Những bài cùng tác giả

Thế là giải Nobel y sinh học năm nay về tay một người Anh, ông
Robert G. Edwards, người được mệnh danh là cha đẻ của kĩ thuật thụ
tinh nhân tạo (IVF). Thấy người sang bắt quàng làm họ, tôi
từng có vinh hạnh ghé thăm lab của ông một lần vào những năm đầu
thập niên 1990s. Lúc đó tôi là visiting scholar ở Bệnh viện St Thomas
(London), và anh bạn tôi TS nói: hôm nay tụi mình sẽ ghé thăm
một người rất đặc biệt nhé. TS và tôi đến lab của ông ở ĐH
Cambridge vào buổi trưa. Ông ở trong một office nhỏ, sách vở giấy
tờ bề bộn, bên cạnh lab cũng không lớn và chỉ vài người đang làm.
Ông tiếp chúng tôi và trao đổi chuyện trên trời dưới đất, chẳng
dính dáng gì đến khoa học cả! Ông cũng chẳng nhắc gì đền thành
tích vĩ đại của mình. Tôi rất có cảm tình với ông, vì thấy đó
là một người từ tốn, nhẹ nhàng, nhưng dứt khoát. Tôi còn nhớ ông
có một giọng nói Ăng Lê trưởng giả (hay người ta gọi là King's
English). Ông ta chọc tôi là "thằng Roo" (tức kangaroo), vì biết tôi
đến từ Úc. Bẵng đi gần 20 năm qua biệt tin, nay nghe tin ông được
giải Nobel ở độ tuổi 85! Dù biết rằng lời chúc mừng của tôi sẽ
thừa, nhưng hôm qua tôi đã gửi ngay một email cho TS để nhắn lời thăm
hỏi và chúc mừng.
Hôm nay, Hàn lâm viện Thụy Điển công bố người được trao giải thưởng
Nobel y sinh học (thật ra, chính xác là sinh lí học hoặc y học), và nhà khoa
học được vinh dự này là Giáo sư Robert
Geoffrey Edwards, người Anh.
Ông là người được công chúng trìu mến gọi là “cha đẻ của kĩ thuật thụ
thai nhân tạo” (IVF), là người đem lại niềm vui và hạnh phúc cho
hàng triệu người trên thế giới. Ông cũng là người sáng lập nên một
bộ môn y học mới, dẫn đến những nghiên cứu tế bào gốc sau này. Giải Nobel
y sinh học năm nay được trao cho một người mà công trình khoa học và ảnh
hưởng của nó đúng với ước nguyện của ông Alfred Nobel, đó là công trình
khoa học mang tính ứng dụng đem lại phúc lợi cho nhiều người. Cuộc
đời và sự nghiệp của ông cũng là một bài học cho các nhà khoa học trẻ đang
muốn vươn lên.
Để thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của công trình nghiên cứu của Gs Robert
Edwards, chúng ta cần phải điểm qua thực trạng vô sinh trên thế giới. Thiên
chức làm mẹ, làm cha là một trong những mục tiêu phổ quát của con người.
Đại đa số những cặp vợ chồng muốn có con, vì ngoài ý nghĩa duy trì nòi
giống, sự có mặt của con còn là một trong những niềm vui và hạnh phúc gia
đình, là “chất keo” nối kết vợ chồng. Nhưng trong thực tế, không phải ai
cũng may mắn có khả năng có con. Thật vậy, một số nghiên cứu cho thấy
khoảng 4 đến 17% (1) cặp vợ chồng trong tình trạng vô sinh, tức
không có khả năng có con, vì rối loạn nội tiết và các nguyên nhân
khác. Dựa vào tỉ lệ này, các nhà nghiên cứu ước tính rằng trên thế
giới, có khoảng 72 triệu phụ nữ trong độ tuổi sinh sản không có khả năng
mang thai. Đối với những “bệnh nhân” này, họ phải sống trong đau khổ và mặc
cảm [có khi] trầm trọng. Do đó, một liệu pháp điều trị vô sinh phải được
xem là một đóng góp vĩ đại cho nhân loại. Sự nghiệp và công trình khoa học
của Gs Robert Edwards có ý nghĩa và tầm vóc như thế. Có thể nói không ngoa
rằng ông đã gieo niềm vui và đem lại hạnh phúc cho hàng triệu người.
