Lời vào đề
Nguyễn Xuân Xanh - Nguyễn Văn Nhã
Cuộc đại khủng hoảng tài chính
2008 chủ yếu xảy ra tại Mỹ và các nước công nghiệp Tây Âu. Nhưng vì Mỹ
và Tây Âu là những trung tâm tài chính lớn của thế giới, cho nên cuộc
khủng hoảng tài chính này đã nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. Diễn
biến của cuộc khủng hoảng đã bắt đầu từ mùa hè năm 2007, và kéo dài cho
đến nay vẫn chưa kết thúc.
Đỉnh cao là sự sụp đổ của nhiều ngân hàng đầu tư khổng lồ ở Wall Street
(New York) vào giữa tháng 9 năm 2008. Chính phủ Mỹ đã phải vội vã nhảy
vào can thiệp, bằng cách tung tiền ra cứu nguy cho các định chế tài
chính lớn nhất. Trong đó, phải kể tới hai công ty bảo hiểm bất động sản
lớn nhất của Mỹ, Fannie Mae và Freddie Mac., và công ty AIG, công ty bảo
hiểm lớn hàng thứ ba trên thế giới.
Vào tháng
9-2008, nhiều người đã nghĩ là cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã kích
hoạt sự sụp đổ thị trường chứng khoán tại các quốc gia vùng ngoại vi của
thế giới tài chính, kể cả bốn nước khổng lồ có nền kinh tế đang nổi lên
thuộc khối BRIC (Brazil, Russia, India, China). Điều này thực tế đã xảy
ra, và người ta có thể gọi đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
làm cho họat động thương mại và đầu tư trên thế giới tuột dốc chưa từng
thấy trong lịch sử. Cũng có người cho rằng hiện tượng phản ứng dây
chuyền này trong thế giới tài chính chứng tỏ rõ rệt là không có sự cách
ly giữa các nước công nghiệp phát triển và phần còn lại của thế giới.
Tuy nhiên, bắt đầu từ mùa xuân năm 2009, các thị trường chứng khoán của
các nước vùng ngoại vi lại có dấu hiệu phục hồi một cách vững chãi, sớm
hơn hẳn thị trường tại các quốc gia công nghiệp. Hậu quả là hoạt động
kinh tế (sản xuất, thương mại, đầu tư…) của các quốc gia vùng ngoại vi
không bị suy thoái trầm trọng, mà chỉ giảm nhẹ. Cụ thể nhất là mức tăng
trưởng của Trung Quốc vẫn ở mức 6-8 %, ở Việt Nam từ 3-5 %, theo
như
dự báo của các tổ chức tài chính quốc tế, như Ngân hàng thế giới và Quỹ
Tiền Tệ Quốc tế. Điều này có nghĩa là, về phương diện kinh tế, có lẽ có
một sự cách ly nào đó chăng giữa hai thế giới: Thế giới công nghiệp như
Mỹ và Tây Âu suy thoái trầm trọng (tăng trưởng giảm từ 4-6 %), trong khi
thế giới của các quốc gia mới nổi lên vẫn tiếp tục tăng trưởng, mặc dù
có giảm so với những năm trước. Sự cách ly này cho phép các nhà làm
chính sách ở mỗi quôc gia mới nổi
(cần)
có đường hướng riêng của mình, tùy theo tình hình cụ thể ở mỗi nơi,
không thể lấy nước này làm mô hình cho nước khác được. Cuộc đại khủng
hoảng làm lộ rõ thế giới hiện nay là đa cực. Các cực và khu vực
ảnh hưởng của nó đều bị chao đảo, nhưng ở các mức độ khác nhau.
