duy ý chí cực đoan
nhằm tìm ra một xã hội "hoàn hảo" như trong lý tưởng
của cách mạng Pháp, và điều này có thể đưa đến việc
áp dụng triệt để chúng trước khi biết được giới hạn
của chúng. Tư tưởng thời Khai sáng đã bị nhiều phong
trào theo chủ nghĩa lãng mạn phản kháng. Họ chủ
trương "lý trí đi ngủ" là tốt cho con người.
Rousseau đã kết án văn minh và lý trí đồng thời cổ
vũ cho hoang dã thanh liêm, cho việc trở lại với
thiên nhiên và sự hồn nhiên trong sáng để đạt trạng
thái không bị thoái hóa.
Phong trào lãng mạn ở Đức, mặt khác, không quá cực
đoan như lãng mạn kiểu Rousseau. Các triết gia lãng
mạn ở Đức cố gắng kết hợp nhân bản với duy lý.
Goethe là một nhà văn, triết gia nhân bản, ông cũng
đặt hy vọng vào khoa học và tin là khoa học giải
phóng con người. Bản thân ông muốn mình là một nhà
khoa học tìm hiểu thiên nhiên vì lợi ích nhân loại.
Như nói ở trên, các triết gia ở Đức lái triết lý
khoa học thực nghiệm của thời Khai sáng vào hẳn một
ngã khác. Các nhà triết gia trường phái lãng mạn đã
mang siêu hình học trở lại triết lý khoa học, gọi nó
là Naturphilosophie, một hỗn hợp của cảm tính, huyền
bí và giả thuyết bán khoa học (quasi-scientific).
Hậu quả là sự ra đời sau này của các lý thuyết không
hoàn toàn "khoa học".
(b) Chủ nghĩa thực chứng logic (logical positivism)
Chủ nghĩa thực chứng vẫn xem quy nạp thực nghiệm là
nền tảng của phương pháp khoa học. Ernst Mach, nhà
vật lý và triết gia của trường phái cuối thế kỷ 19 ở
Vienna, đưa triết lý thực chứng vào khoa học vật lý.
Trong tay Mach, thực chứng được dùng như đối trọng
và liều giải độc (antidote) chống lại siêu hình học
của Kant và các lý thuyết bán khoa học của phái lãng
mạn. Tuy nhiên chỉ sau thế chiến thứ nhất, khi một
nhóm các nhà vật lý, toán học và triết học thành lập
Nhóm Vienna (Vienna Circle) do Moritz Schlick dẫn
đầu. thì chủ nghĩa thực chứng logic mới phát triển
và có ảnh hưởng rộng rãi. Qua tuyên ngôn “Vũ trụ
quan khoa học: Nhóm Vienna" những người này đưa ra
một triết lý mới kết hợp thực chứng của Mach và
logic của Russell. Trong bối cảnh chán nản hậu quả
chiến tranh và các quan điểm, tư tưởng tôn giáo,
chính trị đầy rẫy đè nặng trong xã hội, thực chứng
logic đã được nhiều trí thức xem là như phương tiện
giải thoát con người khỏi lầm than và tranh chấp. Có
thể nói đây là khởi đầu của một phong trào, tập
trung từ Trung Âu và phát tán ra các nước bắc Âu,
Anh và sau này là Mỹ, chống lại triết lý trừu tượng.
Phong trào này trở về nguồn với những gì cơ bản,
giản dị, logic, có thể kiểm nghiệm được, và loại bỏ
những vô nghĩa, siêu hình đã trói buộc và nô lệ hoá
con người trong đời sống xã hội.
Cốt lõi của thực chứng logic là chỉ chấp nhận những
gì gọi là khoa học khi có thể quan sát hay đo được,
và do đó có thể kiểm chứng. Đây là nguyên lý kiểm
chứng nổi tiếng mà Alfred Ayer mô tả như sau:
"Chúng ta nói rằng một câu rất đáng kể có sự thật,
dựa trên sự kiện cho bất cứ một người nào, nếu và
chỉ nếu người ấy biết cách kiểm chứng được định đề
mà câu đó có ngụ ý hay mục đích muốn nói lên - nghĩa
là người đó biết những quan sát nào, trong một số
điều kiện nhất định, sẽ làm họ chấp nhận định đề đó
là đúng, hay không chấp nhận nó vì nó sai." (28)
Những gì không quan sát và kiểm chứng được bị xếp
vào một loại tương tự với siêu hình. Các câu như
"Bức tranh này đẹp", hay "Có một thượng đế toàn
năng" là vô nghĩa, là siêu hình. Những siêu hình học
truyền thống, với những ước đoán trừu tượng về thế
giới bên ngoài, không thể kiểm được bằng quan sát
khoa học và vì thế đều vô nghĩa, vô dụng cho con
người. Dùng nguyên lý cơ bản trên, các nhà triết học
theo thực chứng logic như Neurath nghiên cứu về
triết lý khoa học, đã phát triển một cách có hệ
thống những nguyên lý để tìm hiểu thế giới thiên
nhiên. Một số, như Gregory Bergman, nghiên cứu về
triết lý ngôn ngữ để tiến đến một ngôn ngữ logic lý
tưởng, hay như Rudolf Carnap, dùng phương pháp chính
thống của logic toán học để tìm ra một ngôn ngữ
hoàn toàn khoa học nhằm thể hiện được thế giới thiên
nhiên bên ngoài. Các nhà toán học Kurt Godel, Peter
Frank cũng dùng lý luận tinh vi để tìm hiểu giới hạn
của logic.
Như Hume, họ cho rằng hiện tượng không có nguyên
nhân. Song, khác Hume, họ dùng quy nạp làm cơ sở lý
luận. Cơ bản là chúng ta chỉ biết quá khứ và hiện
tại, vì thế dùng quy nạp để khám phá các định luật
khoa học thì liệu định luật ấy có đúng với tương
lai? Vì dùng quan sát để kiểm chứng sự thật, sự kiện
khoa học, để biết được sự thật định luật khoa học,
họ đã phải dùng quy nạp và logic để biết xác suất
của định luật. Các người chủ trương chủ nghĩa thực
chứng logic, như Carnap, đã dùng lý luận và logic
để chứng minh tiên đoán xác suất sự chính xác và độ
tin cậy (confidence) của các định luật qua quy nạp
thực nghiệm với toán học xác suất. Nhưng mặc dầu đã
rất cố gắng, họ vẫn thất bại. Vấn đề cơ bản là quy
nạp có nhiều khó khăn, như Hume đã cho thấy, và cuối
cùng không thể tổng quát hoá bằng quy nạp trong hệ
thống thế giới logic như thế. Sau này, Popper đã
học hỏi và thấy được giới hạn của thực chứng logic
khi ông làm việc chung với họ.
Triết lý thực chứng logic có ảnh hưởng đến một số
các nhà khoa học vật lý ở thế kỷ 20 như Ludwig von
Mises, Werner Heisenberg và đóng góp vào việc phát
triển nguyên lý vô định, không chắc chắn
(uncertainty principle), sinh ra từ phân tích thực
chứng logic về sự giới hạn khi vừa quan sát vị trí
vừa đo động lực (momentum) của vật thể cùng một lúc.
Einstein và Bohr cũng có nhiều liên hệ với Nhóm
Vienna.
Nhưng triết lý này cũng là khuynh hướng đối lập
chính chống lại thuyết nguyên tử vào đầu thế kỷ 20.
Các môn đồ của thực chứng logic cho là thuyết
nguyên tử không phải là khoa học thực sự bởi vì các
nguyên tử không thể quan sát được, và vì thế không
thể kiểm chứng, với những kỹ thuật có thể mường
tượng vào thời đó Ngay cả sau này khi thuyết nguyên
tử đã được nhiều người chấp nhận, Mach vẫn cương
quyết tranh luận khi viết cho Plank là ".. nếu sự
tin tưởng vào sự thật của các nguyên tử là thiết yếu
trong khoa học, thì tôi xin từ nay bỏ đi phương cách
suy nghĩ làm khoa học vật lý. Tôi sẽ không còn là
một nhà vật lý chuyên nghiệp và tôi trả lại hết
những danh dự khoa học mà tôi có" (4)
Triết lý thực chứng không còn hữu dụng khi nghiên
cứu về tương lai. Như nhà vật lý Weinberg viết: "Làm
sao chúng ta có thể tạo lập một lý thuyết dựa vào
các vật quan sát khi mà không một khía cạnh nào của
kinh nghiệm chúng ta - có thể ngay cả ở không gian
và thời gian tương lai - đã được dùng ở mức cơ bản
nhất của các lý thuyết chúng ta? "(4)
Oái oăm thay, khi thuyết về hạt tử “quarks” ra đời
thì triết lý thực chứng không còn chỗ đứng trong vật
lý, nơi mà nó đã khai sanh và được áp dụng. Theo hai
nhà vật lý Murray Gell-Mann và George Zweig thì tất
cả các loại hạt tử (như electron, neutron, meson,
proton, vv) đều được cấu tạo bởi vài hạt tử cơ bản
(elementary) giản dị mà họ gọi là “quarks”. Ngày
nay, hầu hết các nhà vật lý đều chấp nhận lối giải
thích này.
Đến đầu thế kỷ 20, người ta bắt đầu thấy rõ triết lý
khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa thực chứng là có
nhiều giới hạn trong hầu hết mọi ngành. Ngay cả khi
có những vật thể quan sát được, điểm then chốt của
thực chứng cũng đã bị chỉ trích và phủ định khi nó
cho là có những quan sát hoàn toàn độc lập, và trung
tính (neutral) với các lý thuyết, ý niệm, và ngôn
ngữ. Ngay trong vật lý học, triết lý thực chứng cũng
bị xem là lạc hậu và được thay thế bởi triết lý phản
nghiệm của Popper.
