Tôi không phải là học trò của
ông, càng không phải là người rành rẽ tiếng Pháp lắm
để có thể đọc được những tác phẩm văn học viết bằng
tiếng Pháp của ông. Thế nhưng, là một người Nha
Trang và theo thiển nghĩ của cá nhân tôi - ông là
người biết rõ về Nha Trang nhất. Vâng, tôi tự tin
khi viết lên điều này vì, từ năm 1920 ông đã đến Nha
Trang và đã chọn nơi đây làm chốn đi – về ( những kỳ
nghỉ hè, đi dạy học và cả những khi phải tha phương
và cuối cùng Nha Trang là bến đậu cho đến cuối đời).
Đã từ
lâu tôi rất muốn viết về ông, biết rằng đây là một
việc rất khó vì – Ông, một nhà văn Việt Nam viết văn
thuần thục 3 ngôn ngữ: Việt, Pháp, Anh; một nhà báo
từng cộng tác với nhiều báo chí trong và ngoài nước;
một người có 70 năm đi dạy học thì có một số lượng
học sinh nhiều đến thế nào …; khối lượng và giá trị
những tác phẩm ông đã viết; tuổi đời của tôi chưa
bằng một nửa tuổi đời của ông …. Thôi thì, xin làm
một người kể chuyện về một người qua tiếp xúc, trao
đổi và qua những tài liệu thu thập được về ông.
Từ điển
văn học (bộ mới) – NXB Thế giới (trang 330), Hà Nội
vừa mới phát hành có tên ông: Cung Giũ Nguyên. (Sinh
1909). Nhà giáo dục, nhà báo, nhà văn Việt Nam. Khi
đọc gần hai trang tiểu sử và tác phẩm của ông, tôi
đã điện thoại cho báo cho ông và một ngày đầu tháng
4/2005 tôi có dịp đến thăm ông tại nhà riêng ở số 60
Hoàng văn Thụ, Nha Trang.
Hôm ấy,
trong căn phòng khách nhỏ bài trí đơn sơ nhưng trang
trọng - trên tất cả các mặt bàn đều có những bình
hoa; tôi được biết, cách đó vài ngày, những ông
Alain Freynet - Tham tán thứ hai, Giám đốc Trung Tâm
văn hóa và hợp tác, Đại sứ quán Pháp Hà nội, ông
Nicolas Warnerey - Tổng lãnh sự Pháp tại Tp Hồ chí
Minh, và ông Christian Nererm - Tùy viên hợp tác văn
hóa Tp Hồ chí Minh, cùng ông Lanig Martin, đặc trách
hợp tác thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, đã
đến thăm ông Cung giũ Nguyên, nhân Hội thảo các Vịnh
đẹp nhất thế giới và Festival biển Nha Trang 2005.
Câu
chuyện giữa tôi và ông đã bắt đầu bằng những điều
chưa rõ về ông trong Từ điển văn học (bộ mới). Ông
tỏ ý tiếc là việc biên tập có vài sai sót: “Trước
tiên về việc chuyển họ Hồng thành họ Cung không phải
vì cùng họ với Hồng Tú Toàn mà do là khi Vua Tự Đức
lên ngôi, vì ngài húy Hồng Nhậm, nên những ai có họ
Hồng phải sửa lại. Sau này có những người đã bỏ họ
Cung để trở lại họ Hồng, nhưng cũng có những người
để tránh việc sửa chữa những giấy tờ hộ tịch phiền
phức cứ để họ Cung, dù vẫn biết mình họ Hồng. Việc
sửa họ ấy, tôi ngạc nhiên là thợ sắp chữ ở Trung Hoa
cũng biết; trên mấy tờ báo ở Hương Cảng, trong bài
đăng tên những người từ Việt Nam qua hội kiến với
Cựu Hoàng Bảo Đại. Dựa theo danh sách viết chữ La Mã
họ tên hành khách chuyến máy bay, tên của tôi đã
không viết CUNG, mà viết đúng HỒNG (= không có nghĩa
là đỏ, mà với bộ Thủy bên trái, có nghĩa là Lớn).
