Vĩnh biệt Thầy Cung
Giũ Nguyên
Tôi không phải là học trò của thầy. Nhưng tôi vẫn
gọi thầy xưng con với thầy vì sự uyên bác và tuổi
tác của thầy. Tôi đã từng nghe danh của thầy từ rất
lâu, nhưng mãi đến năm 1987 tên của tôi mới được
vinh dự đặt bên cạnh tên của thầy khi tôi dịch cuốn
Autour de la lune (Bay quanh mặt trăng) của
Jules Verne, in ở Nhà xuất bản Tổng Hợp Phú Khánh.
Thế rồi mãi đến những năm đầu của thập niên 90 tôi
mới được gặp thầy. Câu chuyện như thế này.
Đầu năm 1990, lúc đó tôi đang là
biên tập viên của Nhà xuất bản Khánh Hòa, tôi
được phân công biên tập một cuốn sách dịch của tác
giả Cung Giũ Nguyên. Đó là cuốn Le Fils de la
Baleine, người dịch là Nguyễn Văn Hùng, tức Cung
Giũ Hốt, em ruột của tác giả Cung Giũ Nguyên. Tôi đã
đọc nguyên bản tiếng Pháp trước, sau mới đọc đến bản
dịch. Tôi thấy khoảng cách giữa nguyên bản với bản
dịch quá xa, nên tôi đã yêu cầu người dịch dịch lại,
nhưng người dịch không đồng ý và đã rút bản thảo về.
Một tuần sau tôi có dịp đến làm việc với một cộng
tác viên rất nổi tiếng của Nhà xuất bản Khánh Hòa.
Đó là Thầy Cung Giũ Nguyên.
Tôi còn nhớ rất rõ. Khi
tôi gõ cửa nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang, một
ông cụ trông rất khỏe mạnh, ở trần, mặt quần pijama,
chân mang vớ. Tôi nghĩ trong đầu cây cổ thụ đây,
nhưng tôi thắc mắc vì sao ở trần mà lại mang vớ. Về
sau ông cụ mới cho biết: ở trần là để cho mát, nhưng
phải mang vớ là để khỏi bị muỗi cắn chân khi ngồi
làm việc. Ngay từ đầu tôi đã thoáng thấy cái nét hài
hước của ông cụ, một đặc điểm mà ít người nhận ra,
vì khi nói đến Cung Giũ Nguyên thì thường người ta
nghĩ ngay đến một ông trưởng giả khó tính hút píp
xách ba-tông đi giày tây. Ông cụ hỏi tôi: Cái gì
vậy? Thưa: Con ở bên Nhà xuất bản muốn gặp thầy. Ông
cụ nhìn bộ dạng của tôi rồi phán: Năm phút thôi!
Đúng là cao đạo. Nhưng không phải thế. Hôm đó
tôi đã được hầu chuyện ông cụ gần hai tiếng đồng hồ.
Cuối buổi ông cụ cho tôi biết sở dĩ có cái lệnh năm
phút thôi kia là vì ông cụ thấy rằng quỹ thời gian
của mình còn ít quá, chứ không rỗi rãi như tôi. Khi
biết được danh tính của tôi, ông cụ hỏi: Có phải
anh là người đã chê bản dịch của Nguyễn Văn Hùng
không? Thưa: Dạ phải. Hỏi tiếp: Chê
người khác mà mình có làm được không? Tôi biết
mình đã nhảy lên lưng cọp rồi. Vốn có máu hung hăng
của bọn trẻ tôi thưa ngay: Dạ thưa, nếu thầy đồng
ý thì để con làm thử. Lệnh tiếp: Thế thì về
làm đi! Đến lúc này thì tôi mới thấy mình đã lỡ
dại rồi. Thì giờ đâu? Cả ngày tôi làm việc và ở lại
luôn tại Nhà xuất bản, chiều mới đạp xe đạp mười cây
số về Trường Trung Học Phổ Thông Hoàng Hoa Thám Diên
Khánh, nơi tôi tạm trú cùng với vợ con tôi; ở đó lúc
bấy giờ ban đêm điện đóm không ổn định chút nào. Thế
nhưng tôi đã cố gắng tốc hành trong vòng một tháng
để dịch cho xong cuốn sách của ông cụ. Và tôi đã
dịch tựa sách Le Fils de la Baleine thành Kẻ
Thừa Tự của Ông Nam Hải thay vì dịch sát chữ là
Người Con Trai của Cá Ông. Tôi rất hài lòng về cái
tên mới này của bản dịch.
Ngoài ra tôi cũng rất khổ
công nhưng hài lòng khi chuyển được những câu ca dao
miền Trung cũng như những phần trích bài ca bả trạo,
mà cụ đã lược dịch sang tiếng Pháp, trở lại tiếng
Việt đúng với nguyên bản. Khi đến trình cho cụ bản
dịch, cụ bảo hai tuần nữa quay trở lại. Nhưng một
tuần sau tôi lại có dịp đến làm việc với cụ. Cụ bảo:
Xem xong rồi. Thưa: Có được không ạ? Trả lời:
Được.
