Sáng 24.5, cựu Thủ tướng Võ
Văn Kiệt nhập viện để rồi đi mãi. Buổi làm việc chiều 23.5, giờ đây, đã
là “buổi làm việc cuối cùng” của ông. Hôm ấy, trong cơn mưa không dứt,
ông say sưa nói về vai trò của người trí thức trước những vấn đề của đất
nước. Những ai đã từng biết đến Võ Văn Kiệt, người chứng kiến một đội
ngũ trí thức trước năm 1975 hăm hở ở lại Sài Gòn để rồi, sau đó, lặng lẽ
rời bỏ Sài Gòn, mới hiểu vì sao ông có thể để lại dấu ấn sâu đậm và được
các bậc trí thức quý trọng
|
Ngay từ trong kháng chiến, ông đã miệt mài đọc sách và học hỏi từ
những bậc trí thức. Lúc về hưu, ông vẫn tận dụng thời gian để thu
nạp thêm kiến thức. Ảnh: Thu Thuỷ |
“Để tôi đưa anh đi,
đừng vượt biên nguy hiểm”
Năm 1980, trong khi GS
Chu Phạm Ngọc Sơn đang đi công tác ở Liên Xô, một người con của ông
“vượt biên” không thành. Phải sống ở Sài Gòn thời ấy mới cảm nhận được
sự dữ dội của hai từ “vượt biên”. Trở lại Sài Gòn, ông Kiệt nói với giáo
sư Sơn: “Để cháu đi như vậy, có gì, tôi với anh có tội”. Vợ GS Chu Phạm
Ngọc Sơn là một dược sĩ đang làm ở một bệnh viện lớn. Giải phóng vô, bà
được xếp vào thành phần “bóc lột”, bị thay thế bởi một người yếu kém về
chuyên môn. Con gái ông, sau này trở thành một bác sĩ giỏi ở Mỹ, những
năm ấy, thi vô dự bị y khoa không đậu. Cho dù giáo sư vẫn quyết tâm gắn
bó với chế độ mới, lòng tin của vợ con ông vơi dần.
Biết chuyện, ông Võ Văn
Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện với gia đình GS Chu Phạm Ngọc Sơn,
nhưng ông nhận ra mình bất lực. Ông Kiệt nói với giáo sư Sơn: “Thôi, anh
cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó, có điều kiện cho
các cháu học hành. Sau này, nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi
với anh cũng được làm tròn bổn phận”.
Cũng trong những năm ấy,
ông Kiệt cho gọi tổng thư ký hội Trí thức yêu nước Huỳnh Kim Báu lên
dặn: “Anh nghe ngóng, anh em trí thức lỡ “đi”, nếu có bị bắt ở đâu, anh
phải đi lãnh về”. Ông Huỳnh Kim Báu nhớ lại: “Một lần, nhận được tin
công an Bình Thuận bắt giam kỹ sư Dương Tấn Tước về tội vượt biên, ông
Kiệt cấp giấy cho tôi, ra Bình Thuận “di án” về TP.HCM thụ lý”. Ông Báu
kể, khi bước vô trại giam, anh Tước thấy tôi, mừng quá định kêu lên, tôi
phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ
phải làm thinh mặc cho kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình
Thuận, tôi mới mở còng và giải thích.
Đích thân ông Kiệt nhiều
lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức. Theo ông Phạm Văn Hùng
và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thân cận thời đó của ông, hình
thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu
tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Một trong những
trí thức mà ông Kiệt rất quý trọng là kỹ sư ngành dệt Phạm Văn Hai. Khi
ông Hai vượt biên bị bắt, ông Kiệt vào trại giam nói: “Khi nào không ở
lại được nữa hãy nói với tôi, anh đừng đi như thế, nguy hiểm lắm”.