#wideAd { width: 600px; text-align: center; background-color:
rgb(255, 255, 255); padding-bottom: 10px; height: 600px; border: 1px
solid rgb(51, 51, 51); }#wideAd p { font-size: 20px; line-height:
120%; padding: 10px 20px; font-weight: 100; text-align: left;
}#wideAd table { width: 600px; text-align: left; }#wideAd table td {
padding-bottom: 8px; }#wideAd table td.button { width: 15px;
text-align: right; }#wideAd table td.text { width: 400px;
vertical-align: top; font-size: 17px; }#wideAd span { font-size:
15px; width: 250px; margin-top: 15px; }
Carbon Capture and Storage (CCS) is one method being
developed to capture and store the CO2 that comes
from burning fossil fuels--essential to help mitigate serious
climate change. The International Energy Agency says it could
account for nearly 19% of the total CO2 reductions
needed by 2050.
Do you think CCS should be developed? (Check all that apply)
Robert Edwards, hình từ "Democritus
University of Thrace"
Hàn lâm viện Thụy Điển vừa công bố trao giải thưởng Nobel y sinh học năm
2010 (trị giá 1.5 triệu USD) cho Giáo sư Robert Edwards, thuộc trường Đại
học Cambridge. Công trình mà ông được trao giải là những nghiên cứu
và phát triển thụ tinh nhân tạo (thụ tinh trong ống nghiệm, hay còn
gọi là IVF). Trước đó gần 10 năm, năm 2001, ông được trao giải thưởng
Lasker của Mĩ. Giải Lasker được xem là giải thưởng “tiền Nobel” bởi vì phần
lớn những người được giải sau này cũng được trao giải Nobel. Thế nhưng Gs
Edwards phải chờ đến gần 10 năm để được giải Nobel, và điều này đã làm cho
nhiều người trong cuộc cao mày ngạc nhiên, vì đáng lẽ giải Nobel phải đến
tay ông sớm hơn.
Đại học Cambridge là một đại học lừng danh thế giới, ngang hàng
với Đại học Harvard của Mĩ. Giải thưởng về tay một nhà khoa học
người Anh từ một đại học Anh một lần nữa củng cố vị trí của
nước Anh như là một cường quốc khoa học thứ 2 (chỉ sau Mĩ) trên
thế giới. Trong số 205 nhà khoa học được trao giải Nobel y sinh học (tính
từ năm 1901 đến 2010), có đến 22 (11%) nhà khoa học người Anh. Đó là một tỉ
trọng cao so với dân số của Anh.
Giáo sư Edwards năm nay đã 85 tuổi, và sức khỏe đang trong tình trạng
không tốt. Ông không thể trả lời phỏng vấn của báo chí, nhưng qua phu nhân,
ông tỏ ý hài lòng về công trình của ông sau cùng cũng được ghi nhận. Tuy đã
cao tuổi và đã nghỉ hưu, nhưng ông vẫn còn rất tích cực trong khoa học. Tìm
trong y văn cho thấy ông vẫn còn viết bài nghiên cứu và bình luận trên các
tập san y học mãi đến … năm ngoái! Từ năm 1986, ông là tổng biên tập tập
san Human Reproduction và đã đưa tập san này từ chỗ “vô danh” thành
một tập san hàng đầu trong bộ môn như hiện nay.
Con đường đến thành công gian nan
Sự nghiệp khoa học của Gs Edwards là một bài học khá độc đáo. Ông xuất
thân từ một gia đình lao động bậc trung, chứ không phải trưởng giả. Ông
khởi đầu sự học với ngành nông, chứ không phải y học. Sau khi xong nghĩa
vụ quân sự (4 năm), ông theo học tại Đại học Wales (Bangor) và tốt
nghiệp với bằng cử nhân nông học. Nhưng sau một thời gian làm việc,
ông cảm thấy không hứng thú và cũng không hợp với nghề nông học.
Ông bắt đầu tìm một hướng đi khác, và di truyền học là hướng ông
nhắm đến.
