Điểm sách
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Thú của Khoa học"
Nhóm chủ biên: Cao Chi – Chu Hảo
– Pierre
Darriulat – Nguyễn Xuân Xanh –
Phạm Xuân Yêm

Ảnh minh hoạ mô hình chuẩn bằng hoa và giấy
của Nguyễn Hữu Khánh, nhà vật lý hạt
thực nghiệm đã làm việc nhiều năm ở CERN, DESY, SLAC. Thân cây là hạt boson
Higgs.
Nhánh phải là các hạt tải lực, bên trái là các hạt vật chất gồm các quark và
lepton
LỜI PHI LỘ
Quý độc giả kính mến,
Các quốc gia phát triển và nhiều quốc gia khác trên thế
giới hiện nay đều có những hạt Higgs của mình cho đọc giả đại chúng. Nay
chúng ta cũng có một hạt Higgs cho đọc giả Việt Nam.
Quyển sách Kỷ yếu Hạt Higgs mà quý đọc giả cầm trên tay
là kết quả của những nỗ lực của các nhà khoa học sống ở Việt Nam cũng như ở
hải ngoại. Nếu tính từ ngày chúng tôi gửi lời kêu gọi tham gia vào đầu tháng
8 năm 2012 cho đến nay đã một năm rưỡi trôi qua, một thời gian dài ‘kỷ lục’
trong cuộc đời các số kỷ yếu. Cao nhất có lẽ là thời gian của Kỷ yếu Đại học
Humboldt là một năm. Quả là hạt Higgs ‘khó tìm’, trong thực nghiệm, cũng như
trong dạng một Kỷ yếu, vì nó không dễ nắm bắt. Nhưng có sao đâu. Thế giới đã
chờ 48 năm để tìm hạt boson Higgs thì chúng ta chờ thêm nửa năm nữa thì có
sao đâu. Vả lại, vô tình Giải Nobel 2013 đã ‘hâm nóng’ đề tài hạt Higgs của
Kỷ yếu, làm cho nó trở nên ‘hấp dẫn’ gấp bội.
Cơ chế Higgs và Mô Hình Chuẩn, lý thuyết của các hạt cơ
bản tạo ra khối lượng thấy được của vũ trụ, là cuộc hành trình kỳ thú của
thế kỷ 20, của các nhà vật lý lý thuyết và thực nghiệm. Không ai ngờ cơ chế
Higgs để tạo khối lượng, mô hình Quark, sự thống nhất hai lực điện từ và lực
yếu, lực mạnh điều khiển và giam các quark, những viên gạch nhỏ nhất mà loài
người muốn đi tìm từ thời cổ đại, đã xuất hiện một cách rất ngạc nhiên như
những mảnh zig zag liên kết nhất quán với nhau của một bức tranh vô cùng thú
vị của tạo hóa. Cơ chế Higgs và gắn liền với nó là sự phá vỡ đối xứng của
thuyết điện yếu thống nhất là ‘chứng tích’ của sự tiến hóa của vũ trụ, đúng
như kịch bản big bang đề ra.
Sự khám phá hạt Higgs là một xác nhận trọn vẹn Mô hình
Chuẩn giải thích sự vận hành và tương tác của các hạt cơ bản tạo ra vũ trụ
này, trong đó có chúng ta, có hành tinh xanh yêu dấu của chúng ta, có dải
ngân hà kỳ vĩ. Không có hạt Higgs, không có nguyên tử, không có hành tinh,
và không có chúng ta. Ngày 4 tháng 7 năm 2012 do đó là “ngày vĩ đại” của vật
lý hạt, và của trí tuệ nhân loại.