3. Triết lý phản nghiệm của Karl Popper
Tuy xuất thân từ phái thực chứng, Popper đã vượt qua
những khuyết điểm của phái này và có nhiều đóng góp
vào triết lý khoa học hiện đại. Trái với thực chứng,
ông cho rằng tất cả những quan sát (observations)
đều không trung tính, mà đầy lý thuyết (theory
laden). Ông nghĩ rằng không có các môn đề (subject
matters) như tâm lý, xã hội, thiên nhiên mà chỉ có
các vấn đề (problems) và ước muốn của chúng ta để
giải thích chúng. Đối với Popper, câu hỏi then chốt
là: làm sao chúng ta có thể xác định một lý thuyết
là khoa học hay không khoa học (mà ông gọi là ngụy
khoa học).
Theo ông, một lý thuyết được gọi là khoa
học khi nó có những điều kiện sau:
(i) Có thể đưa tới (liable) chứng nghiệm theo dữ
liệu. Nói khác đi, thuyết ấy phải cho cơ hội kiểm
nghiệm để chứng tỏ là nó sai;
(ii) Đưa ra những tiên đoán: thuyết phải “gan dạ”,
“táo bạo” tiên đoán những hiện tượng chưa được quan
sát và kiểm nghiệm.
Điều (i) rất là quan trọng, vì thế thuyết Popper
được gọi là chủ nghĩa phản nghiệm
(falsificationism). Theo đó ta có thể có nhiều quan
sát (observations) phù hợp (fit) với lý thuyết đặt
ra. Song điều quan trọng là thuyết đó phải cho phép
ta có thể tìm dữ kiện (data) để chứng tỏ là nó sai.
Lý thuyết chỉ thật sự là khoa học khi nó liều lĩnh,
táo bạo, "mở cửa" cho nhiều cơ hội kiểm chứng, chứa
nhiều thông tin với bằng chứng có thể phản biện.
Theo Popper, một lý thuyết khoa học mới chỉ xứng
đáng thay thế một lý thuyết đang có khi lý thuyết
mới ấy tổng quát hơn, giải thích được hết những gì
lý thuyết cũ có khả năng giải thích, và hơn nữa,
giải thích được nhiều trường hợp mà lý thuyết cũ đã
bị phản nghiệm. Rồi, bản thân lý thuyết mới ấy tự nó
phải cho nhiều cơ hội phản nghiệm. Và sau cùng, khoa
học "thực sự" phải có những tiên đoán về các hiện
tượng chưa quan sát nhưng sẽ xảy ra, và có thể kiểm
chứng.
Để hiểu rõ nguyên nhân sự ra đời của thuyết phản
nghiệm, nên biết đôi chút về cuộc đời và môi trường
trí thức của Popper khi ông còn ở Áo (5). Popper,
gốc Do Thái, sinh trưởng ở Vienna, lúc đầu thân cận
với nhiều người trong trường phái thực chứng. Có
thời ông là Marxist, và đã có những kinh nghiệm về
sự không định, thiếu logic khoa học của các giải
thích hiện tượng xã hội qua các thuyết tâm lý của
Freud và Adler khi ông làm phụ tá cho Adler trong
các văn phòng xã hội giúp trẻ em và thanh niên nghèo
ở Vienna. Adler là học trò của Freud và là người đưa
ra lý thuyết xã hội gọi là thuyết Adler (Adlerism),
theo đó con người có một nhu cầu cơ bản trong xã
hội: đó là muốn có quyền lực. Khi quyền lực mình
mong muốn vượt quá tầm tay của mình vì các trở lực
bên ngoài, thì con người hình thành những tâm trạng,
hành động tâm lý. Những tâm trạng, hành động này
được thể hiện qua một mặc cảm tự ti nhằm che giấu
cái yếu, cái bất lực của mình.
Theo Popper, mọi hành vi đều có thể được diễn giải
theo thuyết tâm lý của Freud hay Adler. Popper đưa
ra thí dụ hai hành vi rất khác nhau. Một người đàn
ông xô đứa trẻ xuống nước để nó bị chết đuối, và một
người nhảy xuống nước để cứu đứa bé. Theo thuyết của
Freud, thì người thứ nhất bị mắc bệnh kiềm chế một
phần phức cảm Oedipus (Oedipus complex) của mình.
Người thứ hai đã đạt được tuyệt đỉnh. Theo thuyết
Adler, thì người đàn ông thứ nhất muốn vượt qua mặc
cảm tự ti của mình bằng sự thách thức chính mình hãy
giết đứa trẻ; và người thứ hai cũng muốn chế ngự
được mặc cảm tự ti bằng thử thách chính mình và cứu
đứa trẻ. Popper đã tương phản hai lý thuyết trên với
lý thuyết cơ học Newton và tương đối của Einstein,
hai lý thuyết có nhiều bằng chứng để kiểm nghiệm hay
phản nghiệm. Đây là hạt nhân cho sự hình thành và
xuất hiện thuyết phản nghiệm của Popper.
Có hay không các loại khoa học khác nhau tùy theo vũ
trụ quan của văn hoá? Nếu theo tiêu chuẩn của Popper
thì không. Theo Popper, khoa học phải tách rời với
tất cả, ngay cả những gì liên hệ đến con người như
ngôn ngữ, cảm nhận v.v... Khoa học thực nghiệm theo
hệ thống quy nạp với tri thức tiếp nhận qua giác
quan mà khoa học từ Bacon, Newton cho đến ngày nay
phần lớn đã dựa vào, cũng không đúng (mặc dù ông có
đồng cảm với tư tưởng trên)
"Tôi là một người rất ngưỡng mộ cảm quan kinh nghiệm
(common sense), và tôi cho rằng nó cơ bản rất tự
phản biện (self-critical). Tuy vậy, mặc dầu tôi vẫn
giữ sự thật cơ bản cuối cùng tính hiện thực của cảm
quan kinh nghiệm (common sense realism), tôi cho
rằng lý thuyết cảm quan về tri thức là một sai lầm
chủ quan. Sự sai lầm này ngự trị triết lý Tây phương
đã lâu. Tôi đã cố gắng xoá bỏ nó, và thay bằng một
thuyết khách quan về tri thức chủ yếu qua phỏng
đoán. Điều này có thể là một tuyên bố bạo dạn nhưng
tôi không hề xin thứ lỗi cho thuyết này.”(6)
Tất cả mọi thuyết và phương pháp khoa học phải khách
quan. Popper cho là luật thiên nhiên và vũ trụ là
phổ quát, ông tin là lý thuyết khoa học phải cạnh
tranh trong môi trường phản nghiệm. Lý thuyết phải
có tính chất phản nghiệm (falsifiability), mạnh dạn
cấp tiến trong tiên đoán và qua nguyên lý phản
nghiệm để có và được thay thế bởi các lý thuyết nào
gần với sự thật hơn (Popper gọi là "versimilitude").
Vì thế, khoa học là một chuỗi các lý thuyết bị đổ để
đến lý thuyết gần hơn với "versimilitude". Chủ nghĩa
thực chứng và thuyết Popper chủ yếu dựa vào vật lý
học như mô hình triết lý khoa học. Trái với các
thuyết thật sự khoa học có tính phản nghiệm và mạnh
dạn đứng ra chịu sự thử thách tiên đoán, các thuyết
"ngụy khoa học" hay bán khoa học đều dùng kế hoạch
tự phòng thủ nhằm tránh bị phê bình, chỉ trích, qua
các chắp vá, niềm tin mà ông gọi là chiến thuật miễn
nhiễm ("immunizing stratagem").
Quan điểm của Popper về sự phản nghiệm rất được phổ
biến và thường được các nhà khoa học áp dụng để bác
bỏ các lý thuyết ngụy khoa học. Trong thời của
Popper, hai đối tượng chính là tâm lý học theo Freud
và triết học Marx về lịch sử mà ông dùng để phân
biệt với khoa học thực sự. Nhưng ngay cả các lý
thuyết khoa học ở các ngành khoa học đã đạt tiêu
chuẩn có thể phản nghiệm thì hầu như trong thực tế
khó có lý thuyết khoa học nào mà không bị loại hay
chối bỏ (reject) bởi một tập hợp quan sát
(observations) trong một thí nghiệm quyết định, như
Kuhn đã cho thấy.
Điều này cũng xuất phát từ bối cảnh thời Popper lúc
ấy đặt trọng tâm vào việc chống lại "siêu hình" và
"ngụy" khoa học, và nhất là thời huy hoàng của vật
lý khi mà vật lý là trung tâm của khoa học.
Thuyết phản nghiệm của Popper có vài khuyết điểm dễ
thấy. Thứ nhất, nếu mục đích của khoa học là làm
giàu tri thức thì việc "phản nghiệm một giả thuyết
là sai" khó thể xảy ra, và không cho ta thêm tri
thức nhiều hơn khi một giả thuyết khoa học rất có
thể đúng và chấp nhận được bị phản nghiệm là sai.
Nói cách khác, phản nghiệm là sai một "ngụy khoa
học" hay lý thuyết tồi không mang lại cho chúng ta
điều gì mới để tiến lên. Thứ hai, có những xác định
không thể phản nghiệm (chẳng hạn, làm sao xác định
sự hiện hữu của một vật thể tưởng tượng?). Và quan
trọng hơn, Popper tự mâu thuẫn về vấn đề quy nạp.
Một đàng, ông không cho rằng những chứng cớ thực
nghiệm (evidence) có thể củng cố giả thuyết khoa học
bằng phương pháp quy nạp (theo ông, quy nạp là vô
ích và vô tác dụng). Đàng khác, ông lại dùng ý niệm
"chứng thực thêm" (corroboration), thật ra không
khác ý niệm quy nạp. Đối với Popper, những giả
thuyết khoa học “tốt” là giả thuyết đã được "chứng
thực thêm" với các bằng chứng thực nghiệm.