Sau một thời gian định hướng, ông quyết định theo học di truyền
học tại Đại học Edinburgh. Ông theo học dưới sự hướng dẫn của
Giáo sư Conrad H. Waddington và Alan Beatty, hai nhà di truyền học nổi
tiếng vào thời đó. Năm 1955, ông hoàn tất luận án tiến sĩ về sự
phát triển của phôi thai trong chuột. Trong thời gian theo học tại
Đại học Edinburgh, ông gặp người vợ tương lai tên là Ruth Fowler, là
cháu của nhà khoa học lừng danh Ernest Rutherford (người Tân Tây Lan). Đến
năm 1956, sau khi Ruth hoàn tất luận án tiến sĩ, hai người làm lễ
thành hôn, và sau này bà là một trong những đồng nghiệp đắc lực của ông.
Sau khi xong tiến sĩ, hai vợ chồng được một học bổng của Mĩ sang làm
nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) ở CalTech (Viện Công nghệ California,
hay California Institute of Technology). Sau 1 năm làm nghiên cứu sinh hậu
tiến sĩ, hai vợ chồng quay về Anh. Về đến Anh, ông được Hội đồng Y khoa Anh
(Medical Research Council) cấp cho một fellowship 5 năm [2]. Trong thời
gian này ông làm nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Alan Parkes, một
nhà khoa học rất nổi tiếng về di truyền học. Năm 1962, Alan Parkes được bổ
nhiệm giáo sư thực thụ tại Đại học Cambridge. Giáo sư Parkes mời Robert
Edwards về cộng tác với ông tại Cambridge. Năm 1963, ông chuyển về làm việc
tại Đại học Cambridge cho đến ngày nghỉ hưu gần đây. Chức danh sau cùng của
ông là giáo sư thực thụ.
Thật ra, Robert Edwards bắt đầu nghiên cứu vô sinh trước khi ông về
Đại học Cambridge. Sau khi đã có kinh nghiệm trên chuột ở Đại học
Edinburgh, ông bắt đầu nghiên cứu về sinh học tái sản sinh
(reproductive biology) ở người. Câu hỏi ông đặt ra là làm cách nào
để trứng và tinh trùng có thể “hội tụ” ngoài cơ thể con người.
Đó là một câu hỏi táo bạo trong thời gian mà khoa học về tái sản
sinh vẫn chưa phát triển. Ông và cộng sự phải tiêu ra 20 năm trời
để hoàn thiện kĩ thuật thụ thai nhân tạo. Sau thành công về kĩ
thuật, ông còn phải đương đầu với những dèm pha, phê phán, chỉ
trích, thậm chí bị cô lập từ các giới chức tôn giáo, chính trị,
thậm chí từ chính đồng nghiệp. Hành trình từ khám phá đến ứng
dụng kĩ thuật IVF của ông là một tấm gương sáng cho giới khoa học
Bước ngoặc nghiên cứu của ông xảy ra vào năm 1963. Năm đó ông đi dự hội
nghị của Hiệp hội Y khoa Hoàng gia Anh, và ông có dịp nghe Bác sĩ Patrick
Steptoe giảng về ứng dụng kĩ thuật soi ổ bụng (laparoscopy). Ông còn nhớ
rằng bài giảng hết sức ấn tượng, và ngay sau đó ông đến đặt vấn đề hợp tác
với Bs Steptoe, lúc đó đang là bác sĩ chuyên khoa phụ sản ở Bệnh viện
Oldham. Sau này, hai người trở thành một đội nghiên cứu rất nhịp nhàng và
hiệu quả. Vì từ Bệnh viện Oldham đến Đại học Cambridge tốn đến 4 giờ lái
xe, nên ông Robert Edwards quyết định lập một phòng thí nghiệm nhỏ bên cạnh
bệnh viện để nghiên cứu. Bs Steptoe chính là người song hành với
Robert Edwards qua các công trình dẫn đến giải Nobel. Đáng lẽ Bs
Steptoe được chia sẻ giải Nobel với Gs Edwards, nhưng rất tiếc là Bs
Steptoe đã qua đời từ năm 1988, và Hàn lâm viện Thụy Điển không có
qui chế trao giảo cho người quá cố.