Thưa: In được không ạ? Trả lời: Được chớ!
Thế là tôi
về lo thủ tục xuất bản. Đối với Nhà xuất bản của
chúng tôi thì không có gì khó khăn. Nhưng khi trình
lên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, thì tôi được biết qua
Trưởng phòng biên tập, "Hay
dở không cần biết sách của Cung Giũ Nguyên không
được in ở Nhà xuất bản Khánh Hòa!".
Tôi vốn tánh liều mạng nên gửi bản thảo thẳng ra Nhà
xuất bản Văn Học Hà Nội. Giám đốc Nhà Xuất bản Văn
Học lúc bấy giờ, nhà thơ Lữ Huy Nguyên, không những
đã đồng ý cho phép xuất bản mà còn viết lời giới
thiệu. Còn một việc hy hữu khác nữa là ở trang bìa 3
tôi có ghi ở đầu trang: VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM.
Bên dưới hàng tít này tôi ghi: CUNG GIŨ NGUYÊN. Giám
đốc Nhà xuất bản Văn Học vẫn duyệt. Thế có nghĩa là
CUNG GIŨ NGUYÊN được công nhận là nhà văn Việt Nam
và tác phẩm Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải được
thừa nhận là Văn Học Hiện Đại Việt Nam. Một kết quả
ngoài dự định của cụ, vì sau 1975 cụ không được công
nhận là nhà văn Việt Nam, trong khi thế giới vẫn
công nhận cụ là một nhà văn học giả
Việt Nam. Còn một
mắc mứu khác đó là phần lớn các tác phẩm của cụ được
viết bằng tiếng Pháp cho nên nhiều người cho rằng
những tác phẩm đó không được xem là thuộc Văn Học
Việt Nam. Tôi có đem việc này hỏi ý kiến của cụ thì
cụ cho biết tiếng Pháp chỉ là một phương tiện diễn
đạt còn nội dung vẫn là bản chất và bản sắc Việt
Nam. Phần tôi thì tôi cho rằng nếu sách của cụ mà
viết bằng tiếng Anh thì có lẽ Việt Nam ta đã đoạt
giải Nobel về Văn Học từ lâu rồi. Tuy đã có giấy
phép xuất bản từ năm 1991 nhưng mãi đến năm 1995
cuốn sách mới được in và phát hành. Lý do là vì lúc
bấy giờ các cơ sở hợp tác xuất bản mà bây giờ được
gọi là các công ty văn hóa không biết Cung Giũ
Nguyên là ai cả; người ta lại còn thấy ngại một cuốn
tiểu thuyết do một người Việt viết bằng tiếng Pháp
lại được dịch trở ngược lại sang tiếng Việt. Một
chuyện thấy sao lạ đời, mà lạ đời thì không ai dám
mạo hiểm; ôm vào chắc là khó bán ra.
Ít ai biết được
rằng tác phẩm Le Fils de la Baleine suýt được giải
Goncourt của Pháp nếu không có cuộc ganh đua của các
Nhà xuất bản ở Pháp. Và học giả nổi tiếng người Pháp
Daniel Rops đã từng ca ngợi tác phẩm này. Phần cụ
thì sau khi bản dịch được xuất bản cụ đã có lời cám
ơn tôi vì theo lời cụ, tôi đã có công đưa thằng Mỗ
(nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết) sau bao năm
trời phiêu bạt bên Pháp bên Canada về lại Việt Nam.
Sau khi bản dịch có mặt để độc giả Việt Nam có thể
đọc và biết thêm một tí về tác giả Cung Giũ Nguyên
thì thầy tin tưởng khả năng của tôi hơn và thầy đã
dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Tôi đã từng nói
chuyện với thầy hàng giờ về nhiều vấn đề, và tôi
cũng đã từng ngồi hàng giờ nghe thầy nói những suy
nghĩ, những công việc thầy đã làm đang làm và sẽ
làm. Tôi có thể lục tung tủ sách của thầy, một việc
không ai được phép làm ngoài tôi. Thầy đã từng muốn
tôi dịch cuốn Le Fils de la Baleine sang tiếng Anh.
Tôi có thưa rằng tôi vốn là người cầu toàn cho nên
tác phẩm đó phải do chính một dịch giả người Mỹ hoặc
người Anh biết tiếng Pháp dịch thì tốt hơn.
Gần đây
yêu cầu đó đã được đáp ứng. Tôi đã giới thiệu với
thầy anh bạn của tôi cũng là thầy dạy Aikido của
tôi, Âu Dương Di, một Việt kiều Mỹ biết tiếng Pháp
đã từng sống ở Mỹ 30 năm rất quen thuộc với việc
viết lách dịch thuật; ngoài ra Âu Dương Di còn là
học trò cũ của thầy. Bản dịch đã hoàn thành. Nhưng
rất tiếc bản dịch tài hoa và chính xác này chưa được
xuất bản trước khi thầy mất. Cũng xin nói thêm tác
phẩm Le Fils de la Baleine đã được dịch sang tiếng
Đức từ rất sớm.
