Những bài cùng tác giả
Nhân đọc bài "Hiến kế đưa khoa học - công nghệ trở thành động lực" (*) ,
tôi xin phép có một vài thiển kiến. Tôi rời Việt Nam trước 1975 du học
tại Nhật Bản sau đó tốt nghiệp Tiến sĩ tại Úc. Tôi có kinh nghiệm nghiên
cứu và chỉ đạo nghiên cứu trên hai phương diện cơ sở lẫn áp dụng hơn 25
năm và hiện giờ đang làm công tác nghiên cứu khoa học chuyên về Khoa Học
Vật Liệu Cao Cấp tại một viện nghiên cứu trực thuộc chính phủ liên bang
Úc.
Kể từ năm 1998 tôi có về Việt Nam nhiều lần để tham gia hội thảo khoa
học và báo cáo seminar tại các cơ quan nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.
Trong những lần về nước nầy, tôi may mắn được tiếp xúc với các đồng
nghiệp tại Việt Nam. Những nhận xét sau đây dựa vào điều quan sát trong
những dịp giao lưu này.
1. Cải cách lương bổng
Một đồng nghiệp trong nước bảo tôi "Một ngày lương của tôi chỉ có hai,
ba đô la thì làm sao sống nổi trong thời buổi kinh tế thị trường nầy!?".
Nếu người làm khoa học không có một tâm lý "an cư lạc nghiệp" thì khó có
thể sử dụng được khả năng sáng tạo của mình cho đúng mức để loé ra những
tia sáng phát minh. Không có cải cách lương bổng sẽ sinh ra tham nhũng
trong khoa học, hoặc chạy mánh làm giàu bằng những tư vấn dựa vào nhưng
công trình "ma" nguỵ khoa học.
2. Nghiên cứu cơ sở hay nghiên cứu áp dụng
Nghiên cứu cơ sở nhằm đặt ra những nền tảng cho sự phát triển khoa học
thuần tuý nhưng cũng đồng thời để thoả mãn tính hiếu kỳ của các nhà khoa
học, vì vậy nó không mang nhiều lợi ích cho một nước đang phát triển như
Việt Nam. Mục đích của những nghiên cứu cơ sở tại phương Tây nhất là tại
các đại học là số lượng bài báo cáo trên các tạp chí khoa hoc. Phần lớn
những kết quả nghiên cứu chỉ mang tính chung chung. Dù vậy, chất lượng
nghiên cứu cơ sở tại Việt Nam vẫn chưa đạt đến trình độ quốc tế. Tình
trạng theo đuôi các đề án nghiên cứu của nước ngoài rất phổ biến trong
những đề án nghiên cứu cơ sở tại Việt Nam.
Trong một đất nước có một nền kinh tế đang đi lên như Việt Nam, nghiên
cứu khoa học có thể tạo ra những sản phẩm bán ra tiền hoặc tiết kiệm
tiền là nghiên cứu có giá trị. Đây là những nghiên cứu mang tính áp
dụng. Nghiên cứu mang tính áp dụng phải được đặt ưu tiên trong chính
sách khoa học của nhà nước vì nó là động lực cho sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, tìm ra một đề tài nghiên cứu áp dụng để đưa ra thành phẩm
không phải là một chuyện dễ. Theo thống kê, trong 5000 đề tài khoa học
sẽ có 1000 đề tài khả thi trên phương diện thực nghiệm. Trong 1000 đề
tài nầy sẽ đưa đến 100 đề tài có khả năng áp dụng. Và trong 100 đề tài
nầy nhiều nhất chỉ có 5 đề tài đưa đến thành phẩm. Như vậy, xác suất
thành công sẽ ít hơn 0.1 %. Tuy nhiên, người Nhật Bản đã biết "đi tắt
đón đầu" và rất thành công về phương diện nầy. Sau khi bại trận trong Đệ
Nhị Thế Chiến, các nhà khoa học Nhật đã biết lợi dụng và chọn lọc những
thành quả khoa học của Mỹ và Âu Châu để chế biến thành những sản phẩm
hữu dụng bán cho thế giới. Chẳng hạn transistor là một phát minh của Mỹ
nhưng Nhật chế tạo những đài transistor radio đầu tiên làm tràn ngập thị
trường thế giới.
Hiện tại, Việt Nam không thể bắt kịp thế giới trong nghiên cứu cơ sở mà
mục tiêu chỉ để xuất bản những bài báo cáo chung chung chỉ làm lãng phí
đến tiền thuế của nhân dân vô ích. Việt Nam cần phải tạo những luồng
nghiên cứu áp dụng mang tính bản địa và phù hợp với tình huống Việt Nam.
Những thành quả nghiên cứu sẽ tạo ra công nghệ và doanh nghiệp khoa học
phục vụ cho đời sống của người dân cho nhu cầu công nghệ Việt Nam và xa
hơn nữa cho thế giới.