Một điều đáng tiếc khác là: trong Từ điển văn học có
viết: “Le fils de la Baleine (tiểu thuyết, Paris,
1956) – cuốn này được De Sohn das
Walfischs dịch ra tiếng Việt với nhan đề Người con
của Cá Ông hay Kẻ thừa tự ông Nam Hải (Nxb Văn học,
Hà Nội, 1999)”. Có sự sai lạc về phiên âm nhan đề và
hành văn, nên ghi lại cho rõ là: quyển Le Fils de la
Baleine ra mắt ở Pháp năm 1956, đã được nhà văn Đức
dịch ra tiếng Đức với nhan đề DER SOHN DAS WALFISCHS
và được xuất bản năm 1957 tại (Nxb) Helmut Kossodo
Verlag, Frankfurt & Genf (Genève). Điều thứ ba ông
có ý tiếc là quyển Tự điển không nói đến những tác
phẩm quan trọng của ông như THÁI HUYỀN, LE BOUJOUM,
tập thơ TEXTE PROFANE (Bản văn trần tục) v.v hay bỏ
sót những quyển đã có từ lâu, như tiểu luận:
Volontés d’existence (Những ý chí sinh tồn) - (NXB
France-Asie, Sài Gòn 1954).
***
Cung
Giũ Nguyên sinh ngày 20/11/1909, tại Huế, họ thật là
họ Hồng cùng họ với Hồng Tú Toàn người khởi xướng
cuộc cách mạng nông dân miền Nam Trung Hoa và lập
Thái Bình Thiên Quốc, trị vì ở Nam Kinh từ 1851 đến
1863. Vì lý do chính trị hay kinh tế – tổ tiên của
ông, người Phúc Kiến đã kiều cư qua lập nghiệp tại
Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX. Tại đây, họ Hồng cùng
với nhiều họ Trung Hoa khác lập ở Bao Vinh, Thừa
Thiên, phố Thanh Hà sau thành làng Minh Hương, và
sau đó đều được xem là người Việt Nam. Thân phụ Cung
Giũ Nguyên là ông Cung Quang Bào, một Đốc học. Thân
mẫu là Nguyễn Phước thị Bút, trưởng nữ quận công
Hồng Ngọc và cháu nội Ngài Nguyễn Phước Miên Lịch,
An Thành Vương, con út Vua Minh Mạng, có lần làm
Nhiếp chánh Thân thần.
Sinh
trưởng trong một gia đình nghèo và đông con, học
xong trung học tại trường Quốc học Huế những năm
1922-27, ông phải từ bỏ giấc mộng học trường Cao
đẳng Mỹ thuật Hà Nội để đi làm việc. Ông nói: “Về vẽ
thì tôi đã may mắn gặp hai thầy rất tốt là thầy Tôn
Thất Sa và thầy Georges Leloup…”. Những bức tranh
hiện treo trong phòng khách nhà ông đều do ông vẽ từ
bức chân dung của mẹ ông cho đến bức chân dung của
ông, của vợ ông… Căn nhà ông đang ở hiện nay là căn
nhà của cha ông mua ban đầu là nhà tranh và được xây
thành nhà gạch từ năm 1929 cho đến bây giờ.
Năm
1928 ông được bổ làm trợ giáo tập sự tại trường Nam
tiểu học Nha Trang, nhưng đến đầu năm 1930 bị bãi
chức, vì lý do chính trị. Đó là năm đánh đấu khúc
quanh cuộc đời của ông; sau đó ông phiêu lưu vào Sài
gòn, Đà lạt, Huế, Nha Trang… “Trong thời gian bốn
năm mà tôi làm hơn bảy nghề. Tôi viết báo, viết
sách, làm gia sư, làm kế toán cho một hãng sửa xe
của người Pháp, làm thư ký cho một đồn điền cao su ở
Xuân Lộc, bán hàng, đã có lúc tôi định đi theo gánh
cải lương nhưng bị từ chối vì khi nghe tôi ca thử
một bài Tứ Đại Óan, nghệ sĩ Năm Châu đã thành thật
khuyên tôi nên chuyển nghề khác, tôi cũng đã làm thợ
sửa ảnh….”
