Holger  Crafoord

Nguyệt Trinh                         17 tháng  04 năm 2004                      
   

 Holger  Crafoord (1908-1982)

Alf Erik Holger Lundquist sinh ngày 25 tháng 7 năm 1908 tại Stolkholm, Thụy Điển. Do cuộc hôn nhân của cha mẹ không thể kéo dài, cậu bé con một Holger về ở với mẹ là Hanna. Nàng xuất thân là một tiểu điền chủ tại làng Ödestugu ở Småland, và sau đó mở một cửa hàng tạp phẩm trong thành phố. Holger lớn lên trong vòng tay thương yêu của gia đình, dù hoàn cảnh khá túng thiếu cậu bé vẫn được đáp ứng tương đối.

Mẹ của ông chịu nhiều nhọc nhằn khi quán xuyến công việc mua bán, với quyết tâm tạo đủ điều kiện vật chất để dẫn dắt cậu bé hoàn tất con đường học vấn. Holder tốt nghiệp Trung Học vào năm 1927 tại trường Eastern Grammar School. Sau đó ông tiếp tục theo học tại the Stockholm School of Economics (xin tạm dịch, Viện Kinh Tế Học Stockholm).

Do lớn lên trong gia đình buôn bán, Tài Chính và Kinh Doanh (Finance and Business) thật sự có vai trò khá thú vị trong đời sống hằng ngày của ông từ thời niên thiếu. Sau khi Hanna Lundquist tái hôn với Kỹ Sư Trưởng James Harry Crafoord thì người chồng mới của bà nhận Holger làm dưỡng tử và đổi tên họ cậu bé là Holger Crafoord.

Trong thời gian theo học tại Viện Kinh Tế Học Stockholm, Crafoord với danh dự là sinh viên ưu tú nhất tại trường đã lọt vào mắt nhà Kỹ Nghệ Ruben Rausing và được tuyển nạp vào công ty Åkerlund & Rausing ở Lund, đó là năm 1930 khi ông vừa 22 tuổi. Có thể nói, bắt đầu từ ấy qua suốt nhiều năm làm việc chung đã dẫn đến kết quả mỹ mãn khi ÅR trở thành công ty bao bì đóng gói hàng đầu tại Châu Âu, đồng thời mở đầu cho công cuộc thành lập Tetra Pak.

Vào đầu năm 1939 khi Holger Crafoord được 31 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị tại ÅR và là cột trụ của Hội Đồng Quản Trị vài năm sau đó. Tính đa dạng của riêng bản thân ông cùng sự hiểu và kinh nghiệm phong phú, khả năng chủ động đặt để công việc và phán quyết, tinh thần trách nhiệm trong mọi tình huống, cộng với tính vô tư khách quan trong công tác và cái nhìn mới lạ trước những vấn đề nan giải, v.v... tất cả là điểm nổi bật quý giá đưa Holger Crafoord vào vị trí lĩnh đạo trong nền kỹ nghệ. Không những thế, ông còn là một trong những vị chủ nhân của ÅR, nắm giữ 25 phần trăm cổ phần.

Sau Thế Chiến II, do ngành ẩm thực bộc phát mạnh theo hình thức tự phục vụ, thì mạng lưới sản xuất các bao bì để đóng gói cũng từ đó phát triển theo. Đối với hợp đoàn ÅR đây là thời điểm vô tiền khoáng hậu để mở rộng cơ sở dưới sự điều hành của Hội Đồng Ruben Rausing và Chủ Tịch Holger Crafoord, đồng thời cũng là lúc rất cần thiết để nghiên cứu và phát triển cơ cấu tổ chức một cách triệt để.

Trong những năm nầy, mọi sáng kiến trong việc thành lập Tetra Pak đều phát sinh từ các bộ phận thử nghiệm tại ÅR. Qua nhiều năm, dự án nầy từng đối đầu với trở ngại trong việc tiến thoái trước khi vượt qua được vào giữa những năm 50. Vấn đề tài chính để h trợ dự án nầy trở nên gánh nặng cực kỳ cho hợp đoàn ÅR. Do đó trách nhiệm hàng đầu của Holger Crafoord là cng cố mặt tài chính mặc dù hoang mang lo lắng đè nặng trong lòng các Cổ Phần Viên. Thời gian ấy, Holger Crafoord còn là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị của Tetra Pak với cổ phần sở hữu đáng kể.