Nếu bác bỏ quy nạp thì đa số lý thuyết khoa học đều
sai vì bị phản biện, và nếu có thuyết đúng thì ta
cũng không biết là nó đúng. Để tránh bế tắc này,
theo Popper, khoa học không cần dùng phương pháp quy
nạp. Khoa học tiến bộ là nhờ sự cạnh tranh giữa các
lý thuyết, lý thuyết nào gần với “verisimilitude”
hơn thì được chấp nhận. Giả thuyết nào chứa nhiều
“sự thật” được suy diễn từ giả thuyết, và ít sai
(qua phản nghiệm hay “chứng thực thêm”) hơn giả
thuyết khác, thì được chấp nhận. Vì thế, một giả
thuyết khoa học dù có bị phản nghiệm đôi lần, nhưng
nếu bị ít hơn thuyết khác, và có chứa nhiều thông
tin, nhiều “sự thật” hơn, thì nó vẫn có giá trị và
được chấp nhận. Ít ra là cho đến khi giả thuyết
khác, tốt hơn, được đề xuất.
Nói chung nền tảng cơ bản của triết lý khoa học
Popper vẫn là máy móc (mechanistic), thể vật
(physical) và khách quan (objective), không khác
nhiều với triết lý thực chứng logic, sinh ra để đối
lập lại chủ thuyết tâm lý của Freud và chủ nghĩa
Marx. Trong thời kỳ vật lý là "vua" khoa học, Popper
cho là Freud và Marx không thực sự khoa học. (Theo
Popper, lúc đầu chủ nghĩa Marx về lịch sử có khoa
học, nhưng sau các tiên đoán không đúng, đã được
chắp vá, sửa đổi thêm nên mang khía cạnh niềm tin và
siêu hình và do đó không còn là khoa học).
Mô hình này không còn được áp dụng trong khoa học,
ngoài sự hữu dụng của nó hiện nay để chống ngụy khoa
học như chiêm tinh, hay các "khoa học" huyền bí
khác, chủ yếu là vì tâm lý học theo Freud dựa vào
sinh lý (sex) đã được cho thấy là không còn thích
hợp hay lỗi thời, không còn được áp dụng, hoặc được
thay thế bởi những mô hình khác. Sự chạm trán, tính
"phản" là di sản của thuyết Popper. Sự hữu dụng của
nguyên lý phản nghiệm năng hiện nay đã không còn
đóng vai trò lớn trong các ngành khoa học, nó chỉ
hữu dụng để bác bỏ các ngành ngụy khoa học không thể
kiểm nghiệm. Thực ra, trong cộng đồng khoa học thì
các ngành và lý thuyết ngụy khoa học này chỉ đứng
ngoài và đã không được coi là khoa học rồi. Như sẽ
trình bày dưới đây, quan niệm về khoa học đã đi đến
cái nhìn đa hướng, đa phương pháp để đạt đến tri
thức từ mọi khía cạnh mà các nhà triết học hậu hiện
đại sau này đã triển khai và phát triển qua nhiều
quan niệm của các nhà tư tưởng như Kuhn, Feyerabend,
Derrida, v.v...
Tuy vậy, đi từ phản nghiệm, Popper cũng đã có nhiều
đóng góp quý báu qua “duy lý luận phê bình”
(critical rationalism) với tác phẩm "The Open
Society and its Enemies" ("Xã hội mở và các kẻ thù
của nó")(7). Ông cho rằng trong cộng đồng khoa học
cũng như trong xã hội, để có tiến bộ và phát triển,
phải chấp nhận có phê phán, mở rộng phê bình các lý
thuyết, chủ thuyết cạnh tranh qua duy lý để đi đến
"sự thật". Thái độ trong “duy lý luận phê bình” có
thể được diễn tả là "anh có thể đúng, tôi có thể
sai, nhưng với một chút cố gắng, chúng ta có thể đến
gần với sự thật". “Duy lý luận phê bình” mạnh dạn
cho rằng có "sự thật" tuyệt đối, và chấp nhận có sự
thiếu hiểu biết trong kiến thức của con người. Nó
kêu gọi cộng tác và cạnh tranh để đưa đến ý niệm
mới, kiến thức mới gần với sự thật, có lợi cho tất
cả mọi người trong xã hội qua quá trình chỉ trích
không giới hạn.
4. Triết lý Thomas Kuhn
Thuyết phản nghiệm của Popper đã có những đóng góp
nhất định trong một giai đoạn, như Kuhn và Lakatos
nhận xét. Tuy nhiên, mô hình "vật lý" quá giới hạn,
nếu phủ nhận một lý thuyết khoa học bởi vì có một
hiện tượng không phù hợp với nó. Sự kiện này không
đúng với thực tế ở các ngành khác. Lý thuyết cũ vẫn
được dùng trong phạm vi giới hạn của nó. Theo Popper
thì tất cả lý thuyết, phương pháp phải khách quan và
phải tách rời khỏi ngôn ngữ và vũ trụ quan của con
người. Kuhn cũng cho là không thực tế.
Triết lý khoa học của Kuhn được trình bày trong
quyển "The structure of scientific revolutions"
("Cấu trúc của các cách mạng khoa học") (8). Đối với
Kuhn, lịch sử khoa học được thể hiện bởi những cuộc
cách mạng về cách nhìn và phương pháp. Thoạt tiên
các nhà khoa học chấp nhận và hoạt động trong khuôn
khổ của một mô thức chính (môi trường khoa học bình
thường) với một số niềm tin sẵn có, được coi như
đúng và truyền đạt trong thế hệ đương thời. Đến khi
có những dị thường (anomalies) xảy ra mà không giải
thích được, bế tắc hay trái ngược với gì được mong
đợi, là khởi đầu của khủng hoảng.
Các nhà khoa học bắt đầu đặt lại câu hỏi về những
điểm cơ bản của mô thức (paradigm) cũ và từ đó các
lý thuyết mới được tạo lập, cho đến khi một trong
các lý thuyết này được chấp nhận vì nó có những
thành tích mà cộng đồng khoa học cho là quan trọng,
đặt nền tảng cho sự hoạt động và phát triển khoa học
trong một hệ thống mô thức mới. Những thành tích này
có thể được gọi là mô thức. Nó là khuôn khổ cần
thiết để nghiên cứu khoa học, nó là một cấu thể đan
nhau lại các lý thuyết và phương pháp của các niềm
tin, tư tưởng. Thuyết của Kuhn cho thấy mô thức (một
tập hợp suy nghĩ, văn hoá, vũ trụ quan của một thời)
thực tế hơn và đã hiện hữu trong khoa học.
Một khi một "paradigm" đã được đa số chấp nhận, nó
được dùng để phát triển với nhiều nghiên cứu tăng
thêm kiến thức, tăng lên sự tương ứng giữa dữ kiện
và tiên đoán dùng "paradigm" làm nền tảng. Đây là
những hoạt động mà Kuhn gọi là "chiến dịch dọn dẹp"
("mop-up operations"). "Paradigm" bắt đầu trở thành
“khoa học bình thường” (normal science). Nghiên cứu
trong “khoa học bình thường” không khác gì giải các
câu đố (puzzles). Thực vậy, một đặc tính của nghiên
cứu trong “khoa học bình thường” là khám phá cái gì
đã biết rồi, chứ không phải hiện tượng hoàn toàn mới
lạ. Trong khuôn khổ ấy, những nghiên cứu không cho
phép tìm thấy những điều mong đợi thì không được
công bố. “Khoa học bình thường” trở thành “bảo thủ”
cho đến khi có khủng hoảng và một cuộc cách mạng mới
ra đời.
Theo Kuhn, thật ra chúng ta không thể có tiêu chuẩn
nào để so sánh các "paradigm", vì mỗi "paradigm" có
các suy nghĩ, cách nhìn và phương pháp hoàn toàn
khác nhau. Mỗi "r trong những hoàn cảnh và điều kiện
đặc thù của chúng. Nói cách khác, các khoa học gia
theo vật lý Newton và khoa học gia theo vật lý
Einstein sống riêng rẽ trong thế giới của nhóm họ.
Vì thế, theo Kuhn, ta đều không thể không chấp nhận
các mô thức "paradigm" của các cộng đồng những người
nghiên cứu khoa học hoạt động theo tiêu chuẩn hệ
thống "văn hoá" riêng của mỗi cộng đồng.
Đây chính là chìa khoá mở rộng khoa học đến nhiều
thành phần trong xã hội, để khoa học không còn là
“sân chơi” của một thiểu số. Nó cũng khởi điểm một
phong trào dùng thuyết của Kuhn để chỉ trích cái gọi
là “khoa học khách quan”, coi đó chẳng qua chỉ là
một hiện tượng xã hội, một thời trang tri thức.
Thuyết của Kuhn đã làm sáng tỏ phương thức hoạt động
khoa học, làm mất đi sự bí ẩn, hào quang và nể sợ
trong quần chúng trước đây về sự tìm hiểu, nghiên
cứu khoa học, và từ đó nó mở rộng cho nhiều giới
tham gia đề cập cũng như tranh luận về khoa học.
Điểm đặc biệt là Kuhn xuất thân là một nhà vật lý
nhưng chính triết lý khoa học của ông lại được dùng
làm nền tảng khởi đầu của các nhà xã hội học và hậu
hiện đại nghiên cứu về khoa học như một hiện tượng
xã hội. Ngẫu nhiên, Kuhn đã tạo ra một sự chuyển
dịch mô thức ("paradigm shift") từ triết lý khoa học
duy lý đến sự nghiên cứu cấu tạo tri thức qua lăng
kính xã hội.
Thuyết của Kuhn ra đời vào đầu thập niên 1960 khi mà
xã hội phương Tây bắt đầu cởi mở về văn hoá, chính
trị với nhiều phong trào phản kháng các nền tảng và
trật tự xã hội hiện hữu. Các nhóm trí thức xã hội
học, triết học, đa số từ phe tả chống lại những gì
đại diện cho chính thống trong xã hội, đã dùng
thuyết của Kuhn để nghiên cứu vấn đề xã hội trong sự
phát triển khoa học và tri thức. Từ đó một ngành mới
được thành hình song song với ngành triết lý khoa
học và lần lần lấn át ngành triết lý khoa học cổ
điển. Ngành mới này sau được gọi là xã hội học về
tri thức khoa học (sociology of scientific
knowledge).
