Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như yêu người người em gái.
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về.. thì thương người vợ chờ bé
bỏng chiều quê..
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuốiKhông được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lầnNgày xưa nàng yêu hoa
sim tím
Áo nàng màu tím hoa simNgày xưa một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lênNgỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…)
|
Bức hình đi kèm ghi chú:
Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Tác giả bức ảnh là Hồ Trần.
Bản tin ngắn ký tên Ngân Hà có nội dung như sau:
Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan,
tác giả của bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" đã vĩnh viễn từ giã
cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 –
18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu,
vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan
tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.
Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng
Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông
đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động
phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng
phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm
Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách
mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ
ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty:
Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng
chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông
làm việc tại báo Văn Nghệ.
Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang
danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó,
người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất
(1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân
khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu Tím Hoa
Sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ
cũng là mãi mãi.
Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.
Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.
Sự ra đi của Hữu Loan, tác giả bài thơ được nhắc nhở cả hai miền Nam Bắc trong suốt cuộc chiến Việt Nam và cả những năm sau cuộc chiến, có lẽ còn nói và viết nhiều. Nhưng có một vài chi tiết bên lề có lẽ rồi đây sẽ được nói rõ: Bài viết của Ngân Hà cho biết tên người vợ đầu tiên của thi sĩ là Nguyễn thị Ninh và người vợ sau là Nguyễn thị Nhu, thế nhưng bản tin trên tờ Thanh Niên cho biết người vợ trẻ có tên là Đỗ Thị Lệ Ninh “đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn” và ngay tên người vợ sau của thi sĩ cũng khác họ. bài viết ghi bà tên Nguyễn Thị Nhu trong khi chú thích ảnh thì ghi là Phạm Thị Nhu.. Nhưng trong bài Tự Thuật của thi sĩ thì người con gái trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh con ông Lê Đỗ Kỳ. Thi sĩ viết: “Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...”
Trong một email của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao tôi được đọc bài trả lời phỏng vấn của báo Nhịp Cầu Thế Giới ở Hungary, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông quen Hữu Loan từ ngày ông vào Khu 4 trong năm 1948 và làm văn nghệ trong Trung Đoàn 9. “Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy Ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục.. Biết anh cũng làm thơ, tôi cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài Màu Tím Hoa Sim, Đèo Cả, Tò He, Chiếc Chiếu, Những Làng Đi Qua, Hoa Lúa… Tôi đã có ý định phổ nhạc bài Màu Tím Hoa Sim ngay từ lúc đó…”
Phạm Duy cũng cho biết năm 2006, khi trở về nước, ông có đi xe ôm trong một ngày mưa lạnh đến Thanh Hoá thăm Hữu Loan và có tặng Hữu Loan một video trong đó có phần ông trả lời phỏng vấn về bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà…
Trả lời câu hỏi "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như "Những đồi hoa sim" (Dzũng Chinh), "Chuyện hoa sim" (Anh Bằng) và nhất là "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh thi phẩm, nhưng ca khúc của bác đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao bác lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?” Phạm Duy nói: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh, Anh Bằng phổ nhạc bài thơ Màu Tím Hoa Sim một cách rất tốt nhưng dùng hình thức ‘tiểu khúc’ bình dân ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Bolero, Slow Rock, giản dị dễ nghe, dễ hiểu… Và cũng vì các ông này không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào trong nét nhạc. Còn tôi thì muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5, 7 đoạn, một “chant patriotic. Có thế thôi!”
Trong bài Tự Thuật của Hữu Loan, thi sĩ cho biết “…cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”
“Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Hữu Loan đã viết như thế trong bài tự thuật.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi, nhưng bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông sẽ còn ở lại mãi mãi với chúng ta.
Phụ lục
Tự Thuật của Hữu Loan
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”
bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe,
không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một
tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học
hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang
nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa,
chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe,
rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát
to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau,
em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà
không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi
được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng
được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi
nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên
đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên
em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất
chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời,
không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ….Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
-Ngọt quá.
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”. Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn….Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi… Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì. Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
© Hữu Loan
Hữu Loan Tự phỏng vấn
Năm 1988, khi cuộc Đổi mới bắt đầu, nhà thơ Hữu Loan
rất phấn chấn. Ông đã viết một bài "tự phỏng vấn" gửi
cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được in. Nay, 19
năm sau, nhà thơ 91 tuổi đã đồng ý để talawas công bố
bài trên. Các chú thích trong bài được phóng viên
talawas ghi trực tiếp theo lời của nhà thơ và gia đình
trong cuộc gặp gỡ mới đây tại nhà ông.