“Nước đâu phải là
chuyện của trí thức”
Ông Võ Văn Kiệt nhiều lần
tâm sự, ông hiểu phần lớn những trí thức chọn ở lại sau ngày 30.4 không
phải vì họ bị “kẹt”. Ông biết nhiều người có trong tay cả một chiếc máy
bay đã cất cánh nhưng không thể nào rời bỏ Việt Nam được. Nhiều người,
như giáo sư Châu Tâm Luân, đã từng là một “kẻ chống đối” trong chế độ
cũ. Kết thúc chiến tranh là một cơ hội mà phần lớn người dân miền Nam
lúc ấy hy vọng sẽ nhanh chóng thống nhất được lòng người để xây dựng một
đất nước ấm no hạnh phúc. Nhưng, ông hiểu vì sao chính những người đó về
sau đã “vượt biên”.
Ông Đặng Anh Võ, một
chuyên gia trong ngành viễn thông, do từng phục vụ trong quân đội, sau
1975, phải đi “học tập” một thời gian. Cũng như nhiều trí thức lúc đó,
ông Võ phải làm đủ nghề để kiếm sống. Ông, một người lãnh lương gần 4
cây vàng/tháng hồi trước 1975, kể lại cuộc sống về sau trong tập sách
Những trang đời do hội Nghiên cứu dịch thuật xuất bản: 16:30 tan sở;
17:00 đến Trung tâm ngoại ngữ; 21:00 về, ăn qua loa rồi phụ vợ gọt thơm,
gọt ổi để sáng còn kịp đi bỏ mối. Nhiều hôm, 21:00 dạy ra, bánh xe bị
xẹp, phải dắt bộ 9km về nhà tự vá để tiết kiệm 3 đồng! Nhưng, sự khốn
khó của cuộc sống không phải là tất cả.
Cho tới hàng
chục năm sau, khi nhớ lại thời điểm này, ông Kiệt nói: “Đau lắm,
để họ ra đi là đau lắm! Nhưng, mình biết, cái cách của mình lúc ấy
không thể nào giữ được họ” |
Ông Huỳnh Kim Báu kể, năm
1978, khi có nhiều trí thức bỏ nước ra đi, ông Võ Văn Kiệt đã gặp gỡ trí
thức thành phố, kêu gọi họ ở lại. Ông nói: “Anh em cố gắng ở lại, trong
vòng ba năm nữa, nếu tình hình vẫn không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra
phi trường”. Lúc đó, GS Nguyễn Trọng Văn đứng lên trả lời ông: “Chúng
tôi sẵn sàng ở lại, nhưng nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì
tôi cho rằng người ra đi không phải là chúng tôi”. Câu nói của GS Nguyễn
Trọng Văn gây rúng động. Tối hôm ấy tại văn phòng Thành uỷ có một cuộc
họp, Huỳnh Kim Báu được mời dự. Các ý kiến phê phán GS Văn hết sức gay
gắt, có người đề nghị: bắt! Ông Báu kể, Sáu Dân làm thinh, nhưng cặp mắt
đăm chiêu, buồn. Cuối cùng, ông nói: “Sau khi nghe anh Văn nói, tôi cũng
bị sốc, rất sốc. Nhưng rồi suy nghĩ, tôi thấy, anh Văn đã phát biểu rất
nghiêm túc. Tôi cho rằng, nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì
rõ ràng người ra đi không thể là các anh ấy”. Kết luận của “Sáu Dân”
khiến cho mọi người im lặng và nhờ kết luận đó, GS Nguyễn Trọng Văn đã
không bị bắt.
Năm 1977, một lần, hệ
thống nước máy của thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí
thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Bửu Tâm ngồi im.
Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Bửu Tâm là một nhà giáo dục
rất được kính trọng. Ông Tâm cũng rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ là đã
dồn nén lâu lắm, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức
khoẻ, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh, đâu
phải chuyện tụi tui”.