Hình chụp Patrick Steptoe đang chơi nhạc (ông ta còn là một nhạc
sĩ) và Robert Edwards đang đi xe đạp. Hình này chụp vào thập niên
1960s.
Sau nhiều năm miệt mài nghiên cứu và thất bại, đến năm 1968, Gs Edwards
đã nắm được kĩ thuật thụ tinh và “thúc ép” chúng thành những
phôi để có thể cấy vào người. Năm 1969, sau một loạt khám phá
quan trọng về vai trò của hormone trong quá trình thụ thai, Gs
Edwards đã thụ thai một trứng trong ống nghiệm, và thành công này
được xem là đột phá trong kĩ nghệ thụ thai nhân tạo. Khám phá này
công bố trên tập san Nature [3], một tập san khoa học đứng vào hàng
số 1 trên thế giới. Bài bào này chính là bài dẫn đến giải Nobel, và
cũng là bài mở đầu cho việc phát triển kĩ thuật IVF sau này. Tính đến
nay, bài báo này đã được trích dẫn 267 lần.

Lịch sử: Bình chứa phôi để vận chuyển
từ bệnh viện Oldham về ĐH Cambridge. Sau này vì bất tiện nên Edwards
và Steptoe quyết định lập một cái lab nhỏ ngay bên cạnh bệnh viện
Oldham
Nhưng thành công đó cũng bị nhiều người chỉ trích và nghi ngờ. Một số
chuyên gia, có lẽ do ganh tị với thành tựu của Edwards, cho rằng thụ tinh
trong ống nghiệm là giả tạo. Giới tôn giáo thì xem thành tựu đó là một đe
dọa đến đạo đức, và thể hiện một sự can thiệp với vai trò thượng đế! Ngay
cả người cùng ngành cũng nghi kị. Một người học trò của Giáo sư
Robert Edwards là Martin Johnson (nay là giáo sư y khoa tại Đại học
Cambridge) hồi tưởng rằng vào thời đó, ít ai quan tâm đến vấn đề vô
sinh và ảnh hưởng của vô sinh. Do đó, khi thấy ông (Johnson) theo
hướng nghiên cứu về vô sinh dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Edwards,
đồng nghiệp đều thấy tội nghiệp cho ông và họ nói rằng “Thầy ông
đi sai hướng rồi”. Ngay cả Giáo sư Max Perutz và Giáo sư James Watson
(cả hai đều được trao giải Nobel) nói với ông rằng việc can thiệp
vào phôi thai như thế là thiếu trách nhiệm. Giáo sư Johnson kể rằng
nhiều người không muốn nói chuyện với nhóm nghiên cứu của Edwards,
vì họ không thích những gì nhóm nghiên cứu theo đuổi. Nhưng mặc cho
ai nói gì thì nói, Giáo sư Edwards và nhóm nghiên cứu của ông vẫn
kiên trì theo đuổi ý tưởng thụ sinh nhân tạo IVF. Dưới áp lực chính
trị, tôn giáo và thậm chí khoa học, Hội đồng Nghiên cứu Y khoa cắt tài
trợ. Nhưng may mắn thay, nhờ vào tài trợ của một mạnh thường quân
người Anh mà công trình nghiên cứu được tiếp tục.


Louise Brown
Mãi đến năm 1978 thì nghiên cứu của Gs Edwards và Steptoe mới “đơm
bông kết trái”. Ngày 25/7/1978, bằng kĩ thuật IVF của Edwards và
Steptoe hai vợ chồng Leslie và John Brown hạ sinh đứa con đầu lòng
tên là Louise Brown. Louise Brown đi vào lịch sử y học hiện đại như
là “test tube baby” (hàm ý nói được sinh ra từ thụ thai trong
ống nghiệm). Ngày 25/7/1978 cũng là ngày đánh dấu một bước ngoặc
quan trọng trong lịch sử y học hiện đại, vì một bộ môn y học mới
ra đời. Nhưng “tai nạn” vẫn chưa hết! Ngay sau khi Louise Brown chào đời,
Hội đồng Nghiên cứu Y khoa lại cắt tài trợ đến 2 năm rưỡi, vì họ sợ áp lực
của công chúng!