Năm
1936, người cha mất (cho đến giờ ông vẫn tiếc là cha
ông đã ra đi quá sớm không để cho ông có thì giờ
chứng minh ông đã trở lại nối nghiệp thầy giáo ), vì
trách nhiệm đối với gia đình, ông về lại Nha Trang
và năm 1941 trở lại nghề dạy học. Ông đã dạy các môn
Việt văn, Hán văn, La tinh, Pháp văn, Anh văn, Sử
địa, Kinh tế học, Triết học, Văn học… ở các trường
Kim Yến, Trường Dòng Thánh Giuse Bình Tân, La San,
Phanxicô… Collège de Nha Trang, Võ Tánh, Lê Quý
Đôn…. Từ năm 1955-75, ông làm Hiệu trưởng trường
Trung học đệ nhị cấp Lê Quý Đôn, Nha Trang. Từ
1972-75, Giáo sư thỉnh giảng Viện đại học Cộng đồng
duyên hải, Nha Trang. Từ 1989 đến 1999, ông là Giáo
sư thỉnh giảng môn ngôn ngữ và văn chương Pháp tại
khoa Pháp văn, Trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang.
Ông còn tham gia nhiều công tác xã hội ở Nha Trang,
Sài gòn; đã từng làm Deputy Camp Chief of Gilwel,
London, phụ tá Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo
quốc tế, Gilwell, Anh quốc, để làm Trại trưởng Hướng
Đạo Việt Nam,v.v…..
Cuộc
đời viết văn của ông đánh dấu bằng tác phẩm đầu tay
là một truyện ngắn nhan đề là Tình ái myõ đăng trên
tờ Đông Pháp thời báo, Sài gòn năm 1928. Ông đã viết
hàng ngàn bài báo cộng tác với các báo: Đông Pháp
thời báo, Sài gòn mới (Sài gòn), Nam Phong ( Hà
Nội), Đông Dương mới (L’Indochine Nouvelle, Sài
gòn), Pháp Việt (France – An nam ), Nhật báo Huế (La
Gazette de Huế), Tân văn (Sài gòn), Hội thảo
(Symposium, Syracuse), Sách báo nước ngoài (Book
Abroad, Oklahoma, Hoa Kỳ), Pháp Á (France-Asie, Sài
gòn), Bách Khoa (Sài gòn), Sự hiện diện Pháp ngữ
(Présence Francophone, Sherbrook – Canada), Đại học
Huế, Tri thức (Đà Lạt), Diễn đàn (La Tribune, Sài
gòn)….
Năm
1938-40 cùng với Raoul Serène – Tiến sĩ khoa học đã
từng làm Giám đốc Viện Hải dương học Đông Dương chủ
trương nguyệt san Tạp chí Tuổi trẻ (Le Cahiers de la
Jeunesse) ở Nha Trang. Năm 1939, ông làm Chủ bút
nguyệt san song ngữ Tương lai tạp chí, Nha Trang.
Năm 1939 – 42, làm Chủ bút Nhật báo Châu Á buổi
chiều (Le Soir d’Asie, Sài gòn). Từ 1954, Chủ bút
tuần báo Báo chí viễn Đông (La Presse d’Extrême –
Orient, Sài gòn).
Trong
thư mục tác phẩm đã in và chưa in của ông có đến gần
trăm cuốn; có thể kể đến như, về tiếng Việt: Một
người vô dụng (Tín Đức thư xã, Sài gòn, 1930); Nhân
tình thế thái (tập truyện ngắn, Phổ thông văn xã,
Gia Định, 1931); Nợ văn chương (Nhà in Châu Tịnh,
Vinh, 1934); Những ngày phiêu bạt (ký), Nửa gánh
tang bồng, Một chuyến về…; về tiếng Pháp ông được
thế giới biết đến nhiều vào những năm 50 – 60 với
các tác phẩm Le fils de la Baleine (tiểu thuyết,
Paris, 1956), Le Domaine Maudit (tiểu thuyết,
Fayard, Paris, 1961), Volontés d’existence
(France-Asie, Sài gòn 1954)…; riêng Le Boujoum
(roman Dallas, Tesax, USA, 2002 – tái bản) ông viết
sau này ….