Thượng đế tinh tế nhưng không ‘thâm hiểm’ như Einstein
nói ư? Chính ông cụ đi tìm hoài bản đồ tạo hóa, nên bực bội nói thêm: Có thể
Thượng đế ‘thâm hiểm’ lắm. Và nhìn vào cấu trúc của các hạt, với những tính
chất lượng tử nhiều lớp không ngờ của chúng, với những lực quản lý và kết
chúng lại trong lòng các nguyên tử cũng rất ư lạ thường, có người cũng đi
đến suy nghĩ, “Trời cao có thể thâm hiểm lắm”, ông không dễ tiết lộ một cách
dễ dàng ‘cơ trời’ tạo ra khối lượng của vật chất của chúng ta đâu. Con người
‘thơ ngây’ và hời hợt, chờ đợi những cái quá dễ dàng. Thế giới và chúng ta
được tạo ra dễ dàng hay sao? Nhưng rồi qua Mô Hình Chuẩn và Hạt Higgs con
người đã bắt đúng mạch tư duy của Thượng đế, ‘y chang’ như Ngài nghĩ.
Vẻ đẹp của Mô Hình Chuẩn và Cơ chế Higgs không trực quan
gọn gàng như thuyết tương đối hay lượng tử. Có những cái cũng trực quan
được, dễ hình dung, nhưng khi đi vào nhiều chi tiết thì tình hình phức tạp
hơn. Ở đây chúng ta có ‘vẽ đẹp lạ’ (strange beauty), như tiêu đề của
một quyển sách về Murray Gell-Mann, ‘vua của hạt cơ bản’, vì rất nhiều thứ
đều lạ mắt cả. (Dĩ nhiên thuyết thương đối hay lượng tử đều lạ mắt cả.) Lạ
và, xét về kỹ thuật, cũng phức tạp nữa. Ở tận cùng đáy sâu của chân lý, tạo
vật không quá đơn giản. Vì thế nên nhà vật lý lý thuyết Sidney Coleman của
Đại học Havard, học trò của Murray Gell-Mann, mới dám nói một cách ‘khiêu
khích’ rằng, một ngàn nhà triết học trong một ngàn năm cũng không khám phá
được những gì mà cuộc cách mạng vật lý của thế kỷ hai mươi đã mang lại về
nhận thức cho nhân loại. Tuy nhiên, mọi thứ đều có thể hiểu được cả: “Không
phải Chúa biết, tôi biết, mà cuối học kỳ, các bạn cũng sẽ biết” như một
trong những câu nói nổi tiếng của Sidney Coleman.
Mô Hình Chuẩn và hạt Higgs thuộc khoa học cơ bản, trước
mắt phục vụ việc tìm kiếm những nguyên lý tối hậu của vũ trụ, thỏa mãn sự tò
mò vô hạn của con người từ bao đời trong khoa học, chứ không ai nghĩ để làm
một ngành công nghiệp ‘quarkonics’ với các hạt cơ bản quark của vật chất,
như đã từng xảy ra với electron. Có thể có người nói nó ‘vô bổ’ và ‘tốn
kém’. Tốn kém thì đúng. Nhưng ‘vô bổ’ thì chưa chắc. Sau một buổi diễn
thuyết nổi tiếng về hiện tượng điện của Faraday tại Royal Society, một vị
dân biểu của quốc hội Anh hỏi: “Công dụng của tất cả những thí nghiệm đẹp
kia là gì?”. Faraday trả lời một cách gián tiếp: “Công dụng của một đứa trẻ
mới sinh ra là gì?” Đứa trẻ sau đó đã trở thành nền công nghiệp điện. Khi
J.J. Thomson tìm được electron, điện tử, có người đã ‘chúc mừng’ mỉa mai
ông, rằng mong hạt đó sẽ ‘sống mãi’. Rồi ngành kỹ nghệ electronics ra đời.
Trong thời đại Mô Hình Chuẩn, world wide web là một sản
phẩm phụ của CERN nhưng đã có trị giá thương mại nhiều trăm tỉ đô la, nếu
không nói hơn, so với đầu tư tìm hạt Higgs ở CERN vào khoảng 10 tỉ đô la.
Đâu ai biết được tương lai xa.