Những câu nói như vậy
không làm cho ông Võ Văn Kiệt, lúc đó đang nắm “quyền sinh quyền sát”
tại thành phố, để bụng. Ông nhận thấy ở đấy sự đau đớn của giới trí
thức. Ông biết, những người như kỹ sư Phạm Văn Hai không chỉ tiếc những
tài sản bị “cải tạo”, mà còn không chịu được khi nhìn những nhà máy bị
quản lý cẩu thả, chất lượng sản phẩm xuống cấp. Những người như GS Châu
Tâm Luân, Dương Kích Nhưỡng thì xót xa về một vấn đề khác lớn hơn. Ông
Kiệt kể: Anh Dương Kích Nhưỡng nói với tôi, “Ý của các anh rất tốt nhưng
các anh không làm được”. Tôi hỏi vì sao, anh Nhưỡng nói, “Đất nước phải
được quản lý theo luật”. Cho tới hàng chục năm sau, khi nhớ lại thời
điểm này, ông Kiệt nói: “Đau lắm, để họ ra đi là đau lắm! Nhưng, mình
biết, cái cách của mình lúc ấy không thể nào giữ được họ”.
Khát khao tri thức
Sinh ra trong một gia
đình nông dân nghèo, ông Võ Văn Kiệt chưa bao giờ được đến trường một
cách chính thức. Từ năm lên sáu, lên bảy tuổi, ông Kiệt, khi ấy có tên
là Phan Văn Hòa, Chín Hòa, thường theo cha nuôi lênh đênh đi gặt mướn
cho các điền chủ dọc sông Tiền, sông Hậu. Công việc của Chín Hòa là giữ
ghe hoặc “mót” lúa. Năm tám tuổi, Chín Hòa mới được đi học. Lớp học do
những gia đình trung nông, địa chủ, sau ngày mùa, cất trại, rước thầy về
dạy, nên tiền học chỉ phải trả “rất nhẹ”. Ông Hai Mẹo, một trong hai
người thầy “dạy mùa” của Chín Hòa, kể: “Năm 1932, lấy được cái
certificat, tôi về Đình, ông chú thấy tôi có chữ, kêu tôi dạy cho trẻ
con lối xóm. Chín Hòa, thông minh và ăn nói lễ độ lắm. Nhưng dạy được
hai năm thì tôi cũng hết chữ, rồi thôi”. Lớp học thứ hai của ông là do
những người truyền giáo tới ấp Bình Phụng, quê ông, mở. Ông học ở ngôi
trường này khoảng một năm. Tuy nhiên con đường tìm kiếm tri thức của ông
Võ Văn Kiệt không dừng lại ở đấy.
Khi tham gia cách mạng,
được dự những cuộc họp của Uỷ ban kháng chiến Nam bộ, nghe những bậc trí
thức như Nguyễn Văn Hưởng, Ung Văn Khiêm, Phạm Ngọc Thuần… nói, ông Võ
Văn Kiệt thấy có một khoảng cách rất rõ giữa mình và những bậc trí thức
đó. Ngay từ trong kháng chiến, ông đã miệt mài đọc sách và học hỏi từ
những bậc trí thức, cho dù có nhiều người chỉ là cấp dưới của ông.
Sau ngày 30.4.1975, ông
không mang nguyên cái “thế” của một nhà lãnh đạo kháng chiến xuất sắc từ
trong rừng trở về. Ông không ngần ngại học hỏi từ những người trí thức
Sài Gòn cũ. Trong đó có những người đã từng là quan chức cao cấp trong
chế độ Sài Gòn như tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh… Ông
nhìn thấy ở họ phẩm chất của những người yêu nước và rất tự trọng. Hồi
đó, một vị lãnh đạo thấy ông gần gũi với những quan chức cao cấp của chế
độ cũ, muốn giữ cho ông, nói: “Đó là CIA đấy”. Ông trả lời: “Lúc nào anh
đủ bằng chứng họ là CIA hãy đưa tôi, chính tôi sẽ bắt họ”. Những kiến
thức về kinh tế thị trường của các ông như Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân
Oánh, những người đã từng là phó thủ tướng trong chế độ Sài Gòn, và của
nhiều bậc trí thức Sài Gòn khác mà ông có dịp tiếp cận rất sớm, tuy ngay
lúc đó chưa dùng được nhưng về sau đã rất hữu ích với ông.