Le fils
de la Baleine đã được nhiều nhà phê bình văn học nổi
tiếng trong và ngoài nước đánh giá cao. Daniel-Rops,
viện sĩ Hàn Lâm Pháp nhận xét: “Với một Cung Giũ
Nguyên, có thể cạnh tranh với một Pourrat, một
Ramuz, một Giono, một Monique Saint-Hélier…, đó là
điều mới lạ”. Le fils de la Baleine được tái bản ở
Canada năm 1978 và được Nguyễn Thành Thống dịch sang
tiếng Việt với tựa đề Kẻ thừa tự của ông Nam Hải
(NXB Văn học, Hà Nội 1995).
Le
Domaine Maudit (Đất dữ) cũng được nhiều nhà phê bình
chú ý; nhà văn Võ Hồng đã viết về cuốn sách (đăng
trên Bách Khoa, Sài gòn ngày 15-6-1962) như sau:
“Văn của tác giả viết tự nhiên mà có nhiều thú vị …
Những triết lý nhân sinh cũng được trình bày dưới
hình thức đơn giản nhưng thầm kín… Le Domaine Maudit
lấy khung cảnh Việt Nam nhưng câu chuyện có thể xảy
ra ở bất cứ nước nào có sự tranh chấp giữa các ý
thức hệ, nghĩa là giữa những quan niệm khác nhau về
hạnh phúc và tình yêu”.
Volontés d’existence (Những ý chí sinh tồn) thuộc về
loại tiểu luận gồm ba bài. Bài thứ nhất trình bày
căn nguyên giải phóng cá nhân và dân tộc Việt Nam.
Bài thứ hai trình bày nền văn chương Việt Nam và bài
thứ ba bàn đến nỗi lòng bi đát của Nguyễn Du. Ba bài
quy tụ chung quanh một ý chính: những ý chí sinh tồn
của con người Việt Nam và dân tộc Việt.
Trong
Volontés d’existence, mới thấy xuất xứ một câu mà
website EL CANDIL (ngọn nến của Tây ban Nha), xem là
danh ngôn, liệt kê vào Danh ngôn về Tự Do (frases de
Libertad, đăng cùng một trang với danh ngôn của
những nhà tư tưởng lớn tiền bối như Max
Steiner, Carla B.
Gonzalez, Mikail Bakounin
(1814-1876) vv.
Tác
phẩm Le Boujoum, dày 756 trang, một tác phẩm đầy
triết lý ông viết từ năm 1976 đến năm 1980 và chính
ông đã dịch sang tiếng Việt với tựa đề là Thái Huyền
(NXB Đại Nam, California, 1994). Ông viết Le Boujoum
để tặng người bạn thân suốt gần nửa thế kỷ của ông
là Raoul Serène (đã nói ở trên), mà ông gọi tên là
Sếu. Trong lời tựa cuốn sách, ông viết: “Cũng như
với những người bạn thân khác, khi xa cách và nhất
là trong những năm sau này thiếu những gặp gỡ thường
xuyên và cuộc chuyện trò hữu ích, tôi có những bức
thư dài cho Sếu và kèm theo thư, cũng có những trang
trích các sách tôi đã hoàn thành hay đang soạn thảo,
để cho bạn theo dõi đời sống cụ thể của mình và cũng
để thăm dò phản ứng của bạn về những tác phẩm mình,
sợ thói tự phụ, chủ quan khiến mình có nhận định sai
lầm về giá trị của chúng. Tình thân hữu thật sự cho
phép, và khuyến khích, những phê phán thẳng thắn, dù
cho có khi là tàn nhẫn, không chỉ về công việc và cả
về những phương diện khác. Đây không phải là dấu
hiệu của sự đố kỵ ganh ghét, mà là của sự thương yêu
thật sự, một ước muốn xây dựng lẫn nhau theo đường
dáng đi, hay ít ra cũng tránh cho nhau những ảo giác
về bản thân cũng như về sự nghiệp”.
Le
Boujoum hay Thái Huyền cũng đã được nhiều nhà phê
bình văn học ngoài nước chú ý, người ta đánh giá: từ
Le fils de la Baleine đến Le Boujoum là một khoảng
cách lớn, kể về văn phong lẫn chiều sâu tác phẩm.