Nhân loại vẫn còn nhiều tham vọng phía trước, bởi tất cả
các lực của vũ trụ chưa được thống nhất vào một mối. Chúng phải xuất phát từ
một luật tổng thể nào thuở xưa khi thế giới còn nóng bỏng, ở đó tồn tại một
‘siêu đối xứng’. Với sự phát hiện hạt Higgs, một chương mới của lịch sử vật
lý mở ra mà người ta chưa thấy hết được tầm hệ quả. Các chương trình như
Grand unification (Đại thống nhất), Supersymmetry (Siêu đối xứng)
và String theory (Lý thuyết dây) với các chiều dư không-thời gian
(space - time extradimension) là những dự tính còn ở phía trước. Mô hình
Chuẩn có thể phục vụ như một ‘bàn đạp’ hay ‘trạm trung chuyển’, một ‘hệ qui
chiếu’ để con người tiến đến những ‘vì sao’ xa hơn trong vũ trụ tri thức
mênh mông.
Kể chuyện hạt Higgs ‘không phải chỉ có hạt Higgs’. Mà
phía sau là cả một lịch sử phát triển của vật lý hạt đầy kịch tính. Khi
Peter Higgs được yêu cầu kể về công trình của ông cho người không chuyên
nghiệp nghe, ông bối rối: “Điều đó khó, vì người ta phải trở về thời xa xôi
của lịch sử vật lý cho đến tận những nền tảng (của nó).” Sau đó ông bắt đầu
câu chuyện bằng Big Bang với những tên của các lực và của những nhà vật lý
như những anh hùng với các chiến tích như trong chuyện cổ tích cho trẻ em.
Nội dung của Kỷ yếu gồm có các phần lý thuyết, lịch sử, cuộc tìm kiếm bằng
thực nghiệm qui mô, và phần nhân văn về mối quan hệ giữa khoa học và xã hội.
Phần lịch sử cuộc tìm kiếm thực nghiệm hạt Higgs của các chương 2-3 và 4 đi
vào chi tiết với các cây bút chuyên gia quốc tế hàng đầu. Hiểu được phần nào
công việc này, mới hiểu thêm cái vinh quang của cuộc tìm kiếm vô cùng công
phu. Công trình này là cả một ‘kỳ quan’ của trí tuệ.
Kỷ yếu đặc biệt vui mừng nhận được « Đôi lời mở đầu » của
GS Ngô Bảo Châu. Đây không phải là lời giới thiệu thông thường để tạo PR cho
Kỷ yếu. Thực tế, GS Ngô Bảo Châu đã tiết lộ sự áp dụng ý tưởng của Cơ chế
Higgs để giải quyết Bổ đề toán học Langlands của giáo sư. Đó là một khám phá
vô cùng thú vị. Những lý thuyết của vật lý, khi thành công, có thể có những
ảnh hưởng vào toán học. Và ngược lại, những lý thuyết toán học đi trước bỗng
nhiên một ngày nào đó có ảnh hưởng vào vật lý như ‘đúc’. Đó là một sự thật
kỳ thú của lịch sử.
Chúng tôi hy vọng, quyển kỷ yếu hạt Higgs sẽ góp phần
đánh thức sự tò mò, thúc đẩy không khí yêu thích khoa học, lý thuyết lẫn
thực nghiệm hay áp dụng, đang rất cần cho cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Việt Nam phải làm ‘người trong cuộc’ của nền khoa học thế giới, và giàu có,
phát triển, hoặc làm ‘người ngoại cuộc’ và nghèo khó, lạc hậu. Khoa học được
xuất hiện từ một cấu trúc xã hội, như một loại cây ghép cành, và trở lại
phục vụ xã hội đó một cách đích đáng.