Năm 1989, khi ông đang là
Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng, được giao chủ trì công tác cải
cách hệ thống ngân hàng, ông Kiệt đã thiết lập một nhóm chuyên gia bao
gồm cả những người đã từng hoạt động trong hệ thống ngân hàng Sài Gòn.
Hai “tác giả” chính của pháp lệnh Ngân hàng thời đó chính là hai chuyên
gia được ông mời từ Sài Gòn ra: ông Huỳnh Bửu Sơn và ông Lâm Võ Hoàng.
Năm 1990, khi đại diện
Việt Nam lần đầu tiên tham dự diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos, Thuỵ
Sĩ, ông kể: “Tôi không yên tâm với bài phát biểu do anh em văn phòng
chuẩn bị. Anh em giỏi nhưng hiểu biết về phương Tây chưa nhiều”. Ông đã
không ngần ngại đưa bài phát biểu của mình vào Sài Gòn nhờ tiến sĩ
Nguyễn Xuân Oánh đọc lại. Đồng thời, ông cho bà Tôn Nữ Thị Ninh liên hệ
mời tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo lúc ấy đang ở nước ngoài bay đến Davos. Như
vậy, trong chuyến đi tới phương Tây lần đầu tiên ấy, ông có không chỉ là
một người bạn mà còn có một “cố vấn” ở bên cạnh. Trước chuyến đi, ông
cũng nhờ bà Tôn Nữ Thị Ninh tư vấn về trang phục. Đó là thời điểm Việt
Nam bắt đầu đổi mới và thế giới bắt đầu nhìn thấy một nhà lãnh đạo “cộng
sản”, từ trong cách ăn mặc, phát biểu, hết sức thân thiện và không có
nhiều khác biệt với thế giới bên ngoài.
Sự trân trọng chân
thành
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo
kể, những năm sau 1975, ông ở lại nhưng rồi không được sử dụng, đôi khi
cả ngày không có việc gì làm. Nhưng, khi nghe một vị lãnh đạo điện thoại
bảo: “8 giờ sáng nay mời anh lên tôi gặp”, ông đã trả lời: “8 giờ tôi
bận”. Ông Kiệt không bao giờ cư xử như vậy. Cho dù đang ở vị trí đầy
quyền lực và lớn tuổi hơn, khi nào ông Kiệt cũng gọi tiến sĩ Nguyễn Văn
Hảo bằng “ông”. Những khi muốn gặp, ông thường trực tiếp nói chuyện điện
thoại và bao giờ cũng hỏi trước: “Ông tiến sĩ rảnh vào lúc nào?”.
Một lần, ông Kiệt mời
kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cùng ông đi Algérie. Trên chuyến bay của hãng
hàng không Air France, ông được xếp ở khoang hạng nhất, còn KTS Ngô Viết
Thụ do sơ suất chỉ được mua vé ngồi ở phía sau. Ông muốn mời KTS Ngô
Viết Thụ lên ngồi cùng nhưng không được. Ông “xin” phi hành đoàn cho
được xuống hạng economy để ngồi với ông Thụ, thế là phi hành đoàn đã
đồng ý để ông mời KTS Ngô Viết Thụ lên. Trong một chuyến đi khác cùng
với KTS Ngô Viết Thụ ra Hạ Long, khi ông Thụ xúc động trước cảnh đẹp
thần tiên, đích thân ông Kiệt đã lấy giấy và tự tay mài mực cho ông Ngô
Viết Thụ vẽ.