Bản thân Kuhn muốn mình là một triết gia khoa học,
nhưng lý thuyết của Kuhn đã được dùng ngoài dự tính
của ông để đánh đổ chính ngành mà ông muốn tham gia
với tư cách đồng nghiệp của các triết gia trong
ngành triết lý khoa học. Nhưng họ đã không chấp nhận
ông và cáo buộc ông đã kéo khoa học và triết lý khoa
học xuống tâm lý của đám đông (mob psychology) và
coi ý niệm của Kuhn về cái mà ông gọi "khoa học bình
thường" là sỉ nhục cho hoạt động khoa học. Theo họ,
thuyết của Kuhn không đưa ra phương tiện nào giúp ta
chọn lựa một lý thuyết khoa học giữa nhiều lý thuyết
khoa học khác nhau. Chính Kuhn cũng khẳng định ông
là người của khoa học, không cực đoan, và phản đối
việc dùng thuyết của ông trong lý thuyết xã hội.
Nhưng quá trễ, lý thuyết của ông đã không còn là của
ông nữa mà là của tất cả mọi người trong khoa học xã
hội, trong mọi ngành khoa học. Stephen Jay Gould,
nhà cổ sinh vật học, là một người đã dùng quan niệm
chuyển dịch mô thức của Kuhn để đề xuất thuyết tiến
hoá với ý niệm "cân bằng đứt đoạn" ("punctuated
equilibrum"). Trong ngành sinh học tiến hoá, thuyết
của Gould đã bị những người theo thuyết Darwin cổ
điển (9) chỉ trích kịch liệt, một phần cũng vì những
quan niệm khác nhau về khoa học và vai trò của khoa
học.
5. Từ Lakatos đến Feyerabend
Lakatos trước là môn đồ của Popper, ông chấp nhận
một số ý niệm của Kuhn nhưng cải thiện thuyết phản
nghiệm của Popper. Cũng như Popper và Kuhn, Lakatos
không cho rằng lý thuyết khoa học bắt nguồn từ quy
nạp các dữ kiện. Tuy vậy, ông (cũng như Kuhn) không
cho rằng động cơ của tiến bộ khoa học là sự phủ nhận
qua phản nghiệm các lý thuyết khoa học hiện tại,
song là sự phát triển của cái mà ông gọi là những
"chương trình nghiên cứu khoa học". Thật ra "chương
trình nghiên cứu khoa học" cũng tương tự như khái
niệm "mô thức" (paradigm) của Kuhn.
Lakatos cho thấy thêm những khuyết điểm của thuyết
phản nghiệm Popper: một lý thuyết bị phản nghiệm là
sai (do bằng chứng) vẫn có thể được giữ lại nếu có
sự thay đổi về các giả định (assumption) đàng sau
bằng chứng ấy. Ông chỉ trích thuyết Popper vì theo
thuyết này thì chỉ cần một phản nghiệm duy nhất có
tính quyết định (crucial) là phải vứt bỏ ngay một
giả thuyết khoa học. Kuhn cho đó là ngây thơ
(naive), không chín chắn. Không bao giờ có một duy
lý (rationality) tức thì.
Cho rằng phản nghiệm của Popper là ngây thơ, Lakatos
đưa ra một lý thuyết về phương pháp mà ông gọi là
phương pháp "phản nghiệm tinh vi". Theo phương pháp
này, các giả thuyết khoa học chỉ bị loại bỏ khi về
lâu dài chúng không mang lại kết quả, chứ không dựa
vào chỉ một thử nghiệm duy nhất. Ông cho rằng khoa
học là sự phát triển có kế tục của cái mà ông gọi là
các "chương trình nghiên cứu" (research programs).
Cụ thể, một chương trình nghiên cứu được cho là có
"tiến bộ lý thuyết" nếu mỗi lý thuyết của chương
trình đó hàm chứa nhiều nội dung (content) thực
nghiệm hơn chương trình trước, và "tiến bộ thực
nghiệm" nếu một số nội dung thực nghiệm này được
phối hợp kiểm chứng. Nói tóm lại, phản nghiệm kiểu
Lakatos là dựa vào sự liên hệ giữa các thuyết khoa
học, trong khi phản nghiệm kiểu Popper chỉ xem xét
một lý thuyết nào đó có khoa học hay không.
Paul Feyerabend, cũng triết gia người Áo như Popper,
trong tác phẩm nổi tiếng "Against method" ("Chống
phương pháp")(10), đi xa hơn nữa. Feyerabend cho
rằng không có một phương pháp khoa học nào là thích
hợp cho mọi trường hợp, và hô hào "dân chủ" trong
nghiên cứu khoa học. Ông định nghĩa "khoa học là cái
gì mà các nhà khoa học làm"! Feyerabend kêu gọi phân
chia, tách rời ảnh hưởng khoa học ra khỏi xã hội,
giống như tách rời tôn giáo và nhà nước, để tránh sự
độc tôn của một chủ thuyết khoa học trong việc vận
hành xã hội (11).
Ông cho rằng không một phương pháp hay phương thức
nào có thể gọi là chuẩn để tuân theo trong nghiên
cứu khoa học. Nói cách khác, không nên loại bỏ
phương pháp nào. Kết quả của các nhà khoa học dựa
vào các phương pháp không phải lúc nào cũng thành
công. Ta chỉ có thể đánh giá thành tựu sau kết quả
của nghiên cứu, và không thể tiên đoán chắc chắn về
sự thành công của các phương pháp. Công chúng có thể
tham gia vào các cuộc tranh luận khoa học, và nếu nó
có ảnh hưởng đến mọi người trong xã hội thì công
chúng nên tham gia. Khoa học phải được dân chủ hoá
và những khoa học gia thiểu số có ý kiến, phương
thức khác với đa số phải được bảo vệ.
Theo Feyerabend, có nhiều loại khoa học khi con
người tiếp cận với thế giới bên ngoài và học hỏi qua
nhiều phong cách, quan niệm khác nhau. Thí dụ, ở
vùng sa mạc nam California xưa kia có cả ngàn thổ
dân Cuahila mà ngày nay chỉ có một vài gia đình da
trắng có thể ở và tồn tại được. Dân tộc Cuahila sống
được là vì họ có những kiến thức mà họ tiếp thu qua
con đường khác phương pháp mà chúng ta gọi là "khoa
học". Khoa học của Tây phương hiện nay chỉ là một
trong nhiều loại khoa học mà thôi. Chúng ta phải
chấp nhận và sử dụng thành quả kiến thức của các xã
hội bản địa để phục vụ và làm lợi cho họ chứ không
phải áp đặt thay thế hoàn toàn những kiến thức ấy.
Cơ bản, khoa học là một hoạt động "vô tổ chức" và
nhân bản, Feyerabend khẳng định. Vì thế, theo ông,
nên khuyến khích, thúc đẩy sự tiến bộ, thay vì ép
buộc khoa học vào một khuôn khổ được chỉ đạo theo
"luật lệ và trật tự". Một nguyên lý duy nhất không
ngăn cản sự tiến bộ của con người là: tất cả đều
được cho phép và hoạt động. Feyerabend cho rằng nên
bãi bỏ sự phân biệt giữa bối cảnh (context) của sự
khám phá và bối cảnh của sự phản nghiệm, của tiêu
chuẩn, của dữ kiện quan sát. Cố gắng phân biệt chúng
sẽ có những kết quả thảm hại không lường được. Theo
Feyerabend, chủ nghĩa duy lý phê phán của Popper
thất bại là vì thế. Trong xã hội dân chủ, khoa học
phải được tách rời ra khỏi chính quyền cũng như tôn
giáo đã được tách ra khỏi chính quyền như hiện nay;
không một phương pháp hay một tôn giáo nào được độc
tôn trong hệ thống chính quyền xã hội.
6. Hậu hiện đại (postmodernism) và chủ thuyết tương
đối (relativism) trong "chiến tranh khoa học"
Theo nhà vật lý Weinberg thì trong vài năm gần đây
khoa học đã bị tấn công từ nhiều phía đứng chung
dưới bảng hiệu "chủ nghĩa tương đối" (relativism)
hay chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo ông, họ phản bác
tuyên bố của khoa học là khám phá tìm ra sự thật
khách quan. Các nhà triết học hậu hiện đại cho rằng
khoa học chỉ là một hiện tượng xã hội, không khác
chi những hiện tượng xã hội khác như tôn giáo, mê
tín, nghệ thuật. Theo họ, quá trình tiến tới các tư
tưởng khoa học có nhiều yếu tố chủ quan. Như đã
trình bày ở trên, các nhà xã hội học và triết gia
hậu hiện đại đã bị ảnh hưởng lúc đầu bởi ý niệm "mô
thức" (paradigm) của Kuhn, nhưng ta cũng thấy ngay
là triết lý của Feyerabend cũng là một phần chủ yếu
của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Khác với chủ nghĩa lãng mạn (là một phản ứng với một
thế giới quan dựa vào lý trí trong thời Khai sáng,
quan niệm rằng con người nên trở về với thế giới
thiên nhiên, dựa vào cảm tính, tình cảm mãnh liệt và
sự nhất thời), chủ nghĩa hậu hiện đại ít nhất vẫn
tin vào duy lý trong sự tương đối. Như Wilson (12)
đã nói, chủ nghĩa hậu hiện đại mới chính là phản đề
(antithesis) tối hậu của tư tưởng duy lý thời Khai
sáng. Sự khác biệt giữa hai tư tưởng này có thể được
tóm tắt như sau: những nhà tư tưởng khoa học thời
Khai sáng cho rằng chúng ta có thể hiểu biết tất cả,
còn những nhà hậu hiện đại tin rằng chúng ta có thể
không hiểu biết gì hết.