Theo ý kiến của
nhiều chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính chủ yếu xảy ra tại
Mỹ, và một số quốc gia Tây Âu đã đi theo đường lối Tân Tự do của
chính quyền R.Reagan từ những năm 1980. Chính sách này đã bãi bỏ sự kiểm
tra chặt chẽ hoạt động tài chính của các ngân hàng đầu tư, và xóa bỏ
ranh giới giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Nhờ thế, các
ngân hàng đầu tư đã có thể tiến hành nhiều phi vụ mang tính rủi ro cao
độ trong hoạt động đầu tư, nhất thời thu hút rất mạnh dòng vốn thế giới
vì tính chất “lợi nhuận cao và nhanh chóng”, đã tạo nên một trời bong
bóng khổng lồ thấy chóng mặt, đẩy toàn bộ vật giá thế giới lên cao ngất
ngưỡng, nhưng cuối cùng đã đi đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống. Cổ xe
Tân Tự do và uy tín những người đã từng cổ xúy cho nó bị sụp đổ và phá
sản hoàn toàn trong chốc lát. Số người hưởng lợi của gần 30 năm chế độ
Tân Tự do (1980-2008) chỉ có rất ít, giới hạn trong giới tư bản tài
phiệt tại Mỹ và Tây Âu. Người thua thiệt là các nước mới nổi, mang tiền
tiết kiệm qua Mỹ và Tây Âu để đầu tư trong bất động sản cũng như trong
thị trường chứng khoán. Nặng nề nhất là Trung Quốc và Nhật Bản, mỗi quốc
gia này đã mua tới hàng ngàn tỷ USD công trái và tín phiếu của Mỹ.
Tiền lời khổng
lồ của các nhóm tài phiệt đã được chuyển qua các nước nhỏ li ti, “thiên
đàng về thuế”, ví dụ như đảo Cayman ở vùng biển Trung Mỹ. Tại đây, hàng
ngàn tỷ USD đã được tảy rửa sạch sẽ, rồi được chuyển ngược về Mỹ để mua
công trái của chính phủ Mỹ.
Khi thị trường
tài chính sụp đổ, chính phủ Mỹ đã phải đi vay nợ hàng ngàn tỷ USD, và in
mới hàng ngàn tỷ USD khác, để cứu nguy các định chế tài chính lớn. Hậu
quả rõ rệt là gánh nặng trả nợ trong tương lai sẽ đè nặng lên vai quần
chúng lao động Mỹ. Cùng lúc, sự phát hành hàng loạt tiền giấy đô la sẽ
làm cho đồng tiền này, trong tương lai, mất giá. Như thế, sẽ làm mất giá
trị, các quỹ dự trữ quốc gia của các nước mới nổi, và các quỹ tiết kiệm
của người lao động tại Mỹ. Nói cách khác, chính sách cứu nguy tài chính
của chính phũ Mỹ là một biện pháp chuyển nhượng tài sản từ các nước mới
nổi về tay giới tài phiệt quốc tế, mà đa số là ở Mỹ.Và chuyển nhượng của
cải của giới lao động vào tay giới chủ ngân hàng.
Trước tình hình
như vậy, chúng tôi mạo muội chọn lọc một số bài báo có tính phân tích
và phê phán trên phương diện vĩ mô, đã được đăng trên các tờ báo có tên
tuổi của Mỹ và Tây Âu, để dịch sang tiếng Việt, với mục đích không gì
hơn là cung cấp cho bạn đọc một số thông tin về tình hình tài chính,
kinh tế hiện nay của Mỹ, và của một số đối tác liên hệ, trong đó có
Trung Quốc, nước đang giữ một vai trò khá quan trọng trong giai đoạn
khủng hoảng này.
Vì đây là một
đề tài rất lớn, cho nên các bài báo được chọn chỉ trình bày
(được)
một số khía cạnh của vấn đề. Phần còn lại, rất lớn, hy vọng các nhà kinh
tế chuyên nghiệp sẽ tiếp tục phân tích và cung cấp thêm thông tin cho
bạn đọc.
Cuộc đại khủng
hoảng này không thể dễ quên đi trong ký ức của nhân loại. Và cùng với
nó, tất cả những bài viết nhận định, mổ xẻ, đánh giá, tiên đoán qui mô
toàn cầu được cô đọng trong tập sách này, nhằm giúp bạn đọc hiểu thêm
tính chất nghiêm trọng của nó đối với sự sống còn của toàn nhân loại và
những lối ra có thể có được gợi ý từ đó.