Là một nhà lãnh đạo hết
sức quyết đoán, nhưng đồng thời ông Võ Văn Kiệt cũng là người hết sức
thận trọng, ông thường lắng nghe rất nhiều ý kiến khác nhau trước khi
ban hành các quyết định của mình. Ông nói: “Kinh nghiệm của một nhà lãnh
đạo là phải nghe rất kỹ ý kiến chuyên gia và đặc biệt, đã nghe chuyên
gia thì phải nghe trực tiếp chứ không bao giờ nên nghe thông qua những
người giúp việc”.
Cho đến những năm cuối
đời, ông vẫn đọc rất nhiều, đọc cả những ý kiến chỉ trích ông gay gắt.
Nhiều lần ông dặn những người giúp việc, nếu như những người chỉ trích
ông về nước, hãy mời họ tới gặp ông. Ông trân trọng và muốn trao đổi sâu
thêm về những khác biệt, với họ.
Bằng sự trân trọng tri
thức và các bậc trí thức một cách chân thành, ông tìm thấy ở họ, không
ngừng, những điều mới mẻ. Và đặc biệt ông kiến tạo được rất nhiều mối
quan hệ bè bạn với các nhà trí thức. Đó là lý do mà người ta có thể tìm
thấy ở ông không chỉ là uy lực mà còn là sự thông tuệ. Và đặc biệt, ông
có được từ những người đã gặp và làm việc, không chỉ là sự kính trọng mà
còn là sự thân thiện. Sự thân thiện của một con người vẫn thường được
gọi: “Anh Sáu Dân”.
Ông
Võ Văn Kiệt đã về đến nhà
Sài Gòn bỗng nhiên mưa,
tầm tã. Chiếc máy bay Learjet-45 của hãng Thai Flying đáp
xuống Tân Sơn Nhất lúc 11:40 ngày 11 tháng 6 năm 2008. Ông,
cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, đã trở về trên một chiếc băng ca
nhỏ. Hai hôm trước, từ Singapore, một người đi cùng chăm sóc
ông, gửi thư về, cho biết: “Chú bị tổn thương phổi khá
nặng. May mà sang đây điều trị tích cực hơn nên tình hình
không xấu thêm. Tuy nhiên, tác nhân gây bệnh thì vẫn chỉ dự
đoán chứ chưa tìm ra. Để có thể có kết quả khả quan chắc
phải chờ thêm thời gian. Điều đáng lo ngại là do tổn thương
phổi quá nặng, nên những cơ quan khác như tim, thận đều bị
ảnh hưởng, hiện vẫn thở máy và dùng máy lọc thận. Anh yên
tâm, thời điểm đáng lo ngại nhất đã qua rồi”. Tôi đã cố
yên tâm.
Hơn hai
tuần trước, ngày 23-5-2008, ngay sau khi vừa từ Hà Nội trở
về, ông cho gọi tôi đến. Chiều ấy cũng mưa tầm tã. Ông giữ
tôi ngồi lại rất lâu, phần để chờ cơn mưa dứt, phần để ông
có thêm thời gian trò chuyện. Biết bao dự định, biết bao tâm
sự… Hôm ấy, sau hai ngày bị cảm, ông có vẻ mệt. Nhưng rất
minh mẫn và giọng vẫn đầy nhiệt huyết. Hôm sau ông vào viện,
ông hẹn sẽ trở về. Tôi không bao giờ nghĩ, ông sẽ trở về
trên chiếc “chuyên cơ” cấp cứu ấy. Mưa dịu lại một chút,
hình như trời cũng trầm xuống để các bác sỹ chuyển ông từ
máy bay sang xe. Chưa bao giờ có một cuộc đón tiếp ông ở sân
bay với đông các nhà lãnh đạo, bạn bè và người thân như vậy.
Đứng sát bên tôi là hai người nấu bếp lâu nay của ông. Các
chị sụt sịt, rồi nấc lên, khi thấy mái đầu bạc của ông dần
hiện ra ở cửa máy bay. Ông đã về.
Huy Đức
- SGTT |