Những bài cùng tác giả
Bộ GD-ĐT công bố tại cuộc giao ban báo chí bản báo
cáo số liệu về "Giáo dục VN - đầu tư và cơ cấu tài chính".
Việc Bộ GD-ĐT công bố tương đối chi tiết các số liệu tổng hợp về vấn đề
"nóng" luôn được dư luận xã hội quan tâm là một việc làm rất được hoan
nghênh. Tuy nhiên, trong bản báo cáo có một số nội dung chưa rõ ràng.
Xin dẫn một vài thí dụ cụ thể như sau:
Chưa tính đủ các khoản
"Học phí ở nước ta hiện tại qui định từ năm 1998 đến nay không thay đổi"
là chưa đúng vì: trước hết quan niệm về học phí đã có thay đổi căn bản.
Trước đây, theo Luật giáo dục năm 1998, ngoài học phí và lệ phí tuyển
sinh, các nhà trường còn được phép thu tiền xây dựng trường, tiền học
các môn học chưa qui định chính thức trong chương trình (ngoại ngữ, tin
học, các hoạt động ngoại khóa…), tiền học 2 buổi/ngày...
Theo Luật giáo dục năm 2005 (điều 105): "Học phí, lệ phí tuyển sinh là
khoản tiền của gia đình người học phải nộp để góp phần bảo đảm chi phí
cho các hoạt động giáo dục đào tạo. Học sinh trường tiểu học công lập
không phải đóng học phí. Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người học
và gia đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào khác".
Như vậy, bản số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT đã chưa tính đủ các khoản
đóng góp thực tế hiện nay của người học và gia đình người học để bảo đảm
chi phí học tập. Chính với cách thống kê "học phí” này, Bộ GD-ĐT đã chưa
tính đến rất nhiều khoản đóng góp của người học và gia đình ở ngoài báo
cáo, chưa đưa vào số liệu tổng các nguồn lực tài chính của giáo dục.
Thí dụ, chỉ tính riêng cấp tiểu học, theo qui định của UBND cấp tỉnh,
thành phố, học sinh các trường công lập còn phải đóng tiền xây dựng
trường, tiền học 2 buổi/ngày, tiền học ngoại ngữ, tin học (ở những nơi
có dạy các môn này), tiền học cho các hoạt động ngoại khóa... Nếu tính
cả các khoản này thì học sinh tiểu học công lập đã phải đóng học phí
(trái hiến pháp 1992 và Luật giáo dục) và tổng số kinh phí thu được là
rất lớn chứ không thể bằng 0 như số liệu tại các trang 29, 30 của báo
cáo.
Ngoài ra, học sinh tiểu học còn phải đóng tiền đồng phục, bảo hiểm y tế,
mua sách giáo khoa, sách tham khảo, vở viết và dụng cụ học tập, quĩ hội
cha mẹ học sinh, quĩ đội, tiền học trái tuyến, tiền học thêm... (là các
khoản không có trong quyết định của UBND tỉnh, thành phố).
Về cách tính tỉ lệ chi phí bình quân cho giáo dục so với thu nhập, các
nước trên thế giới đều tính tỉ lệ theo đầu người chứ không thể tính theo
hộ gia đình. Phải chăng vì muốn chứng tỏ rằng chi phí học tập chỉ chiếm
4 - 8% mà Bộ GD-ĐT đã có cách tính khác với các nước như vậy? Còn nếu
tính theo cách tính thông thường của các nước thì năm 2006, tỉ lệ giữa
chi phí giáo dục bình quân một người đi học so với thu nhập bình quân
một nhân khẩu của nước ta, tính từ các con số trong bảng trang 19 và
trang 23 của Bộ GD-ĐT nói trên, là 14,96%.
Tương tự cấp tiểu học, học sinh công lập ở tất cả các cấp học khác (nhất
là học sinh các trường bán công, công lập tự chủ tài chính ở phổ thông)
và sinh viên các trường đại học, cao đẳng đều phải đóng rất nhiều khoản
khác mà Bộ GD-ĐT không biết vô tình hay cố ý "quên" không thống kê để
đưa vào nguồn đóng góp của xã hội cho giáo dục. Các con số về đóng góp
của người dân trong bảng số liệu của Bộ GD-ĐT chỉ là các con số kinh phí
thu được từ các qui định chính thức đối với người học trong các trường
công lập mà thôi.
Ngoài ra, Bộ GD-ĐT chưa đưa ra được con số cụ thể về tổng đóng góp của
người dân trong các trường ngoài công lập.
Vì vậy, con số tỉ lệ tương quan giữa đóng góp của người dân và của Nhà
nước (25%/75%) được nêu ra trong báo cáo của Bộ GD-ĐT liệu có chính xác
và đủ độ tin cậy?
Nhiều vấn đề chưa được giải đáp
Vấn đề Quốc hội, đại biểu Quốc hội, công luận và người dân quan tâm nhất
là sử dụng các nguồn lực tài chính cho giáo dục như thế nào đã không
được giải đáp trong bản báo cáo nói trên của Bộ GD-ĐT. Xin nêu thí dụ về
một số nội dung cụ thể:
Lương giáo viên được bao nhiêu?
Theo con số thống kê ngành công bố trong báo cáo, năm 2006 có tổng số
1.020.862 nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trong đó 876.159 thuộc hệ
thống công lập (trang 13). Đây là số người được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Tổng chi thường xuyên của năm 2006 là 44.798 tỉ đồng, nguồn học phí là
4.329 tỉ đồng; trừ các khoản thuộc chương trình mục tiêu quốc gia GD-ĐT
(2.970 tỉ đồng) và nguồn ODA (1.200 tỉ đồng) thì khoản thực tế dành cho
chi thường xuyên là 44.957 tỉ đồng. Tính theo mức thấp nhất theo báo cáo
của Bộ GD-ĐT trình Ủy ban VHGD TN, TN&NĐ Quốc hội ngày 3-10-2007, tỉ lệ
chi lương chiếm 85% tổng chi thường xuyên, thì tổng quĩ lương của cán bộ
quản lý, giáo viên công lập phải khoảng 38.213,45 tỉ đồng.
Với quĩ lương này, bình quân lương cán bộ quản lý, giáo viên công lập sẽ
là 3.634.561 đồng/người/tháng. Thế nhưng, trong thực tế lương bình quân
mỗi giáo viên hiện nay khoảng 1.500.000 đồng/tháng, vậy số tiền hơn 2
triệu còn lại đáng lý phải thuộc về giáo viên thì đã đi đâu? Chúng ta
thấy nếu số tiền lương này được trả đủ, đúng cho giáo viên thì không cần
phải tăng học phí để tăng lương cho giáo viên.
Nguồn vốn ODA cho giáo dục là bao nhiêu?
Một nguồn lực tài chính rất lớn cho giáo dục - đào tạo là nguồn vốn vay
ưu đãi và các khoản viện trợ không hoàn lại nhưng đã không được Bộ GD-ĐT
báo cáo trong bản công bố số liệu đầu tư và cơ cấu tài chính giáo dục
VN. Các nguồn vốn này cũng phải được quản lý như ngân sách nhà nước, và
được sử dụng như thế nào, hiệu quả ra sao rất cần được Bộ GD-ĐT công
khai báo cáo!
Đã đăng trên
Tuổi Trẻ
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Xuân Hãn
|