Quan điểm trên của chủ nghĩa hậu hiện đại có thể bắt
nguồn từ sự giảm tin tưởng vào khả năng của khoa học
trong việc giúp con người hiểu rõ và giải quyết các
vấn đề khó khăn trong đời sống. Trước kia, con
người, nhất là từ đầu thế kỷ 20 đến thập niên 1960,
rất tin là khoa học sẽ cho phép hiểu biết cặn kẽ, rõ
ràng mọi vấn đề trong đời sống. Các khám phá khoa
học đã ảnh hưởng rất nhiều lên cuộc sống, nhưng thực
tế cho ta thấy có những hệ thống rất phức tạp, không
tiên đoán chính xác được (như kinh tế, thời tiết,
môi trường, v.v... ).
Các nhà xã hội và nhân chủng học của chủ nghĩa hậu
hiện đại đã đưa ra luận cứ cho rằng ngay cả tiến
trình thay đổi trong các lý thuyết khoa học là một
tiến trình xã hội: hệ thống thẩm định bài vở giữa
các nhà nghiên cứu cùng ngành (peer review) cho thấy
"các sự thật khoa học, thực ra là những thoả thuận
xã hội phổ cập và cái gì là "thật" (real) khoa học,
đạt được rõ ràng qua một "tiến trình khoa học"
thương lượng" (13). "Thương lượng để đi đến kết
luận" là điều đã được chứng minh, hay là một thí
nghiệm tốt, thì cũng rối rắm như bất cứ tranh luận
nào giữa các luật sư hoặc các chính trị gia.
Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành phổ biến và phát
triển rộng rãi trong văn học, nghệ thuật và khoa học
xã hội vì với cái nhìn tương đối trong việc đánh giá
và thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, nó tỏ ra
phóng khoáng và bao gồm. Nó cũng dựa vào triết lý
“hậu cấu trúc luận” (post-structuralism), mà hai
triết gia Pháp Roland Barthes và Jacques Derrida là
tiêu biểu.
“Cấu trúc luận” (structuralism) của Claude
Levi-Straus cho rằng bất luận tác phẩm viết về thiên
nhiên, lịch sử hay chủ đề gì, cả chủ đề lẫn ngôn ngữ
dùng để cấu tạo tác phẩm cũng phải được xem xét trên
một hệ thống rộng lớn hơn, bao gồm quy ước, hoàn
cảnh lịch sử, xã hội trong thời đại mà tác phẩm ra
đời, chứ không chỉ chuyên về chủ đề mà thôi. Do đó
ta có thể dùng hệ thống cấu trúc cùng ngôn ngữ, lý
luận, phương pháp khoa học để khám phá ra sự thật cụ
thể.
Mặt khác, những người hậu cấu trúc luận như Derrida
thì cho rằng cả hệ thống cấu trúc như vậy là tự mâu
thuẫn không tưởng, và sụp đổ do sự thiếu nhất quán
của nó. Ngay cả ngôn ngữ diễn đạt dùng trong tác
phẩm cũng không hàm chứa sự thật, và ý nghĩa của bản
văn luôn thay đổi chứ không cố định. Derrida cho
rằng một cấu trúc (structure) phải có một “trung
tâm” mà các thành phần liên hệ của cấu thể dựa vào.
“Trung tâm” này không thể thay thế được và vì thế
không phải là một bộ phận hoạt động của cấu trúc.
Trung tâm vừa nằm trong cấu trúc vừa nằm ngoài cấu
trúc. Điều này có vẻ như mâu thuẫn. Thí dụ Thánh
Kinh (Bible) có thể được coi là trung tâm của đạo Cơ
đốc, nhưng nếu ta cho rằng Thánh kinh gồm có hai
phần, Cựu ước và Tân ước, thì trung tâm lại đổi
khác. Sự bền vững của cấu trúc vì thế bị tháo giải
ra (deconstruct) và không còn giá trị hay chỉ còn
giá trị tương đối với các khuyết điểm của nó. Để
hiểu một cấu trúc, cần phải phá trung tâm
(de-center) và tháo giải (deconstruct).
Derrida cho rằng tất cả lịch sử khái niệm về cấu
trúc trong tư tưởng chỉ là một chuỗi các sự thay thế
của các trung tâm. Trường phái cấu trúc luận và hậu
cấu trúc luận cũng là sự thay đổi nối tiếp của các
trung tâm với các giá trị khác nhau. Mỗi nền văn hoá
là một tập hợp các niềm tin khác nhau, vì thế có các
trung tâm khác nhau. Tất cả đều tương đối. Không có
một ý niệm nào tuyệt đối khách quan về sự thật.
Theo hậu cấu trúc luận thì không thể nào hoàn toàn
định nghĩa một "văn bản", và không bị giới hạn bởi
nghĩa mà chính tác giả đặt định. Nói cách khác, văn
bản có nhiều tự chủ, trong đó nghĩa của nó được tách
khỏi sự ràng buộc theo ý muốn của tác giả. Muốn hiểu
nghĩa của văn bản sao cũng được vì ngữ và nghĩa luôn
thay đổi, không cố định.
Từ vài thập niên gần đây, có nhiều câu hỏi và tranh
luận, cũng như đụng độ giữa các khuynh hướng khác
nhau về thế nào là khoa học, và phương pháp khoa học
"đích thực" là gì. Quan niệm về các mô thức của
Kuhn, và hậu cấu trúc luận của Derrida như đã trình
bày ở trên, rất ăn khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại.
Theo đó mỗi mô thức đều có giá trị khác nhau và ta
không thể so sánh chúng dựa vào tiêu chuẩn chung
nào, vì chúng hoạt động trong một khuôn khổ, môi
trường với quan niệm khác nhau.
Ngày nay có sự phân chia rất sâu đậm giữa khoa học
theo Popper (chủ yếu là vật lý) và các khoa học nhân
văn xã hội dựa vào Kuhn, Feyerabend và Derrida. Hố
sâu "văn hoá" đó là rất lớn. Nhà vật lý Weinberg đã
công kích các nhóm khoa học nhân văn (humanity
sciences), xã hội văn hoá học (cultural sociology)
theo chủ thuyết hậu hiện đại (post-modernism) khi họ
cho rằng khoa học như ta biết được từ xưa đến nay
đều mang ảnh hưởng và cái nhìn văn hoá của nền văn
minh phương Tây và vì thế phủ nhận tính khách quan
của mọi khoa học. Weinberg, mặc dù rất phục Kuhn,
nghĩ rằng ý niệm "mô thức" của Kuhn quá mơ hồ và đã
bị các nhà hậu hiện đại lạm dụng để đả phá các ngành
khoa học khách quan nhằm lập ra các ngành mới, với ý
đồ.
Rất nhiều người theo chủ thuyết hậu hiện đại tự cho
mình là tiên phong (avant-garde), đã đi vào vật lý
cơ học lượng tử (quantum) hay thuyết hỗn loạn (chaos
theory), những lãnh vực rất mới, thời trang để tìm,
dẫn thêm, phác họa, hay để chứng minh tính chất rời
rạc và ngẫu nhiên của kinh nghiệm con người và tính
chủ quan của môi trường văn hoá xã hội trong mọi
hoạt động của cuộc sống. Cách đây không lâu Sokal
(xem phụ đính) đã tạo một cú sốc đối với nhóm xã hội
học (sociology) và hậu hiện đại, cho phép Weinberg
hân hoan tuyên bố rằng tất cả những môn đồ của khoa
học xã hội theo hậu hiện đại quả thật chỉ là một bọn
bá láp.
Cuộc chiến tranh "hai văn hoá" này đã xảy ra trong
hơn 30 năm qua. Nó tạo ra hình ảnh rập khuôn
(stereotype) về hai phe: một bên là phe Popper "hữu
khuynh", "khách quan", còn bên kia là phe Kuhn -
Derrida thì "tả khuynh", "chủ quan". Không ít khoa
học gia nằm ở hai chiến tuyến, nhưng cũng có một số
nghiên cứu liên ngành nằm giữa hai gọng kìm: khoa
học "cứng" ("hard science") và khoa học "mềm" ("soft
science").
7. Tổng luận về triết lý khoa học ngày nay
Về triết lý, sự khác nhau cơ bản của hai trường phái
trong "chiến tranh khoa học" là tri thức của con
người được "khám phá" (theo phái khoa học khách
quan) hay là được "tạo ra" (theo phái chủ nghĩa
tương đối hậu hiện đại). Theo đó không có đụng chạm
giữa khoa học vật lý và khoa học nhân văn về phương
pháp khoa học và đặc tính chân lý, về sự thật của
tính tương đối hay tuyệt đối trong khoa học ngày
nay. Ngay trong ngành sử học của khoa học nhân văn
cũng có khác nhau giữa trường phái khách quan khoa
học và chủ quan hậu hiện đại, và trong ngành sinh
học trình bày ở phần trên cũng có sự khác biệt phản
ánh qua cuộc tranh luận về khoa học tiến hoá giữa
Gould và những người theo thuyết Darwin cổ điển.