Ông có
tên trong danh sách các nhà văn trên thế giới viết
văn bằng tiếng Pháp (Tác phẩm Rive
neuve (Bến mới),
in những tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn trên thế
giới viết văn bằng tiếng Pháp– Tháng 11.2004 có
trích một tập thơ của ông).
Cả cuộc
đời ông là sự một phấn đấu rèn luyện, tìm và trao
tặng tri thức, chủ yếu là tự học, và học mãi. Ông
nói:
- Đọc
sách, đối với tôi, là một lối tránh mệt nhọc, khỏi
phấn đấu, vì bẩm sinh yếu đuối. Từ cái bắt buộc, tôi
tìm ra thích thú với sách. Tôi đã gặp nhiều may mắn,
có cơ hội làm bạn với sách, có lẽ may mắn ấy không
đến với tôi nếu tôi không « đầu tư » làm bạn với
sách, làm thân với « hiểu biết », hay bồi dưỡng trí
tuệ. Thời học Quốc học, tôi may mắn có được những
bạn gương mẫu về học tập, luôn luôn đi tìm kiến
thức, kể cả trong những trò chơi. Tôi may mắn có
những thầy cô (người Pháp) có trình độ truyền đạt
tốt và vốn kiến thức cao. Ngoài những sách giáo khoa
và tác phẩm văn học ghi trong chương trình mỗi niên
khóa chúng tôi cũng được khuyên đọc sách giải trí.
Sách ở thư viện trường rất phong phú, và để học sinh
toàn quyền sử dụng, không phải trả tiền thuê, hay
không chỉ cho đọc tại chỗ. Vì không được đi học tiếp
đaị học, và do đó không có được những thầy hướng
dẫn, tôi phải tự vạch đường học vấn với những phương
tiện nghèo nàn của mình, gặp được một sách cũ báo cũ
nào, cũng tìm được trong đó đôi điều gì mình chưa
biết đến. Năm 1940, từ Saigon, tôi lên Dalat
để « cấm phòng » trong mười ngày tại Tu Viện Dòng
Thánh Benoît. Tu viện lúc ấy đang còn nghèo, không
có phòng cho người ngoài. Tôi được cho một cái
giường bố đặt ngay trong thư viện của dòng. Thế là,
sách đã đến với tôi, những sách thuộc một phạm vi
bấy lâu xa lạ với tôi, những sách siêu hình học,
thần học, ngày và đêm, tôi đã cố đọc và ghi chép,
được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, với những tên tác
giả, sách, nhà xuất bản nào, để có thể tìm lại sau
nầy. Có vậy, tôi mới có thể, hai mươi năm sau, giảng
triết cho lớp kinh viện của một dòng tu.
Năm 75,
được lưu dung tại Đại học Duyên Hải, và vì không còn
lớp Pháp để dạy, tôi được giao cho việc bảo quản thư
viện. Tôi có dịp trong mấy năm đọc đươc biết bao
sách bổ ích cho tôi. Cũng trong thời gian ấy tôi
viết đươc cuốn JOURNAL DU KAUTHARA (Nhật ký Khánh
Hòa). Đến năm 1979, tôi đã thất tuần, bệnh viện Tỉnh
mời tôi dạy tiếng Pháp cho các y bác sĩ, và đồng
thời phụ trách thư viện, lập lại danh mục, giúp tìm
tài liệu cho những bác sĩ cần đến. Trong thời gian
làm việc cho bệnh viện, tôi cũng học hỏi khá nhiều,
qua những sách phải đọc qua để xếp loại. Tôi làm
quen với những báo như The Lancet hay Nature… mà
chắc hẳn tôi sẽ không bao giờ biết nếu tôi không may
mắn đến nơi đây. Chính thư viện nầy đã cho tôi cơ
hội tiếp xúc với những sách lý thuyết về informatique
(thông tin học) trước khi thấy máy vi tính, và có
máy để dùng.