Vào 1965, Rausing và Crafoord cùng hợp tác trong việc chỉnh đốn lại AR. Việc điều đình thương lượng do Holger Crafoord cầm đầu đã thành công khi bán công ty cho Sevenskha Tändsticksaktiebolaget, một hợp đoàn nổi tiếng được biết qua tên Swedish Match. Sau đó Crafoord còn dược bổ nhiệm là thành viên của hợp đoàn ấy, về sau ông trở thành Chủ Tịch Hội Đồng.

Đến tuổi về hưu khi Rausing 70 tuổi và Holger Crafoord 57, Rausing quyết định tập trung thực lực vào Tetra Pak. Khi ấy, Holger Crafoord nắm giữ một dự án cho riêng ông. Đó là công ty Gambro và công việc đòi hỏi toàn bộ năng lực của ông.

Vào một giờ ăn tối, ông bàn luận với Nils Alwall, Giáo Sư khoa Tiết Niệu về vấn đề khi thận không hoạt động đúng chức năng của nó nữa, và được cho biết căn bệnh sẽ được khống chế nếu phương pháp chuyển tách thành công, tất nhiên nếu y liệu dùng cho phương pháp nầy sẵn có. Phương pháp chuyển tách sẽ thay bộ phận lọc máu nhân tạo, thận nhân tạo. Nếu không, thận sẽ càng ngày càng hư hại và dẫn đến cái chết. Trong thời điểm ấy, căn bệnh ác tính nầy đòi hỏi một thời gian rất ngắn ngủi để chữa trị.

Holger Crafoord lập tức dồn mọi n lực trong dự án nầy, thậm chí h trợ mặt tài chính bằng tiền của riêng ông vào dự án thử nghiệm vô cùng mạo hiểm ấy, và 5 năm sau đó mẫu thử nghiệm thận nhân tạo sẵn sàng cung ứng cho bệnh nhân. Vào 1968, máy chuyển tách và bộ phận lọc máu còn ra mắt Châu Âu trên qui mô rộng lớn. Trong những năm 70, nhà máy chế tạo y liệu nầy được thành lập tại Đức, Hoa Kỳ, Ý và sau đó là Nhật theo nhau thành công chớp nhoáng. Không những thế, toàn bộ nhà máy chế tạo y liệu chuyển tách được bán cho các nhà sản xuất có môn bài tại Liên Bang Xô Viết.

Thị trường bắt đầu phát triển mạnh m song song với công cuộc chế tạo. Các công ty điều hành kinh doanh được thành lập tại Đức, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Anh Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Ý, Canada, B, và ngày càng mở rộng khắp nơi.

Chẳng phải chỉ có mặt sản xuất bộ phận lọc máu tạo được kết quả khả quan về tài chính mà tiến trình chữa trị cũng đòi hỏi các y cụ tinh vi khác để theo dõi bệnh tình. Tất nhiên các y cụ nầy được chế tạo tại Gambro, sau đó nơi nầy nhanh chóng phát triển thành một công ty tiền phong trong nền kỹ thuật tân kỳ. Cùng thời điểm ấy, các sản phẩm mới được chế tạo tại các trung tâm sản xuất y cụ khác. Holger Crafoord tất nhiên đều thích thú với tất cả. Riêng ông, cũng đối đầu với tình trạng sức khoẻ yếu kém của mình qua căn bệnh thấp khớp ác liệt.

Vào mùa Xuân 1977, Gambro thật sự bước vào trọng tâm của thương trường. Đó là lần đầu tiên bản tường trình về kế hoạch tài chính của công ty được công bố, nó nêu rõ con số nhuận thu khổng lồ. Vào năm 1976, bản báo cáo lợi tức thường niên được phổ biến trên tờ tạp chí Affärsvärlden đánh giá Gambro là hợp đoàn đứng nhất, thu được 30 phần trăm lợi nhuận từ số vốn.

Như đã đề cập trước, Holger Crafoord vô cùng phiền muộn về chứng bệnh thấp khớp đã đến hồi trầm trọng, và cơn nhiễm trùng máu cấp tính đã chấm dứt đời ông vào ngày 21 tháng 5, 1982. Thành phố Lund thật sự mất đi một trong những vị lĩnh đạo xuất sắc trong lịch sử.