Thí dụ gần đây là cuộc thảo luận sôi nổi về việc có
hay không tính khách quan trong nghiên cứu lịch sử
tại đại học New South Wales ở Sydney (Úc) vào tháng
8, 2002 (18) có sự tham dự của Richard Evans, một sử
gia "trường phái khách quan" ở đại học Cambridge,
tác giả "In Defence of History" ("Bảo vệ lịch sử")
từng là nhân chứng chuyên gia cho vụ án David
Irving. (Irving là sử gia theo phát xít Nazi đã phủ
nhận vụ thiêu người Do thái (holocaust) và dùng mập
mờ, uốn nắn tài liệu sử học để tô hồng hình ảnh của
Đức quốc xã. Irving bị kiện là đã xuyên tạc lịch sử
và xúc phạm nhân bản.) Tại diễn đàn, Evans chỉ trích
các nhà sử học hậu hiện đại khi họ cho rằng không có
gì có thể gọi là sự thật khách quan. Ông hỏi lại:
vậy thì chính câu hỏi này có là sự thật khách quan
không? Richard Evans đưa ra thí dụ về vụ Irving để
khẳng định là có sự thật khách quan. Ông giải thích:
nếu mọi cách nhìn lịch sử đều là đúng thì sự không
có lò thiêu người (như Irving khẳng định) cũng là
đúng sao? Giáo sư Stephen Garton (một sử gia hậu cấu
trúc) ở đại học Sydney nhìn nhận là lịch sử có đúng
hoặc sai, cũng như trong hàng ngũ các nhà hậu hiện
đại có người giỏi người dở, nhưng ông cho rằng một
nhà hậu cấu trúc như Foucault có nhiều cống hiến quí
báu bằng cách dùng tư tưởng này để vạch ra các hướng
đi mới cho sử học như lịch sử sinh lý học, lịch sử
thực phẩm, y khoa v.v..
Keith Windshuttle, tác giả "The killing of history:
how literary critics and social theorists are
murdering our past" (Ám sát lịch sử: các nhà bình
luận văn học và lý thuyết xã hội đã giết chết quá
khứ của chúng ta như thế nào")(19), phát biểu rằng
quan hệ giữa thổ dân và người da trắng trong lịch sử
Úc lúc đầu thường là thân thiện chứ không phải bao
giờ cũng là thù địch, nhằm tiêu diệt nhau. Và việc
chúng ta có thể viết lịch sử một cách khách quan hay
không là tùy thuộc vào hệ thống tôn giáo, chính trị.
Giáo sư Dirk Moses ở đại học Sydney phê bình ý kiến
này của Windshuttle, cho rằng khi ông không dùng
những tư liệu truyền khẩu của thổ dân vì đứng trên
quan điểm của người da trắng thì đấy là điều rất
khách quan, nhưng điều khách quan này thực sự có màu
sắc chính trị, không khách quan.
Behan McCullagh, giáo sư đại học La Trobe, tác giả
"The truth of history" ("Sự thật lịch sử"), theo
trường phái lịch sử khách quan, thì hòa hoãn hơn,
cho rằng các sử gia khách quan cũng đã chấp nhận và
áp dụng một số điểm đúng của hậu hiện đại về ảnh
hưởng của văn hoá, chính trị khi viết sử. Theo
McCullagh, khó có lịch sử nào hoàn toàn đúng, nhưng
không vì thế mà cho là lịch sử sai khi nó không hợp
với thiên kiến của một số người đọc. Ông đưa ra một
ý niệm về thực tiễn, nằm giữa sự thật tuyệt đối và
sự thật tương đối: lịch sử không hoàn toàn nhưng nó
đúng trong những mục đích thực tiễn cốt yếu trong
hoàn cảnh có được. Joy Damoussi, giáo sư đại học
Melbourne, cho rằng tất cả lịch sử đều chủ quan,
nhưng đó cũng không phải là xấu. Rất tốt nếu chúng
ta có nhiều quan điểm khác nhau về lịch sử dưới góc
độ khác nhau của các văn hoá truyền thống, và từ đó
có thể tổng hợp đi đến cái gì gần đúng với sự thật
hơn.
Người phương Tây có khuynh hướng phân tích, máy móc
mổ xẻ vấn đề và tiến đến vĩ mô để hiểu tường tận.
Phân tích là một bộ phận quan trọng nhất của nền
khoa học phương Tây. Cũng không có gì lạ khi mà
triết lý tổng hợp, hợp nhất hoà đồng, ít được phát
triển ở Tây phương. Ngược lại, ở Đông phương, sự
đồng nhất, hợp nhất và khuynh hướng nhìn chủ toàn là
yếu tố quan trọng hơn. Nó thể hiện trong tâm linh,
suy nghĩ và phản ánh trong đời sống xã hội và văn
hoá của người phương Đông.
Để giải quyết sự bế tắc trong cuộc "chiến tranh hai
văn hóa" (cũng gọi là "chiến tranh khoa học") giữa
hai quan điểm trên, cần một khái niệm tổng hợp có
ích cho khoa học tự nhiên lẩn khoa học nhân văn. Như
đã trình bày trên, hiện có khuynh hướng của khoa học
tìm về triết lý tổng hợp của Đông phương để bổ sung
cho triết lý Tây phương.
Edward Wilson (12), người sáng lập ngành "sinh học
xã hội" (sociobiology), đã kêu gọi "đình chiến" và
đưa ra viễn ảnh hợp nhất khoa học tự nhiên, thực
nghiệm với khoa học xã hội qua khái niệm "đồng hợp"
("consilience"). Có lẽ đây là khái niệm tổng hợp
liên ngành nổi bật nhất trong hơn 3 thập kỷ qua.
Đích thân Wilson cố gắng đem sinh học vào khoa học
nhân văn, và kêu gọi các nhà khoa học xã hội mang
kiến thức sinh học vào vấn đề xã hội. Tuy nhiên
nhiều nhà khoa hoc không đồng ý với Wilson. Stephen
Jay Gould (cổ sinh học) và Nils Eldredge (sinh học
tiến hoá) (20), chẳng hạn, cho rằng xã hội và văn
hoá là một hệ thống vô cùng phức tạp, khó có thể đem
hệ thống sinh học vào.
Khuynh hướng và phương pháp tổng hợp tri thức để tìm
và chứng minh một giả thuyết, hay một tri thức mới,
thật sự đã được Whewell đề cập và phát hiện từ thế
kỷ 19. Chính Whewell đã đặt ra từ "đồng hợp" để mô
tả phương pháp này. (Nên nhắc lại, Whewell cũng là
người đặt ra "scientist" hay khoa học gia trong
tiếng Anh.) Theo Whewell, khái niệm "đồng hợp" trong
đó các hiểu biết tìm được qua một phương pháp hay
một ngành nghiên cứu, nếu có những hội ứng bổ xung
hoặc hỗ tương bất ngờ với những kiến thức biết được
qua một ngành nghiên cứu với phương pháp hoàn toàn
khác, sẽ làm ta tin tưởng vào kiến thức và phương
pháp ta đang dùng. Và vì thế giúp ta khám phá được
nhiều điều mới lạ hơn.
Thật ra gần đây, ngoài những người can dự vào cuộc
chiến tranh khoa học, các nhà nghiên cứu khoa học tự
nhiên và nhân văn đã hợp tác hay tổng hợp, dựa vào
các kết quả nghiên cứu của nhau để tìm ra những khám
phá mới. Sự khảo cứu phối hợp liên ngành đòi hỏi các
nhà khoa học hiểu biết những kiến thức ngoài chuyên
môn của mình.
Một thí dụ cho sự khám phá tri thức mới qua cộng tác
liên ngành gần đây là công trình tìm ra được cội
nguồn xuất phát của dân tộc Thái qua ngôn ngữ học,
khoa học hệ thống thông tin địa hình GIS (Geographic
Information System) và canh nông (21). Nghiên cứu
sinh học di truyền của cây ngô (bắp) đã cho thấy nơi
nào ngô đã được dùng trong canh nông đầu tiên và
giúp các nhà khảo cổ học tìm những địa điểm khảo cổ
(22). Ở Việt Nam, nhà sử học Trần Quốc Vượng là một
trong những người đầu tiên đã phối hợp nhiều ngành
để giải đáp nhiều khúc mắc trong lịch sử cổ đại Việt
Nam, mà nếu chỉ dựa vào sử liệu thì là đi vào ngõ
cụt. Nhiều nhà khoa học tự nhiên và nhân văn hiện
nay cũng có khuynh hướng này. Baker (23) nghiên cứu
về những trận đại hồng thuỷ sau thời kỳ Băng hà đã
dùng những dự kiện địa chất, hải dương học, khí
tượng học để nghiên cứu về các trận hồng thuỷ và cho
thấy là có sự hỗ tương không ngờ. Phương pháp cổ
điển dùng quy nạp trong địa chất của Lyell thật sự
không phải là phương pháp để nghiên cứu vấn đề này
mà là phương pháp đồng hợp của Whewell với những
kiểm chứng qua những liên hệ bất ngờ và các giải
thích ngạc nhiên.
Một thí dụ khác là công trình của nhà khoa học y
khoa Stephen Oppenheimer (24). Tác giả này đã kết
hợp kết quả của nghiên cứu di truyền, hải dương học,
khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học,v.v. để tìm
nguồn gốc và sự phát tán văn minh Đông Nam Á đến các
khu vực lân cận và xa hơn nữa trên thế giới sau thời
kỳ băng hà và việc biển tiến ở vùng đồng bằng
Sundaland.
Gần đây các nhà khoa học tự nhiên đã dùng tri thức
về di truyền học để giải đáp về nguồn gốc con người
xuất phát từ Phi châu và toả ra khắp các lục địa.
Kết quả di truyền học thực hiện trên các dân tộc
vùng Á Châu đã cho thấy rõ, cũng có con người đi từ
Đông Nam Á đến Trung Quốc góp thành các dân tộc ở
Đông Á (25); điều này hợp với thuyết về nguồn gốc
phương Nam của nhiều thành phần truyền thống văn
hoá, văn minh phía Bắc. Các nhà khoa học tự nhiên đã
giúp giải đáp các câu hỏi then chốt trong các ngành
khảo cổ, nhân chủng và xã hội học.
Tóm lại, phương pháp đồng hợp đã bắt đầu có những áp
dụng thực tiễn trong nhiều ngành khác nhau, và đã
cho thấy những khám phá bất ngờ. Điểm đặc biệt của
phương pháp này là nó không bó buộc các nhà nghiên
cứu phải theo một phương pháp tiêu chuẩn chung nào.
Quan điểm này phù hợp và không trái lại với triết lý
hậu hiện đại. Từ nhiều phương pháp khác nhau, đứng
từ quan điểm lịch sử phát triển riêng của các ngành,
"đồng hợp" giúp ta tổng hợp kiến thức và tăng thêm
tin tưởng vào các khám phá khoa học.