Tuy nhiên, trong vòng 5 năm sau ngày Louise Brown chào đời, thế
giới có thêm 150 em khác cũng được chào đời bằng kĩ thuật IVF.
Sau đó, với sự cải tiến về kĩ thuật, số bệnh nhân vô sinh được điều trị và
số trẻ em ra đời từ sự hỗ trợ của kĩ thuật IVF gia tăng nhanh chóng. Chẳng
hạn như ở Mĩ, năm 1998 có trên 61,000 trẻ em sinh ra bằng IVF, tăng gấp 30
lần só với 10 năm trước. Một sự tăng trưởng như thế cũng được ghi nhận ở Âu
châu. Tính đến nay, đã có hơn 4 triệu trẻ em trên thế giới được
sinh ra bằng công nghệ IVF.
Tuy kĩ thuật IVF càng ngày càng cải tiến tốt hơn, nhưng tỉ lệ
thành công cũng chỉ dao động trong khoảng 20-35%. Ngoài ra, chi phí
điều trị vô sinh cũng còn khá đắt, nhất là đối với những nước đang phát
triển. Nhiều nghiên cứu đã ước tính rằng chi phí để thụ thai thành
công và cho ra đời một em bé bằng kĩ thuật IVF dao động trong
khoảng 17,000 USD đến 56,000 USD (cho phụ nữ dưới 30 tuổi). Vì tỉ
lệ thụ thai giảm theo độ tuổi, cho nên chi phí IVF ở phụ nữ trên 40
tuổi cao gấp 3 lần so với phụ nữ dưới 40 tuổi.
Cho đến nay, ai cũng phải công nhận công nghệ IVF đã đem lại niềm vui
gia đình và hạnh phúc cho hàng triệu người trên thế giới. Trong
lịch sử y học, khó có một phương pháp nào đem lại niềm vui và
hạnh phúc cho nhiều người như IVF. Giáo sư Robert Edwards thật xứng
đáng với danh hiệu “Cha đẻ của trẻ em ống nghiệm” (Father of the
Test Tube Baby).
Lí tưởng Nobel
Giải Nobel được thiết lập theo di chúc của ông Alfred Nobel. Trong di
chúc, ông viết rằng giải thưởng nên trao cho “những ai đã đem lại lợi
ích lớn nhất cho con người.” Thế nhưng trong những năm qua khi sinh
học phân tử còn là “thời thượng”, có nhiều nhà nghiên cứu sinh học phân tử
được trao giải Nobel. Điều này dẫn đến nghi ngờ của giới y khoa là giải
thưởng này không còn tuân theo hay phù hợp với ước nguyện của ông Nobel nữa,
bởi vì nhiều công trình được giải chẳng có giúp ích gì cho bệnh nhân (chứ
chưa nói đến “lợi ích lớn nhất”).
Nhưng năm nay, giải thưởng được trao cho một người mà công trình
nghiên cứu quả thật đem lại phúc lợi lớn nhất cho rất nhiều
người. Đối với những cặp vợ chồng vô sinh, còn hạnh phúc nào
lớn hơn là hạnh phúc có con và được làm cha, làm mẹ. Kĩ thuật
(và bây giờ là công nghệ) IVF là một trong những cuộc cách mạng
quan trọng nhất trong y học hiện đại. Do đó, giải thưởng năm nay
đã đúng với tinh thần của di chúc Nobel. Như một bài báo trên tập
san Nature viết rằng rất ít nhà khoa học nào có thể nói
rằng trên thế giới có 4 triệu người ra đời và sống sót nhờ vào
nghiên cứu của mình, nhưng Giáo sư Edwards là một người có cơ sở
để nói như thế (nếu ông muốn).
Vài bài học
Giải thưởng Nobel y sinh học 2010 cũng có vài ý nghĩa và bài học
liên quan đến sự thành công, phân biệt nghiên cứu và khoa học Việt Nam.