Thành tựu khoa học là sự thể hiện của văn hoá. Phương Tây
từ lâu là miền đất có đầy đủ những điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế
thuận lợi nhất để khoa học phát triển. Phương Tây đã bứt đi khỏi các nền văn
hoá khác từ những thế kỷ 16, 17 trở đi dựa trên sức mạnh của các khám phá
khoa học, công nghệ. Nhưng các quốc gia khác cũng đang cải thiện mình và
tham gia ngày càng hiệu quả vào sự phát triển khoa học của thế giới. Khoa
học không còn là một ‘độc quyền’. Châu Á, một châu lục đang vươn lên mạnh
mẽ, đã có những đóng góp rất quan trọng cho sự hình thành của Mô hình chuẩn,
từ Nhật bản (với Yukawa, Tomonaga, Sakata, Nambu, Kobayashi, Maskawa), từ Ấn
độ, Pakistan (với Bose, Salam), từ Trung quốc (với Yang, Lee, Wu, Ting), và
từ Hàn quốc (với Benjamin Lee). Lịch sử cho thấy, những dân tộc nào có óc tò
mò cao, thường được đền đáp bằng sự phồn vinh xã hội. Nhật Bản cũng đang
tham vọng xây một máy gia tốc lớn để quy tụ tri thức nhân loại về châu Á.
Chương cuối của Kỷ yếu đề cập mối quan hệ giữa khoa học
và xã hội với nhiều đóng góp rất thú vị. Xã hội Việt Nam chỉ mới có cột đỡ
nhân văn, văn chương thi phú và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm đến
cùng, nhưng chưa có cột đỡ khoa học vững chắc để tạo nên sự phồn vinh, sức
mạnh, và đổi mới văn hóa truyền thống đang thiếu chất sống. Người làm khoa
học cảm thấy còn lạc lõng. Ở các xã hội phát triển, khoa học là nhân tố
trung tâm thấm đẫm các định chế của xã hội, và đại học là những nơi làm ra
khoa học, tri thức. Khoa học như các hồng huyết cầu lưu chuyển trong mạch
máu để đem đến sự sống cho từng tế bào cơ thể, trực tiếp hay gián tiếp, luôn
luôn được sinh ra bất tận. Xã hội nào thiếu khoa học thấm đẫm như thế, xã
hội đó yếu ớt và dễ bị bịnh hoạn. Các ‘cuộc chiến kinh tế’ giờ đây là cuộc
chiến của các khoa học, công nghệ. Các cuộc chiến tranh bằng súng đạn lại
càng như thế. Xưa nay vẫn thế. Tương lai vẫn thế. Thế chiến thứ II lại càng
chứng tỏ hơn bao giờ hết là một cuộc chiến tranh của khoa học và công nghệ ở
cấp độ cao cấp nhất, tinh vi nhất. Và khoa học có những qui tắc đạo đức nhất
định của nó đối với lương tâm mà nếu không được tuân thủ, khoa học chỉ là sự
dối trá phá hoại hơn là có lợi cho xã hội, và là ‘một sự tàn rụi của tâm
hồn’, như François Rabelais nói.
Chúng tôi mong mỏi quý đọc giả quảng bá cho câu chuyện
lịch sử Mô hình Chuẩn, hạt Higgs và cuộc truy tìm nó, cũng như truy tìm các
hạt cơ bản, trong tinh thần thông tin, giáo dục và truyền cảm hứng, là ‘tôn
chỉ’ của các số kỷ yếu, và xin đón nhận kỷ yếu với sự lượng thứ cho những
thiếu sót tồn tại do lực bất tòng tâm.
Xin chân thành cám ơn.