Tuy nhiên, Gambro vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Vào 1983, công ty bắt đầu có tên trên Thị Trường Chứng Khoán. Không những thế, cổ phiếu của Gambro còn được mua vượt qua số ước tính trong lịch sử Thị Trường Chứng Khoán Stockholm. Cùng thời gian ấy, chủ nhân mới cho trung tâm thật sự là điều thiết yếu. Không bao lâu, hợp đoàn Sonesson Group tại Malmo bước vào tiếp nhận với tư cách thành viên chính. Tuy nhiên, gia đình Crafoord và ban tham vấn cũ vẫn giữ quyền điều hành số lợi tức thu hoạch.

Qua Volvo, cổ phần nguyên thủy của Sonesson bàn giao lại cho Investment AB Cardo, sau đó qua tay Incentive AB vào 1994. Đến năm 1995, Incentive mang đấu giá tất cả cổ phần của Gambro còn nợ cũng như của gia đình Crafoord và Hợp Đoàn phải sang nhượng cổ phần của mình. Từ ấy, gia đình Crafoord mất hẳn quyền lợi tức.

Ngày nay Gambro đã sát nhập vào Incentive AB, toàn bộ tổ chức thống nhất lại và là một trong những hợp đoàn lớn nhất thế giới trong phạm vi chuyển tách thận, cũng như các phương thức điều trị.  (1)

Kịch tác gia Shakespeare từng phát biểu, "Hồng ân là những người có giòng máu bao la và óc xét đoán hòa hợp tuyệt vời." Câu nói ấy rất đúng khi muốn ám chỉ Holger Crafoord. Tâm tư ông luôn có tiếng nói của nó, và tiếng nói ấy rất ư quản đại. Ông chẳng cần dùng nhiều ngôn từ bao dung bác ái, nhưng ông đã hành động như thế suốt bao nhiêu năm trời.

Biết bao nhiêu trường viện, đặc biệt ở Lund từng tri ân những con số cống hiến đáng kể. Ví dụ tiêu biểu là The Crafoord Foundation (xin tạm dịch, Quỹ Tài Trợ Crafoord) đã cống hiến đầu tiên khoảng 30 triệu SEK vào 1980 (SEK, Swedish Krona đơn vị tiền tệ của Thụy Điển. Xin tạm dịch 30 triệu bảng Thụy Điển). Con số ấy vọt lên đến 1.6 tỷ vào 2000. Đến nay Quỹ Tài Trợ đã cống hiến hơn 600 triệu bảng vào công cuộc nghiên cứu khoa học, cũng như giúp đỡ thanh thiếu niên, người tàn tật, thành phần bị áp bức ngược đãi. Ngoài rà còn cống hiến vào các mặt phát triển văn hóa và thể thao.

Để đáp ứng tâm tư nguyện vọng của người có lòng cống hiến, chủ trương của Quỹ Tài Trợ là giúp đỡ học bổng và các mặt nghiên cứu. Trong ấy, không ưu tiên cho chuyên ngành nào, mà chỉ vì nguyên do tự nhiên liên quan đến sinh mạng con người, ví dụ như Y Khoa. Ngành kỹ thuật và khoa học tự nhiên thường nhận được nhiều nguồn tài trợ đáng kể. Tuy nhiên, ý nguyện cao cả của Quỹ Tài Trợ cũng dành cho ngành khoa học xã hội. Đó là Trung Tâm Kinh Tế Holger Crafoord tại viện đại học Lund được xây dựng từ 1984 đến 1997 với số tài trợ lên đến 87 triệu bảng.

Qua những con số cống hiến suốt mấy năm qua cho thấy Quỹ Tài Trợ đã đóng góp cho các viện nghiên cứu ở Châu Âu khoảng 10 triệu bảng. Khoảng 10 triệu bảng dành trong việc trùng tu Bảo Tàng Viện Kulturen tại Lund. Khoảng 16 triệu bảng cho Viện Khoa Học Hoàng Gia Thụy Điển, trong đó có số cống hiến khổng lồ khác như giải thưởng Crafoord (the Crafoord Prize) hoặc tặng thưởng cho các công trình đánh dấu kỷ niệm của học viện. Còn có khoảng 24 triệu bảng tài trợ cho các giáo sư ngành Y - khoa Thận cũng như ngành Kế Toán tại viện đại học Lund.