Con người trong xã hội thường sống trong các môi
trường cạnh tranh, và mong ước có một phương tiện
điều hòa, một tiêu chuẩn khách quan để giải quyết
tranh chấp. Một trong những phương tiện mà nhiều
người cho là khách quan và gần với sự thật là khoa
học. Nhưng như ta đã thấy, khoa học cũng tương đối
và tuỳ thuộc vào văn hoá, thời điểm, và không hoàn
toàn khách quan. Từ đó dẫn đến dân chủ trong đa
phương pháp và sau cùng khoa học là "khoa học" được
chấp nhận bởi đa số khoa học gia. Trong số các
phương pháp khoa học cạnh tranh nhau, phương pháp
khoa học nào không mang lợi ích cho con người trong
việc tìm hiểu hay áp dụng khoa học sẽ bị loại bỏ, số
còn lại sẽ được chấp nhận tùy theo hoàn cảnh áp
dụng. Sau "Hội nghị Thế giới về Khoa học" (World
Conference on Science) tổ chức ở Budapest năm 1999,
Hội đồng Khoa học Thế giới (International Council
for Science, ICSU) đã ra thông cáo đánh giá sự đóng
góp vào khoa học và viễn tượng tương lai của tri
thức truyền thống bản địa (traditional knowledge),
lập ra chương trình hành động kêu gọi sự liên hệ và
hợp tác giữa khoa học và khoa học truyền thống bản
xứ. Tuy nhiên ở Đại hội của Hội đồng Khoa học Thế
giới (ICSU), có những quan tâm đã được nói lên, và
Đại hội đã biểu quyết đồng ý phải phân biệt giữa tri
thức truyền thống và khoa học và những phương pháp
tiếp cận khuyến khích ngụy khoa học và phản khoa học
(26).
Một Nhóm Nghiên cứu được thành lập để giải quyết vấn
đề khúc mắc này. Dưới sự lãnh đạo của nhà toán học
Na Uy Jens Erik Fenstad, nhóm này quy tụ các nhà
khoa học ở nhiều nước thuộc các ngành khác nhau như
xã hội học, triết học khoa học, thảo vật học, kỹ
thuật. Nhiệm vụ của Nhóm Nghiên cứu rất quan trọng
vì nếu không cẩn thận, có thể dễ dàng gây ra sự chia
rẽ trầm trọng trong Hội đồng về quan điểm khoa học,
như ta đã chứng kiến trong "chiến tranh khoa học".
Năm 2002, Nhóm Nghiên cứu đã ra bản tường trình với
các hướng dẫn về "tiêu chuẩn" dùng tri thức qua các
loại "khoa học" khác nhau, nhất là sự liên quan giữa
tri thức truyền thống bản xứ chẳng hạn như y học
truyền thống dân tộc (traditional medicine) và khoa
học hiện đại để phân biệt với "ngụy khoa học" )
chẳng hạn như thuyết "ngụy khoa học" cho rằng thế
giới tạo ra bởi thượng đế (creation science) .
Hướng dẫn này đưa ra hai phương án để phân biệt khoa
học, ngụy khoa học và tri thức truyền thống bản xứ
và được tóm tắt như sau. Mặc dầu không có một tiêu
chuẩn duy nhất chung để phân biệt khoa học với ngụy
khoa học nhưng có hai phương án tổng quát để tiếp
cận vấn đề, phương án xã hội và phương án tri thức
học. Phương án xã hội cho rằng ngành ngụy khoa học
luôn luôn cạnh tranh công khai, ít hay nhiều, với
một ngành khoa học tương ứng từ lúc khởi đầu của
ngành này, và thường không được đưa ra từ các nhân
vật đã được đào tạo trong ngành khoa học đó. Phương
án xã hội phải được bổ túc bằng phương án tri thức
học qua đó khoa học có tính cách hệ thống hơn tri
thức thường ngày. Có 6 phương diện để một hệ thống
được gọi là khoa học: nó diễn tả cách nào, nó giải
thích ra sao, nó thiết lập được tri thức bằng cách
nào, nó phải có một lý thuyết, trường hợp về sự hoàn
toàn, toàn vẹn, nó mở rộng tri thức ra sao và nó
diễn đạt tri thức thế nào. Trong mọi ngành khoa học,
ta có thể thấy khuynh hướng tăng trưởng tri thức có
hệ thống ở mọi hướng, mọi mặt. Trái lại, hầu hết các
ngành ngụy khoa học đều không năng động và dậm chân
tại chỗ. Tri thức truyền thống bản xứ rất dể phân
biệt với ngụy khoa học, vì tri thức truyền thống là
một hệ thống tri thức thâu thập từ nhiều thế hệ, với
cách làm, thực hành được gìn giữ, phát triển bởi một
sắc dân có lịch sử cộng sinh lâu dài với môi trường
thiên nhiên. Nó có nguồn gốc từ một văn hoá khác với
văn hoá Tây phương và vì thế độc lập và không cạnh
tranh với khoa học.
Phụ đính
Hiện tượng Sokal
Khoảng cuối năm 1994, nhà vật lý Alan Sokal đã gởi
bài cho Social Text, một tạp chí nghiên cứu văn hoá,
xã hội có tiếng ở Mỹ. Bài của ông được đăng trong số
Xuân/Hè 1996, chuyên đề "Chiến tranh Khoa học". Tựa
của bài là "Transgressing the boundaries - Toward a
transformative hermeneutics of Quantum gravity"
("Vượt quá các biên giới - Đi đến một biến đổi
nghiên cứu văn bản của lực hút lượng tử")(14), rất
tiêu biểu cho loại thảo luận, nghiên cứu của tạp chí
này và những tạp chí triết học xã hội tương tự. Ngay
cả tựa đề, ngôn từ dùng rất thời trang và khó hiểu
(rất nhiều nhà khoa học phải tra từ điển từ
"hermeneutics", một ngành triết học nghiên cứu nghĩa
và diễn giải văn bản (15)). Như nhiều bài khác trong
tạp chí, bài của Sokal cũng đã chỉ trích, bài bác
cái gọi là khoa học khách quan, một giáo điều của
thời Khai sáng. Nhưng khác những bài kia, Sokal đã
cố ý dùng những lý luận lệch lạc, viết sai những lý
thuyết và sự kiện vật lý nằm trong những câu văn với
những từ ngữ mang màu sắc rất hậu hiện đại.
Sau khi bài được đăng, Sokal viết một bài trên tạp
chí Lingua Franca(2) trong đó ông tiết lộ là bài ông
gởi cho Social Text chứa đầy những sai lầm lý luận,
với những sự kiện vô lý, vô nghĩa trong vật lý học,
mà bất cứ ai có vài hiểu biêt về vật lý cũng có thể
thấy rõ là vô nghĩa, cũng có thể ngạc nhiên về sự
ngây thơ, và biết ngay là bài chỉ để đùa cợt, chế
nhạo, khôi hài. Thế mà các nhà biên tập của Social
Text đã đăng mà không kiểm trước với các nhà vật lý,
chỉ vì bài có ý và kết luận đúng với ý thức hệ có
sẵn và định kiến của Social Text. Sokal còn cho thấy
rõ, cả tạp chí và cộng đồng gọi là khoa học xã hội
theo hậu hiện đại thiếu tiêu chuẩn nghiêm ngặt về
trí thức và đầy ý thức hệ, định kiến sẵn, cố ý tự
mình khép đóng. Họ không bao giờ có tinh thần học
hỏi điều nghiên theo tư cách của các nhà khoa học
chân chính, tôn trọng và thẩm định những ý kiến,
nghiên cứu dù khác hoặc trái với tư tưởng và phương
pháp của mình.
Bài của Sokal đã có tiếng vang rộng lớn ngoài cộng
đồng triết học, khoa học. Nó làm xôn xao và gây
tranh cãi, bình luận trên nhiều tạp chí và diễn đàn
của nhiều ngành, cũng như trên báo chí ở Mỹ, Âu châu
và nhiều nước khác. Sokal, sau đó với sự cộng tác
của nhà vật lý và triết học Bỉ Jean Bricmont, ra
quyển sách "Fashionable nonsense: Postmodern
intellectuals's abuse of science" (16) (bản Pháp ngữ
là "Impostures intellectuelles") trình bày cặn kẽ sự
lạm dụng các thuyết và từ ngữ trong toán học và vật
lý của một số trí thức hậu hiện đại ở Pháp, như
Bruno Latour, Gilles Deleuze, Jacques Lacan, Julia
Kristeva, Luce Irigary, Jean Baudrillard, và Paul
Virilio. Sokal và Bricmont vạch rõ sự vô nghĩa và
thiếu hiểu biết toán học và vật lý trong các bài
viết của những người này và cho thấy họ không hiểu
chính những gì họ viết. Quyển sách cũng cho thấy sự
rỗng tuếch, dùng sáo ngữ làm bình phong cho những tư
tưởng vô nghĩa của một số triết gia, đa số là thiên
tả, ở Pháp có ảnh hưởng đến các trí thức ở Mỹ. Những
từ ngữ thời thượng mang tính triết học hậu hiện đại
rất khó hiểu ngay cả đối với những người trong
ngành, theo Sokal và Bricmont, thật ra chỉ là sáo
ngữ che giấu sự thiếu hiểu biết của chính họ về
những đề tài thời thượng. Nhiều nhà triết học và
khoa học đã cho rằng đây là một trong những quyển
sách quan trọng nhất về triết học khoa học trong thế
kỷ 20.