3. Phương pháp tuyển chọn đề án khoa học
Chính phủ lập ra một Uỷ Ban Khoa Học - Công Nghệ đặt ra chính sách và
trọng tâm nghiên cứu, để tuyển chọn và quyết định việc cung cấp tài
khoản cho những đề án. Uỷ Ban bao gồm những chuyên gia trong ngành trong
và ngoài nước. Để sự tuyển chọn có tính cách minh bạch, khách quan và vô
tư, những đề án nầy cần phải đi qua một quá trình duyệt khảo của những
chuyên gia. Để tránh sự đố kỵ cũng như tệ nạn "anh gãi lưng tôi, tôi gãi
lưng anh" những đề án cần phải có ít nhất 3 người duyệt khảo phê bình.
Có thể nhờ chuyên gia nước ngoài để tính khách quan được nâng cao. Những
hoạt động khoa học nầy hoàn toàn miễn phí trong cộng đồng khoa học quốc
tế.
Việc quản lý tài chánh của một đề án nghiên cứu liên quan đến việc mua
thiết bị, hoá chất, vật liệu thí nghiệm v.v... cần phải giao cho một ban
quản trị độc lập giám sát để tránh tình trạng tham nhũng.
4. Chất xám Việt Kiều
So với các nước láng giềng Á Châu, số Việt Kiều có tài năng khoa học kỹ
thuật còn ít nhưng sẽ tăng trưởng nhanh. Muốn thu hút chất xám Việt Kiều
chính phủ cần phải đầu tư vào việc ăn ở và giáo dục cho gia đình con em
của những Việt Kiều trở về nước phục vụ ngắn hạn hay dài hạn. Việt Kiều
làm việc trong những cơ quan nghiên cứu khoa học, đại học hoặc trong các
doanh nghiệp công nghệ phần lớn mang một tâm tình trở về phục vụ đất
nước. Việt Kiều có thể bỏ tiền túi hoặc dựa vào tài trợ của cơ quan cho
việc ăn ở đi lại một vài lần đầu để tham gia giảng dạy, hướng dẫn các đề
án nghiên cứu hoặc phát triển một sản phẩm công nghệ cao. Tuy nhiên,
những hoạt động nầy sẽ không mang tính chất lâu dài nếu chính phủ không
có một chính sách rõ rệt đối với Việt Kiều.
Chính sách thu hút chất xám kiều dân đóng góp vào khoa học kỹ thuật và
biến những thành quả nầy thành một động lực để phát triển kinh tế đất
nước đã được chính phủ Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và gần đây Trung
Quốc thực hiện rất thành công. Tôi xin đơn cử một thí dụ về chính sách
tài trợ nghiên cứu của chính phủ Trung Quốc đối với kiều dân của họ.
Trung Quốc có một ngân khoản đặc biệt dành cho những nhà nghiên cứu gốc
Trung Quốc trên toàn thế giới. Chính sách nầy rất khôn ngoan là vì (1)
người nhận tiền nghiên cứu vừa có tiền làm việc vừa đóng góp cho tổ quốc
và quê hương thứ hai cùng một lúc, (2) cơ quan của người nhận sẽ được
tiếng là có thu nhập nghiên cứu và có "hợp tác quốc tế", (3) chính phủ
Trung Quốc được những thành quả nghiên cứu mà không bị mang tiếng là "ăn
cắp".
Tóm lại, tài năng không phân biệt chủng tộc. Nếu có sự khác biệt thì chỉ
là cách thực hiện chính sách, quản lý hành chánh và quyết tâm của nhà
nước. Những thiển nghĩ trên đây không phải là những điều mới lạ mà là
những tiêu chuẩn đã và đang áp dụng trên toàn thế giới. Tại Á Châu, Nhật
Bản đi trước dẫn đầu. Những nước láng giềng Á Châu nối tiếp bước đi Nhật
Bản gặt hái được những thành công trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật
để trở thành những con rồng kinh tế. Từ đống tro tàn của "Cách Mạng Văn
Hoá", Trung Quốc đã vươn mình lên " dòm ngó" vị trí cường quốc thứ hai
trên mặt trận kinh tế thế giới nhờ vào những chính sách toàn diện, nhất
quán và khôn ngoan. Ở thập niên 60, Nhật Bản đưa ra khẩu hiệu "Kỹ Thuật
Lập Quốc", ở thập niên 90 cựu Chủ Tịch Giang Trạch Dân hô hào "Khoa Giáo
Hưng Quốc" (khoa giáo = khoa học va giáo dục) và đưa vào chính sách nhà
nước, thực thi triệt để. Ngay trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nhà
nước Việt Nam cũng đã nêu lên những khẩu hiệu đánh giá tầm quan trọng
của khoa học, điển hình là "Việt Nam có ba cuộc cách mạng, mà trong đó
cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt". Tiếc rằng Việt Nam đã thống
nhất hơn 30 năm, nhưng cho đến nay những thành tích về khoa học và công
nghệ trên phương diện lý luận, cơ sở và ứng dụng vẫn còn rất khiêm tốn.
Trân trọng kính chào
TS Trương Văn Tân (Australia)
Đã đăng trên VietNamNet
(ngày 8/10/2005)
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.orgTrương
Văn Tân
|