Một
điều may mắn khác cho việc học hỏi của tôi, là được
ngao du đó đây, đến nhiều nước, có dịp biết nhiều
thư viện, viện bảo tàng lớn, những nơi thờ phụng
nhiều tôn giáo, tiếp xúc với nhiều giới, từ thượng
lưu đến giới chai chén dân bụi đời chỉ xài tiếng
lóng (argot)….
Năm
nay, ông đã bước sang tuổi 97 và vẫn còn miệt mài
làm việc với chiếc máy vi tính mỗi ngày mà không cần
người phụ giúp. Hoàn thiện những bản thảo đang dang
dở, hệ thống lại toàn bộ tác phẩm, dịch ra tiếng
Việt những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp… Khối lượng
công việc thì đồ sộ mà quỹ thời gian còn quá ít. Thế
nhưng, “Không viết nữa thì làm gì?”, ông đã nói với
tôi như vậy. “Đời người như một miếng da lừa, mỗi
ngày nó teo tóp đi một chút. Dân gian thường nói cá
ươn, ươn từ cái đầu. Con người cũng vậy, phải bắt
cái đầu nó làm việc đừng để nó hư. Nên sống lạc quan
và biết cười”.
Nói về
việc sống thọ, ông kể câu chuyện vui:
- Tôi
đươc biết, theo lời mẹ kể lại sau nầy, tôi sinh ra
không tốt tướng, gầy yếu, thầy thuốc, thầy bói cho
biết trước là không thọ. Tôi ngủ hay giật mình vì
một tiếng động nhẹ. Nghe theo thầy, mẹ tôi tìm mua
một cái « búa thiên lôi » là một miếng nham thạch
màu xanh tím, hình lưỡi búa, mẹ làm một bọc cho búa
và để dưới cái gối của tôi. Phương thuốc của «thầy»
quả là linh nghiệm, từ đó tôi hết giật mình khi ngủ,
kể cả những khi có giông tố và sấm sét. Nhưng có
điều đáng buồn là đầu tôi mãi mãi bị lép như đầu cá
chai. Đó là giá con người thường phải trả, nhân vô
thập toàn, được cái nầy phải mất cái kia….
Gần
trọn một thế kỷ dành cho các việc tự học, đi, viết
và dạy học. Phương châm sống của ông gói gọn trong 4
từ nguyên hanh lợi trinh. Ông giải thích với tôi:
“Nguyên là nguồn gốc - bất kỳ một việc gì cũng phải
truy tìm cho được nguồi gốc và giải thích câu hỏi
tại sao. Hanh là hanh thông - vượt lên những khó
khăn; khi gặp khó khăn ta chia vấn đề ra thành những
vấn đề nhỏ, từ vấn đề nhỏ chia thành những vấn đề
nhỏ nữa và giải quyết từ từ. Lợi là lợi ích, lợi ích
của mình phải gắn liền với lợi ích của người khác,
những điều viết ra làm sao cho nhiều người trên thế
giới đọc được. Trinh là hòa hợp - hòa hợp ở đây có 3
ý: hòa hợp với thượng tôn, hòa hợp với tha nhân và
hòa hợp với chính mình. Trong mỗi con người đều tồn
tại ông thiện và ông ác, nhờ thượng tôn và những
người xung quanh giúp đỡ để hòa hợp với chính mình
“.
Tôi hỏi
ông câu hỏi cuối cùng về nhận định của ông khi giới
trẻ bây giờ không thích đọc sách, ông trả lời bằng
cách nói về dấu “…” bắt đầu và kết thúc trong Le
Boujoum: “Cuộc đời không có chấm dứt, từ không đến
có, rồi lại từ có đến không, qua những giai đoạn
thành, thịnh, suy, hủy, rồi thành, từ khôn đến càn,
rồi lại tứ càn đến khôn, qua những giai đoạn thiếu
âm, thái dương, thái âm, thiếu dương, mà vật lý học
cho thấy qua điển hình của vòng Mobius… - một ngày
kia người ta sẽ trở lại việc đọc sách”. Đó là câu
nói khẳng định rất tự tin của ông – một người sống
và viết gần một thế kỷ có rất nhiều biến động với
một cuộc đời sôi nổi và đầy sáng tạo.
Đã đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay số số 534)
|