Trong khoa học, có hai con đường chính dẫn đến thành công. Thứ nhất là chọn
một đề tài lớn và phức tạp để giải quyết. Thứ hai là từng bước xây dựng
những giả thuyết, và dần dần hình thành một đề tài lớn. Cố nhiên, còn có
một con đường thứ ba là do … may mắn, nhưng tôi không bàn ở đây. Có thể
nói sự thành công của Gs Robert Edwards là nhờ vào lựa chọn hướng đi thứ
hai. Ông đã kiên trì theo đuổi đề tài, từng bước giải quyết các vấn đề kĩ
thuật, kiên nhẫn chịu đựng những chỉ trích phi lí của giới “đạo cao chức
trọng”, những ganh tị nhỏ nhen của đồng nghiệp để tập
trung vào “bức tranh lớn”. Trong bài nói chuyện nhân dịp nhận giải Lasker
năm 2001, ông thuật lại những chỉ trích mà ông và đồng nghiệp phải hứng chịu
khi dự án nghiên cứu đang tiến triển tốt, nhưng ông vẫn bình thản như ...
thiền. Ai chỉ trích cứ chỉ trích, ông vẫn theo đuổi mục tiêu cho đến cùng.
Vấn đề phân biệt giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Những
công trình của Gs Edwards là những minh chứng cho vấn đề phân biệt nghiên
cứu cơ bản và ứng dụng, bởi vì lằn ranh giữa hai thể loại nghiên cứu này rất
mong manh và không rõ ràng như nhiều người tưởng. Có lẽ những nghiên cứu
này được xếp vào nhóm “translation research”, tức những nghiên cứu có ứng
dụng tuy có yếu tố cơ bản những có thể trực tiếp chuyển giao cho ứng dụng
lâm sàng.
Liên quan đến nghiên cứu tế bào gốc, những công trình nghiên cứu tiên
phong của Gs Edwards cũng làm nền tảng cho sự ra đời của lĩnh vực
nghiên cứu tế bào gốc. Do đó, có nhiều người vui mừng cho rằng
việc Hàn lâm viện Thụy Điển trao giải cho Gs Edwards là một cách
gián tiếp công nhận giá trị của nghiên cứu tế bào gốc. Tuy nhiên,
người phát ngôn của Hàn lâm viện Thụy Điển nói rõ rằng việc trao
giải cho công trình nghiên cứu về IVF không đồng nghĩa với việc ủng
hộ nghiên cứu về tế bào gốc.
Trong vài năm gần đây, có người đặt câu hỏi bao giờ Việt Nam có giải
Nobel. Tôi nghĩ nền khoa học của Việt Nam xuất phát từ một điểm quá thấp,
gần với con số không, nên câu hỏi không cần đặt ra hiện nay. Thật ra, ngay
cả sự hiện diện của người Á châu trong các giải thưởng Nobel còn rất ư là
khiêm tốn. Trong ba quốc gia có người đã từng đoạt các giải này, Nhật có số
lượng hùng hậu nhất, kế đến là Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan. Tuy nhiên, hầu
hết những nhà khoa học này thường làm việc ở Mĩ hay Âu châu. Vấn đề là xây
dựng từ nền móng, từ cái căn bản nhất trong hoạt động khoa học. Đó là hệ
thống tổ chức gọn nhẹ, tài trợ cho nghiên cứu sao cho công bằng, nuôi dưỡng
nhân tài, và nhất là tạo ra được một văn hóa khoa học và tự do học thuật.
Nói tóm lại, giải thưởng Nobel y sinh học năm nay thể hiện một sự ghi
nhận đóng góp mang tính cách mạng của Gs Robert Edwards. Sự nghiệp khoa học
và hành trình ông đến với kĩ thuật IVF đem lại hành phúc cho hàng triệu
người trên thế giới là những bài học quí báu cho những ai đang theo đuổi lí
tưởng đem lại phúc lợi lớn nhất cho con người.
Tài liệu tham khảo:
[1] Boivin J, et al. International estimates of infertility prevalence
and treatment seeking: potential need and demand for infertility medical
care. Hum Reprod 2007; Jun;22(6):1506-12.
[2] Austin CR. Bob Edwards – a profile. Hum Prod 1991; 6:1-4.
[3] Edwards RG, Bavister BD, Steptoe PC. Early stages of fertilization
in vitro of human oocytes matured in vitro. Nature 1969; Feb
15;221(5181):632-5.
|