Nhà thơ Hữu Loan (ảnh: talawas)
Tiểu sử
Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt
Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù
Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân
Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa.
Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học
sinh và nhà trường.
Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh
và làm khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban
Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công
chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá
nuôi bố mẹ già.
Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo
Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ
đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .
Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung
Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh
Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại
không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ
đô lại có điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ,
được mời vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia
Nhân văn rồi bỏ về đi cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ
(cuối 1987) [3] …
Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và
trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm",
đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì
ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những
tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha
được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta.
Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân
dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không
xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước
lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại
nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà
nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có
"vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì
cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới
gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân
văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút
chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ
người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ
thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không
giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là
người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là
"Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?
Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ
trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân
văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì
hơn.
Phóng viên: Bác ngại sao?
Hữu Loan: Cũng ngại chứ!
Phóng viên: Vì sao vậy?
Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy
hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ
cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là
sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc
họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách
đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám
lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.
Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa
chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những
bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào
Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua
nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ
đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế
độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì
cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người
ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.
Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ
dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa
làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt
Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải
nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những
người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia
đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ
tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:
“Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để
rào làng, rào giếng.”
Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:
“Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4
ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào
được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra
làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày
rồi hẵng…’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội.
Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa
về… Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh
gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân
trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt,
có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu
cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến
lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có
tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe
con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong
khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của
ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách
mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành
công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi
nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng
đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên
na ná với tên con ông là Cương.”
Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:
“Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu
mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương
ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…”
Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:
“Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay
ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực
chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt
bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải
đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy,
Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”
Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến
chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?
Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ,
bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ
oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng,
là gương để cho họ noi theo.
Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói
thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý
nào bác lại sợ, lại hèn?
Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không
bị động bao giờ.
Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là
một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra
ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho
bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có
thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn
xã hội hiện nay…
Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev
lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân
thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện
“Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta
hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại
nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”.
Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi
gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có
nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:
“Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”
“Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác
tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”
“Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…”
Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ
quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn
Chính phủ”:
“Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp
không?”
“Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký
đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao
nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng
lợn…”
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ,
hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái
đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm
áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì
người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo
nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ
ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ
Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh
đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân
cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.
Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi
phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương
trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để
thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc
làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng
mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.
Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng
Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo.
Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến
khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn,
Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.
Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân
tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của
những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai
lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê
taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là
Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan.
Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ
“Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách
truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin
chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân
Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm
hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với
Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa lúa” về đăng
Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là
đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi
đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng.
Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi
vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo
nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần
tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy
mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của
người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút
của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một
bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có
dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ
ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không
thắng…
Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là
nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà
văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc
in sách đen sách trắng vừa rồi.
Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".
Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng
Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới
nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những
“Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù
giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….
Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về
tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống
xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển
cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách.
Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành
lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản
dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do
Nguyễn Hữu Đang viết [4] .
Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp
lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án
là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp
đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì
bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để
xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân
mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm
do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp
một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt
ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn
Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói
đây là vấn đề sống còn của chế độ).
Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa
toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không
người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài.
Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là
chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp
thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 – 6
tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà
dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải
của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có
hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp
luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp
được?
Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần”
đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to
tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa
Nguyễn Sáng vẽ [5] .
Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực
văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang,
tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường
đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ
được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa
có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến
những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước
mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa
hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau
để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải
dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc
lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất
nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ,
của một chế độ khổng lồ!
Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi
xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không
tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn.
[6]
Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và
bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.
Một người nhà báo hỏi ông:
“Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.”
Ông Trương Chinh sửng sốt:
“Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc
đó thôi.”
Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm
hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của
báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực
XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung
tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết
về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy
giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông
Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối
đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê
Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần
Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần
Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa
đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại.
Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1
như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn
văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt
Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù
cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái
truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông
núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là
hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất
trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu
Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây
hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai
họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng,
đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy
trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội
tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.
Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần
phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh
quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân
tộc.
Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái
án gọi là "án Nhân văn".
Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật,
nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh
cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự
do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực
hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã
lý tưởng rồi.
Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân
văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao
trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ
cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm
trọng.
Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị
đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang
án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước
đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên
được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc
bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản
kiến nghị đang tiếp tục gửi về…
Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên
Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu
cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn
diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị
và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng.
Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.
Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào
sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là
chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu
nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại
ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai;
chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội
rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội
của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do
âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng
chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng
phải tin như thật.
Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.
Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn
của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh
nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động
cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như
Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức
vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu
Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau
làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm
1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh
tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung
ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ
trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước
từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:
“Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một
mình một Đảng.”
Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày
cho báo Văn nghệ.
Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho
viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới
ra làm Nhân văn.
Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả
về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp
đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có
đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải
đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi
cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên
thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh
Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô
đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ
mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không
nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như
vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn
vị ấy nói lại tôi mới biết.
Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp
học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là
thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến
nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn
Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi
Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu
Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của
Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi
không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan"
Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi
được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền
Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không
giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó
xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án
chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để
tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn
Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”.
Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến
phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí
bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao
nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ
cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến
đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều
thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.
Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình
được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc
tài cỡ quốc tế?
Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:
Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa
Trịnh” [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm,
bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi
tù): bị giam 7 năm mới tha.
Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.
Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in
nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ
mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái
của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông
xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều
để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ
1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá
30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời
lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người
giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà
nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu
việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu
rơm cũng ôm.
Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có
trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn,
lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện
ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai
không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ
chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và
đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những
người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất
giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí
nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu
manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao
nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu
công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào
lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình tĩnh trả lời: "Sai thì
sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân
thành.
Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này
đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không
còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng
viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên
ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện
những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau
v.v…
Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản
vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào
cũng đứng bên các bạn.
*
Giai thoại về một bài thơ
Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập
báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng
đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng “được” đi
cải cách. Đấy là một vinh dự vì “chưa qua cải cách thì
chưa thể làm người được".
Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết
bài cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập
trước khi đi thì nông dân được phát động vô cùng vui
sướng phấn khởi. Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà
cũng không oán Đảng vì Đảng rất công minh. Nhưng thực
tế thì khác nhiều. Địa chủ không dám oán đã đành nhưng
nông dân, chính nông dân thì lại kêu ca rất nhiều về
những hành động của anh em cốt cán, nhất là những gia
đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu hết mức như thu
gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho hàng chục
người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ 5 yến
thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu trời,
trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…
Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.
Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân
Diệu: “Hữu Loan về tòa soạn ngay!”. Chai lì như tôi mà
vẫn thấy lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi
ngay:
“Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?”
Xuân Diệu trấn an ngay:
"Bài thơ hay quá!"
Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai
mà không khỏi hoảng.
“Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được.”
Tôi vội hỏi:
“Câu nào?”
“Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"
Tôi hơi bực:
“Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có
câu ấy.”
Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:
“Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa
quần chúng à?”
Tôi khẳng định:
“Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người
cản mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được.
Chính những người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm
như tôi, lại không che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác,
tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài thơ này.”
Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác
không, nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc
lý do không đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến
quần chúng, khi quần chúng khổ đã phải thét lên thành
tiếng thì Bác không thể nào bình tĩnh được.
© 2007 talawas
[1]Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan
quân ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn
(theo lời kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán
trước mặt ông).
[2]Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng
Nguyễn Sơn.
[3]Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số
chi tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê,
gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm
thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã,
ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ,
song ông bảo tôi: ‘Thôi thì bà với các con chịu khổ để
cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì
nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm
được.’ Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm
mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ
đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa,
ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: ‘Làm cán bộ,
làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân
chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi.
Thôi tôi về đi cày.’ Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên
ông. Tôi bảo: ‘Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được
đâu.’ Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng
vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng,
lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh
về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một
xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào
vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày
phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến
chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các
thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số
đi học."
[4]Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn
Hữu Đang là “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên
Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2,
ngày 5.11.1956
[5]Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng
Cầm là: “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người
Trần Dần”, đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang
4, ngày 20.9.1956
[6]Chú thích của talawas: Truyện ngắn “Thi sĩ máy” của
Châm Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra
ngày 20.11.1956
[7]Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên
Nhân văn số 4, trang 3, ngày 05.11.1956
Màu Tím Hoa Sim
Hình: Trịnh Hội - Thi sĩ Hữu Loan (phải) và Trịnh Hội
Đêm hôm qua tôi nhận được tin
nhà thơ Hữu Loan vừa qua đời mà lòng bỗng cảm
thấy luyến tiếc, hụt hẫng. Cứ ngỡ như là mình
vừa mất một người thân mà mình hằng thương
mến. Dẫu biết rằng tuổi ông đã cao, gian khổ
đã nhiều. Và đời người phù du, ai sinh ra cũng
sẽ không tránh khỏi câu sinh, lão, bệnh, tử.