Theo tôi, công trình trước tác của Thầy Cung Giũ
Nguyên thật đặc sắc và đa dạng. Le Fils de la
Baleine chỉ là một tác phẩm đã được xuất bản, cho
nên có ưu thế được nhiều độc giả biết tiếng Pháp
thưởng thức. Có thể nói đó là một tác phẩm dễ đọc.
Thầy còn có những cuốn tiểu thuyết rất Việt Nam và
dễ đọc khác nhưng tiếc là chưa được chuyển sang
tiếng Việt. Một cuốn khảo luận đã được xuất bản và
rất nổi tiếng nhưng độc giả Việt Nam chưa có dịp
đọc, đó là cuốn Volontés d'existence.
Những năm sau
1975 thầy đã tốn rất nhiều thời giờ và công sức để
nhập vào máy vi tính của mình những trước tác trước
đây của thầy. Ngoài ra thầy vẫn tiếp tục sáng tác.
Chúng ta hãy tưởng tượng một cụ già trên chín mươi
ngày đêm vẫn cặm cụi bên máy vi tính thì mới thấy
được sức làm việc và gương làm việc của thầy. Đa số
những tác phẩm viết sau 1975 là những trước tác viết
bằng tiếng Việt, nhưng chưa được xuất bản. Có một số
người đã có dịp đọc những tác phẩm này qua hình thức
in photocopy lưu hành nội bộ. Nhân đây tôi cũng xin
lưu ý. Có thể nói, đại tác phẩm của thầy là cuốn Le
Boujoum. Theo thiển ý của tôi thì đây mới là đỉnh
cao sự nghiệp của thầy. Đó là một cuốn tiểu thuyết
dày hơn sáu trăm trang viết bằng tiếng Pháp sau
1975. Ban đầu thầy đã nhờ một người Pháp đánh máy,
nhưng sau mấy mươi trang thì người này đã bỏ cuộc vì
đọc không hiểu gì. Sau đó thầy đã tự đánh máy, khi
đánh máy xong thầy đã gửi cho tôi một bản với ý muốn
nhờ tôi sửa lỗi chính tả và thực tế thầy đã nhờ tôi
chuyển sang tiếng Việt. Nhưng rất tiếc vì quá bận
công việc, tôi đã không làm được việc này. Về sau
chính thầy đã chuyển sang tiếng Việt và tác phẩm có
tên là Thái Huyền đã được xuất bản ở Mỹ, nhưng chỉ
được một phần. Có lẽ vì không bán được nên việc xuất
bản phần hai phải dừng lại. Nguyên bản tiếng Pháp Le
Boujoum đã được Cung Giũ Nguyên Center ở Mỹ xuất bản
nhưng theo tôi vẫn dưới hình thức lưu hành nội bộ.
Tôi đã có lần thổ lộ với thầy không biết mươi năm
nữa người ta có thể đọc hiểu cuốn sách của thầy
không. Nói lên điều đó tôi muốn liên tưởng đến hai
tác phẩm Ulysses và Finnegans Wake của James Joyce,
một thần tượng văn học của tôi. Thực tế thì lối viết
của James Joyce và của Thầy Cung Giũ Nguyên rất
giống nhau. Đương nhiên một bên là mộng một bên là
thực có khác nhau nhưng cái thực của thầy được viết
như thể là mộng.
Thưa thầy, con vẫn tin rằng bây giờ thầy vẫn có thể
đọc được những hàng chữ này của con. Hơn hai năm nay
con đã quyết tâm giảm bớt lui tới nhà thầy để rồi
một năm nay con đã ngưng hẳn việc lui tới nhà thầy.
Con đã nói với thầy quyết tâm này rồi. Con là một
mẫu người sentimental. Con sẽ rất đau khổ khi đi
ngang nhà thầy mà không còn thầy ở đó. Thế nên con
phải giảm bớt đi chuyện lui tới này để may ra tình
cảm của con đối với thầy sẽ xuống thang từ từ và
phần nào, ngõ hầu khi thầy không còn ở nhà số 60
Hoàng Văn Thụ Nha Trang đó nữa thì con bớt đau khổ
hơn. Hôm nay quả thực con đã thấy suy nghĩ và quyết
định của con là đúng. Bài viết hôm nay chỉ có tính
chất thời sự chưa phải điều con đã từng hứa với thầy
là con sẽ viết một cuốn sách dày về thầy để cho
người ta thấy tính chất uyên bác, nhân văn, nhân
bản, sâu sắc, tài hoa, và nhất là hài hước trong
tác phẩm và trong con người của thầy. Con biết người
ta ngộ nhận về thầy nhiều lắm. Thầy cũng biết rằng
có rất nhiều tác giả văn hoc tài ba đã không nhận
được giải Nobel Văn Học. Bây giờ thì CCC (Chim Cánh
Cụt cũng có nghĩa là Chưa Chịu Chết) đã chịu chết.
Requiescat In Pace.
NGUYỄN THÀNH THỐNG.
(Nha Trang ngày 8/11/2008.
Sau cơn mưa trời lại sáng.)
|