Đôi lời mở đầu |
GS Giải Fields Ngô
Bảo Châu |
i |
Lời giới thiệu |
Nhóm chủ biên |
iii |
Lời phi lộ |
Nguyễn
Xuân Xanh
và Phạm Xuân Yêm |
vii |
CHƯƠNG 1. MÔ HÌNH CHUẨN VÀ HẠT
HIGGS
|
Mô hình Chuẩn của vật lí hạt cơ bản |
Phạm
Xuân Yêm |
3 |
Nhóm tái chuẩn hoá: Một cuộc cách mạng về nhận thức |
Đàm Thanh Sơn |
67 |
Hạt Higgs và Chúng ta |
Nguyễn
Xuân Xanh |
73 |
Vật lí: Những gì chúng ta biết và chưa biết |
Steven Weinberg |
197 |
Siêu dẫn |
Thân Đức Hiền |
209 |
Boson Higgs và lí thuyết lạm phát của vũ trụ |
Nguyễn Tiến Bình |
227 |
Tiếp sau Higgs là bài toán ED? |
Cao Chi |
249 |
Câu chuyện “hạt của Chúa“ đã kết thúc? |
Phạm Việt Hưng |
265 |
Richard Feynman và Vật lí đương đại |
Nguyễn Đức Tường |
283 |
Murray Gell-Mann |
Nguyễn
Xuân Xanh |
299 |
Enrico Fermi |
Nguyễn
Xuân Xanh |
305 |
Hideki Yukawa |
Nguyễn
Xuân Xanh |
309 |
CHƯƠNG 2. CERN: CUỘC PHIÊU LƯU KÌ
THÚ
CỦA HỢP TÁC KHOA HỌC QUỐC TẾ
|
Máy gia tốc liên hợp |
Pierre Darriulat |
321 |
Mục đích cao cả |
François de Rose |
325 |
Một cuộc phiêu lưu kì diệu |
Carlo Rubbia |
329 |
Xây dựng những cầu nối |
Robert Eisenstein |
333 |
Các đối tác thực thụ và bình đẳng |
Nicolas Koulberg |
335 |
Mảnh đất màu mỡ |
Robert Cailliau |
337 |
Trung tâm Lí thuyết ở CERN |
John Iliopoulos |
339 |
Con tàu trong chai |
Marzio Nessi |
343 |
Pakistan và CERN |
Hafeez Hoorani |
345 |
CERN: một trải nghiệm độc nhất vô nhị |
Egil Lillestøl |
347 |
CHƯƠNG 3. HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM BOSON HIGGS
|
Hành trình tìm kiếm hạt boson Higgs: Thí nghiệm ATLAS và CMS tại
Máy gia tốc đối chùm hadron |
M. Della Negra (CMS), P. Jenni
(ATLAS) và T.S. Virdee (CMS) |
355 |
CHƯƠNG 4. MÁY GIA TỐC ĐỐI CHÙM VÀ CÁC HỆ ĐO
|
Tổng quan về máy gia tốc đối chùm LHC |
(Dựa trên bài viết của Phillippe
Lebrun và Báo cáo thiết kế LHC) |
385 |
Phê duyệt đề án |
Lyn Evans |
401 |
Ngân sách, chi phí và mua sắm |
Anders Unnervik |
405 |
Ngày 24 tháng 9 năm 2008 |
Lyn Evans |
409 |
Ghi nhận hạt tại LHC: Lời giới thiệu |
Tejinder Virdee |
413 |
Những kinh nghiệm từ quá trình xây dựng |
Daniel Froidevaux
và Paris Sphicas |
429 |
Phân tích số liệu LHC và GRID |
John Harvey, Pere Mato
và Les Robertson |
443 |
Câu chuyện sinh động về sản phẩm phụ hữu ích |
Philip Bryant |
455 |
CHƯƠNG 5. HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ HIGGS VÀ KHOA HỌC VIỆT NAM
|
Phản biện để phát triển |
Pierre Darriulat |
463 |
Khoa học công nghệ và “sĩ, nông, công, thương” thời hiện đại |
Trương Văn Tân |
469 |
Khi văn chương vinh danh khoa học |
Cao Huy Thuần |
479 |
Khoa học và văn hóa |
Nguyễn Văn Trọng |
497 |
Đạo đức trong sự vận hành của hệ thống nghiên cứu khoa học |
Nguyễn Đức Hiệp |
503 |
|