Thế nhưng tôi vẫn có cảm giác như ông chưa nên
vội ra đi trong lúc này.
Vì thế gian vẫn còn rất nhiều người mến mộ
ông. Có thể học được từ ông rất nhiều về tình
người và sự trung trực. Và đất nước vẫn còn nợ
ông một lời xin lỗi. Cho dù là nó có muộn màng
bao nhiêu hay chẳng giúp được gì cho chính
ông. Khi sinh thời hay trong hiện tại.
Tôi tiếc là vì vậy.
Còn nhớ năm nào tôi may mắn tìm ra được nhà
ông ở thôn Vân Hoàn, Xã Nga Lĩnh, Huyện Nga
Sơn ở Thanh Hóa. Và bên hiên nhà ông đã chia
xẻ với tôi biết bao câu chuyện về quãng đường
mà ông và gia đình đã nhọc nhằn bước qua kể từ
ngày ông quyết định rũ áo từ quan ở Hà Nội để
trở về quê sinh sống.
Vì ông không thể nào chấp nhận một chế độ hà
khắc và một chính sách tàn bạo của thời kỳ
Nhân Văn Giai Phẩm và Cải Cách Ruộng Đất. Để
ai cũng có thể bị cho là phản động. Để người
có thể hại người. Anh có thể giết em. Con cái
sẵn sàng đấu tố cha mẹ.
Lúc ấy ông đã ăn thọ 90 tuổi. Thế nhưng tinh
thần ông vẫn còn rất minh mẫn, đôi mắt ông vẫn
sáng ngời mỗi khi nhắc lại những kỷ niệm vui
buồn của ngày xưa. Lúc ông cãi tay đôi với ông
Hồ Chí Minh ngay tại Quốc Hội về những sai
phạm của chế độ đương thời. Hay khi ông phải
về quê tự làm nông, đẽo đá nuôi nấng gia đình
trong cơn túng thiếu và sự trù dập của chế độ.
Đến một chiếc xe cút kít kéo tay, ông bảo, họ
cũng không cho ông sử dụng. Và lẽ ra ông đã bị
họ giết mất lâu rồi nếu như người công an được
giao cho nhiệm vụ phải xử ông không nỡ ra tay
vì ông đã làm một bài thơ rất hay nói về làng
quê của chính người công an đó.
Ông bảo cuối cùng cũng nhờ làm thơ mà ông mới
sống đến bây giờ.
Cũng như chỉ cần một bài thơ duy nhất mà nay
ai cũng biết đến tên ông:
…
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
…
Ông đã kể cho tôi nghe nhiều lắm về nỗi đau để
mất người vợ đầu tiên của ông.
Chiều hôm ấy sau khi trò chuyện xong ông đã
bảo đứa cháu gái ông dắt tôi lên ngọn đồi gần
nhà để tìm lại màu hoa sim tím của năm nào.
Nhưng chúng tôi tìm mãi chỉ thấy đây đó lác
đác một vài cành hoa sim chưa nở rộ. Nó cũng
cùng một màu tím đấy nhưng không biền biệt như
trong thơ ông:
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…
Trở về nhà ông trên con đường làng vắng lặng
trong buổi chiều tàn, tôi cũng chợt nhận thức
ra được rằng chắc phải lâu lắm tôi mới có dịp
gặp lại ông. Vì thế trước khi chia tay từ giã
tôi đã xin ông viết cho tôi đôi chữ để tôi có
thể giữ lại làm kỷ niệm cho riêng mình.
Đưa cánh tay gầy guộc khẳng khiu để cầm lấy
cây viết tôi đưa cho ông, ông cười lớn, mắt
vẫn sáng ngời bảo rằng ông đâu biết viết gì để
tặng tôi.
Tôi vội đáp thưa ông điều gì cũng được.
Thế là cầm trên tay mảnh giấy học trò tay run
run ông đã nguệch ngoạc viết tặng cho tôi một
dòng duy nhất:
Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài.
Và đấy cũng là những gì mà tôi sẽ luôn nhớ mãi
về ông.
Xin gửi đến ông lời cảm ơn chân thành. Cùng
với những lời cảm phục sâu sắc nhất.