The Association of Cultural History (xin tạm dịch, Hội Ái Hữu về Lịch Sử Văn Hóa) cũng nhận được vô vàn ân bổng từ lòng quản đại của Holger Crafoord. Bài điếu văn của Board of Directors of Kulturen (xin tạm dịch, Hội Đồng Trị Sự nhà Văn Hóa) trong đám tang của ông đã ghi như sau:
 

"Bản thân ông với những đức tính tưởng như khác biệt lại hòa hợp với nhau. Đó là khả năng nhận định có căn cứ, óc thực thế biết thẩm định và đầy nhiệt huyết vào những việc mà ông thấy có giá trị giáo dục. Ông là tấm gương sáng của động lực ý chí mạnh mẽ sinh từ một người chọn đứng mũi chịu sào giữa những cái gọi là văn hóa, kỹ thuật và nhân tính. Với khả năng biết phân tích và sáng tạo, ông đã mang hết kinh nghiệm quý báu của mình trên cõi đời nầy, mở rộng vòng tay cống hiến dâng tặng và không bao giờ mệt mỏi khi h trợ chúng ta."
 

Ngoài ra còn có những cống hiến khác thể hiện rõ tính quản đại của ông. Rõ rệt nhất là Anna-Greta và Holger Crafoord's Foundation (xin tạm dịch Quỹ Tài Trợ Anna-Greta và Holger Crafoord), đã cống hiến cho Viện Khoa Học Hoàng Gia Thụy Điển vào năm 1980 để tưởng thưởng các thành quả về Toán, Thiên Văn Học, Khoa Học Địa Lý (chuyên ngành Sinh Thái Học), cũng như Sinh Học. Quỹ Tài Trợ hằng năm tặng thưởng 500,000 bảng cho các nhà nghiên cứu ưu tú trên thế giới. Do các giải thưởng có những bộ môn tương đương với các bộ môn của giải Nobel, giải thưởng Crafoord chú trọng triệt để hơn vào những thành qu Khoa Học xuất chúng trên toàn thế giới. Giải thưởng được công bố vào tháng 9 hằng năm và chính Đức vua của Thụy Điển là người tự tay trao tặng.

Tuy nhiên, sự hào phóng quảng đại của con người ta không chỉ giới hạn ở tiền tài vật chất. Trong bài Điếu Văn dành cho Holger Crafoord, một nhân viên của Gambro đã bảo, "Ông ta là một người tuyệt hảo và còn hào phóng với cộng sự viên. Ví dụ chúng tôi có thể mang hóa đơn tính tiền chơi ném bóng đến cho ông thanh toán. " Suốt thời gian làm việc, ai cũng có thể tìm đến Holger Crafoord dễ dàng. Nói chung, dù ở vị trí cao ông luôn thể hiện là một con người bình thường, dung dị.

Holger Crafoord được mọi người cảm kích. Bản tường trình chức năng và nghiệp vụ của ông (CV, curriculum vitae) cho thấy khả năng linh hoạt trong nhiều lĩnh vực của ông. Vô số cơ quan đoàn thể từ năm nầy qua tháng nọ từng hưởng biết bao nhiêu đặc ân từ sự thông hiểu thấu đáo và kinh nghiệm phi thường do ông mang đến. Ví dụ như the Saving Bank, Hiệp Đoàn nghiệp chủ, Bộ Giao Thương, Hội Đồng Quản Trị, v.v... Để tưởng niệm và tri ân Holger Crafoord, hai con đường được mang tên ông và bảng công trạng ghi tên ông. Thêm vào đó là giải thưởng Illis Quorum dành cho các học sinh lớp 12, thành lập sau khi ông qua đời.

Holger Crafoord là một trong những nhà xây dựng hàng đầu ở Thụy Điển và còn có công lớn trong việc phụng sự xã hội

(http://www.crafoord.se/hc-e.htm)

(1) Hiện  nay nhóm Gambro điều hành tổng  quát trên  693 bệnh viện tư chuyên thẩm tách (dialyze) và  chăm sóc cho khoảng  53500 bệnh nhân toàn  cầu

Năm 2003  nhóm Gambro đã thực hiện được  một tổng doanh thu toàn  năm  là  3231 tỉ dollars, có khoảng 21200 nhân viên  trong 40 nước .

 

© http://vietsciences.free.fr Nguyệt Trinh