Trong bài đăng ở Social Text, Sokal cũng chế nhạo sự
thiếu hiểu biết về vật lý của các nhà hậu hiện đại
khi dùng từ tuyến tính "theo đường thẳng" (linear)
mà theo họ là cũ, không hợp thời, thiếu sáng tạo,
trong khi họ nghĩ từ vô tuyến tính "theo đường cong"
(non-linear) là tiên phong và phong phú hơn. Trong
bài ấy Sokal cũng bàn về tầm quan trọng trên phương
diện văn hoá của thuyết lượng tử trọng lực (quantum
gravity), dùng trọng lực trường là một toán tử
(operator) "không hoán chuyển"(noncommuting) và vì
thế "theo đường cong". Đó là một phát biểu cố tình
sai lầm của Sokal, vì "không hoán chuyển" không có
nghĩa là "theo đường cong". Ai học vật lý đều biết
là trong cơ học lượng tử có nhiều đặc tính "không
hoán chuyển" nhưng đồng thời cũng có tuyến tính
"theo đường thẳng". Thế mà không ai trong ban biên
tập Social Text thấy điều này vì cứ nghĩ rằng không
tuyến tính "theo đường cong" là tiên phong, mới mẻ.
Sokal là nhà vật lý phái tả, từng tình nguyện đi dạy
toán ở Nicaragua trong thời chính phủ cách mạng
Sandinista. Vì thế, trong bài viết trên Lingua
Franca, ông cũng tỏ vẻ buồn là các nhà hậu hiện đại,
đa số là phái tả, đã không dùng lý trí khoa học
khách quan để chống lại mê tín huyền bí như truyền
thống phe tả, mà lại đả phá phương pháp khoa học
khách quan để trở về với huyền bí, hỗn độn của
nguyên thuỷ.
Sự tiết lộ về mục đích của Sokal đã gây tranh cãi về
quy trình chọn bài. Các nhà biên tập của tạp chí
Social Text giải thích rằng họ nhận đăng bài Sokal
là vì họ thấy đấy là cố gắng của một nhà vật lý tìm
kiếm bằng chứng trong triết lý hậu hiện đại để phát
triển ngành của mình, và Social Text không phải là
tạp chí khoa học có hệ thống kiểm bài (peer review)
mà là tạp chí ý kiến. Một số nhà xã hội học như
Steve Fuller cũng đã trả lời giận dữ là Sokal đã lạm
dụng sự tin tưởng của ban biên tập và như vậy là
thiếu tư cách. Ảnh hưởng và dư âm của sự kiện Sokal
mạnh nhất là ở Pháp, nơi rất nhiều nhà triết học hậu
hiện đại tiên phong bị "lột mặt nạ".
Bên cạnh vấn đề sử dụng hay lạm dụng lý thuyết khoa
học để hậu thuẫn cho những lý thuyết, triết học hậu
hiện đại của một số trí thức, như Sokal và Bricmont
đã trình bày, chính đáng hơn là nghiên cứu xã hội về
cách ứng xử trong hoạt động khoa học của cộng đồng
khoa học gia. Harry Collins (17), nhà xã hội học
chuyên về tri thức, kiến thức khoa học, tuy đồng ý
với Bricmont rằng các nhà xã hội học, sử học về khoa
học nên biết nhiều hơn về khoa học, vẫn nghĩ rằng
vấn đề có thể đuợc tiếp cận từ một gốc độ khác. Theo
Collins, nếu ta phân biệt chủ nghĩa "tương đối triết
học" và "tương đối về phương pháp" như Bricmont đã
luận cứ, thì chính sự tương đối của phương pháp mới
là có giá trị. Đó mới chính là điểm cơ bản để thảo
luận trong ngành xã hội học về tri thức khoa học
(sociology of scientific knowledge). Như vậy các nhà
xã hội học trước tiên không nên có thành kiến là
không biết nhiều đến các khoa học khác. Nghĩa là họ
không nên biết nhiều khoa học hơn cả các nhà khoa
học để nghiên cứu về các hiện tượng xã hội. Đưa ra
các thí dụ trong lãnh vực vật lý như thí nghiệm
Michelson-Morley và máy của Dayton Miller nhằm tìm
sự hiện hữu và độ dời của "ether" (ether drift)
trong thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng. Miller được
giải thưởng của Hiệp hội Ủng hộ Sự Tiến bộ của Khoa
học Mỹ (American Association for the Advancement of
Science), trong khi Michelson-Morley không tìm được
độ dời ether. Sau này các nhà vật lý mới phát giác
là Miller đã sai. Nếu đòi hỏi các nhà khoa học xã
hội nghiên cứu vụ này phải có những kiến thức vật lý
mà chính Miller thời đó cũng chưa đạt được thì thật
là vô lý.
Collins cũng cho rằng việc các khoa học gia trong
các lãnh vực hiện được nghiên cứu có nhiều ý kiến
khác nhau, có bất đồng trong một khoảng thời gian
ngắn nào đó, là thường tình. Ngay cả khi có thêm
nhiều dữ kiện, quan sát, tri thức hay lý thuyết hiện
đại hơn, sự bất đồng vẫn còn chưa được giải quyết,
ít nhất là thoả đáng giữa các bên đối nghịch nhau.
Điều này có nghĩa là tất cả các tuyên bố gọi là khoa
học đều cần được diễn giải theo ý của cộng đồng khoa
học. Trong khoảng thời gian "ngắn hạn", quan điểm
cho rằng cần có sự đồng thuận, ngay trong ngành
"cứng" nhất của khoa học, là một quan điểm không
thực tế. Thực tế cho thấy có nhiều góc cạnh, phương
pháp, lý thuyết khác nhau trong khoa học mà ta chưa
thẩm định hết giá trị. Không có phương pháp nào là
tuyệt đối. Đây chính là quan điểm của cái gọi là chủ
nghĩa tương đối phương pháp (methodological
relativism).
Tham khảo
(1) Weinberg, S., "Facing up: Science and its
cultural adversaries", Harvard University Press,
1999.
(2) Sokal, A., "A physicist experiments with
cultural studies", Lingua Franca, May/June 1996, pp.
62-64.
(3) Verran, H., "Science and an African logic",
University of Chicago Press, 2001.
(4) Weinberg, S., "Dreams of a final theory",
Patheon books, New York, 1992.
(5) Popper, K., "Unended quest: an intellectual
autobiography", Routledge, Edition 5, 2002.
(6) Popper, K., "Objective knowledge, an
evolutionary approach", Clarendon Press, Oxford,
1989
(7) Popper, K., "The Open Society and its enemies",
Routledge & Kegan Paul, London 1966.
(8) Kuhn, T., "The structure of scientific
revolutions", University of Chicago Press, 1966.
(9) Sterelny, K., "Dawkins vs Gould: Survival of the
fittest", Totem Books, 2001.
(10) Feyerabend, P., "Against method", Verso Books,
Edition 3, Sep. 1993.
(11) Feyerabend, P.,"Explanation, reduction and
empiricism", In Feigl/Maxwell, Scientific
Explanation: Space and Time, University of Minnesota
Press, 1962.
(12) Wilson, E., "Consilience, the Unity of
knowledge", Knopf, 1998.
(13) Pickering, A., "Constructing Quarks: A
sociological history of particle physics", Chicago,
Chicago University Press, 1984
(14) Sokal, A., "Transgressing the boundaries -
Toward a transformative hermeneutics of Quantum
gravity", Social Text, 46/47, 1996, pp. 217-252.
(15) Weinberg, S., "Sokal 's hoax", The New York
Review of Books, Vol XLIII, nọ 13, pp. 11-15, Aug.
8, 1996.
(16) Sokal, A., Bricmont, J., "Fashionable nonsense:
postmodern intellectuals's abuse of science",
Picador USA, Oct 1999.
(17) Collins, H., "What's wrong with relativism",
Physics World, Apr 1998.
(18) Keenan, C., "In the right corner..", Sydney
Morning Herald, Aug 17 - 18, 2002.
(19) Windshuttle, K., "The killing of history: How
literary critics & social theorists are murdering
our Past", Encounter Books, 2000.
(20) Eldredge, N., Gould, S., "Biology rules",
Civilization 5 (Oct/Nov): 86 - 88.
(21) Luo W., Hartmann, J.F, Li, J. and Sysamouth V.,
"GIS Mapping and analysis of Tai linguistic and
settlement pattern of Southern China", Geographic
Information Sciences, 2000, 6(2):129 - 136. (xem
thêm ở NASA web
http://earthobservatorỵnasạgov/Study/TaiLanguage)
(22) Smith, B., "Documenting plant domestication:
The consilience of biological and archaelogical
approaches", Proceedings of National Academy of
Sciences (PNAS, Feb. 13 2001, Vol. 98, no 4, pp.
1324-1326.
(23) Baker, V., "The study of superfloods", Science,
295, 2379 - 2380 (March 29 2002)
(24) Oppenheimer, S., Eden in the East, the drowned
continent of Southeast Asia, Phoenix, 1998.
(25) Nguyễn Đức Hiệp, Khám phá mới di truyền học về
nguồn gốc con người ở Đông Á, Ts Tư Tưởng, Số 7,
trang 9 - 13, 4/2000.
(26) International Council for Science, ICSU,
"Science and traditional knowledge", Report from the
ICSU Study Group on Science and Traditional
Knowledge, March 2002.
(27) Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại: những
khái niệm căn bản, Tạp chí Việt, Số 7, 2001.
(28) Ayer, A.J., “Language, Truth and Logic”, New
York: Dover Publications, 1952.
[**] Từ "science" đã có từ thế kỷ 13, được các nhà
lý luận Pháp dùng rất rộng rãi trong thế kỷ ánh
sáng, cũng như chữ "scientifique" dùng như tính từ.
(cf. các trích dẫn trong Littré) Còn
"L'Encyclopédie" của nhóm Diderot, mà quyển đầu ra
năm 1751, có tên dài hơn là " Dictionnaire raisonné
des sciences, des arts et des métiers" . W. Whewell
đặt ra từ scientist - tiếng Pháp là scientifique
(danh từ).
Nguyễn Đức Hiệp
Chuyên viên khoa học khí quyển và môi trường, Cơ
quan bảo vệ môi trường ở New South Wales,
Australia
Đã đăng trên
Thời Đại Mới
|