Gần đây phó chủ tịch Trung Quốc, ngài
Tập Cận Bình, sang thăm Việt Nam. Chúng tôi hy vọng ông đã được quan chức
nước ta giới thiệu GS Hoàng Tụy, giải Constantin Caratheodory, và GS Ngô Bảo
Châu, huy chương Fields. Chúng tôi hy vọng sau chuyến công du ông nhận thấy
nước ông mặc dù dân đông tới một phần năm nhân loại nhưng không có tới một
giải Nobel khoa học nào[i].
Và chúng tôi cũng hy vọng, khi lên làm tổng bí thư, ông sẽ ra lệnh hải quân
nước ông thận trọng ngưng gây hấn ở Biển Đông.
Ngoài việc có thể đã ngăn cản một chiến
tranh nữa với Trung Quốc, hai vị giáo sư Hoàng Tụy và Ngô Bảo Châu còn có
đóng góp lớn vào việc phát triển toán học Việt Nam. Nếu Viện Nghiên cứu Cao
cấp về Toán (VIASM) được thành lập là nhờ GS Ngô Bảo Châu được huy chương
Fields. Cụ thể và bền vững hơn nữa là ngoài xã hội sẽ có nhiều trẻ em noi
gương đàn chú bác mà quan tâm đến toán học. Công nghệ thông tin nước ta phát
triển rất mau và chúng ta có thể là một cường quốc về ngành này trong vài
năm sắp tới. Nguyên do chỉ vì khi xưa có một người Việt tên là André Trương
Trọng Thi sáng chế ra máy vi tính và vị này đã trở nên một thần tượng ở nước
ta. Nếu chúng ta có một Michel Plantini hay một Zinédine
Zidane thì chắc
chắn thường xuyên sẽ có những trận đá bóng khắp đầu đường ngõ chợ và nghề
cảnh sát giao thông sẽ là nghề vất vả nhất ở Việt Nam. Với hai vị trong
ngành toán học được vinh danh năm 2010, thế hệ đang lên sẽ tự phát sinh một
số lớn nhân tài cho ngành toán học.
Tuy nhiên, vinh danh quốc tế của hai vị
giáo sư này làm tôi cảm thấy cay đắng và thất vọng như một người si tình
không được đáp ân.
Công trình nghiên cứu của GS Hoàng Tụy
về tối ưu toàn cục là những đóng góp rất lớn cho bộ môn toán học và, nói
chung, cho tất cả các môn khoa học ‒kỹ thuật khác. Toán học là một số kiến
thức về lý luận logic dựa trên những số, hình, kết cấu và phép biến đổi
những đối tượng đó. Mặc dù kết quả nghiên cứu toán học chỉ là những chân lý
trừu tượng, nhưng chúng được áp dụng trong tất cả các khía cạnh của đời
sống. Những phương pháp của lý thuyết xác suất (probability), tối ưu
(optimization) và hệ thống chuyển động (dynamic systems) áp dụng trong các
ngành khoa học, kỹ thuật, kinh tế và chính trị được gom lại trong một bộ môn
gọi là vận trù học. Ở Hoa‒Kỳ có khi người ta gọi là quản lý học (management
science) hay quyết định học (decision science).
Qua kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi đồng
tình với GS Hoàng Tụy và xin chia sẻ cay đắng của giáo sư. "Việt Nam
chính là nơi có những đóng góp cơ bản, sơ khai nhất cho toán học tối ưu toàn
cục và trải qua 40 năm, nó đã được áp dụng khá rộng rãi ở nhiều nước trên
thế giới. Trong khi đó ở Việt Nam, mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng vận
động nhưng vẫn không được ủng hộ. Tôi đã không làm được gì và cảm thấy hơi
cay đắng. [...] Mình lập ra một ngành học, nước ngoài phát triển được, dùng
được, ứng dụng được, nhưng ở trong nước không được ủng hộ, thậm chí không
được đánh giá tốt nên tôi thấy rất buồn"[ii].
Cuối thập niên 1960, chúng tôi học ở
Mines de Paris (Trường Cao đẳng Kỹ sư Mỏ ở Paris). Hồi đó miền Nam nước ta
bị quân đội Mỹ chiếm đóng. Để tham gia giải phóng hoàn toàn đất nước cùng
với MTDTGPMN, chính phủ VNDCCH gửi quân đội và vũ khí vào Nam qua những
tuyến đường gọi chung là Đường Mòn Hồ Chí Minh. Người chỉ huy quân đội Mỹ
kiềm chế mạng giao thông này là Robert McNamara, bộ trưởng quốc phòng Hoa
Kỳ. Thời Đệ nhị Thế chiến, ông này đã dùng những công cụ vận trù để tổ chức
những đoàn tầu hàng tiếp tế Anh Quốc qua Bắc Đại Tây Dương sao cho đỡ bị tầu
ngầm Đức bắn chìm. Chúng tôi cũng nghe thấy ở miền Bắc có một vị nghiên
cứu vận trù học mà sau này tôi mới biết tên là Hoàng Tụy. Chúng tôi suy ra
vị này chắc được chính phủ nhờ quy hoạch những tuyến vận tải tiếp viện miền
Nam. Chúng tôi mơ ước sau khi tốt nghiệp sẽ được vinh dự làm cộng sự viên
cho vị này và ngày đêm tôi mải miết học môn vận trù học. Như chúng tôi đã có
dịp kể, vì các thày bắt học nhiều và khó quá, chúng tôi theo không nổi và
suýt nữa thì ra trường mà không có bằng[iii].
May mắn thay, chúng tôi được vớt nhờ điểm cao về môn vận trù học. Sau khi
tốt nghiệp và trong suốt đời nghề chúng tôi hàng ngày đã phải dùng những
công cụ vận trù để tìm một tối ưu cho những vấn đề chúng tôi phải giải
quyết. Kiến thức về mỗi ngành khoa học của một kỹ sư chỉ đủ để đưa vào áp
dụng kết quả nghiên cứu của người khác. Rất có thể chúng tôi đã vô tình áp
dụng những kết quả nghiên cứu của GS Hoàng Tụy mà không biết. Điều mà chúng
tôi biết chắc là trong 12 năm làm tư vấn về chiến lược và quản lý công
nghiệp chúng tôi đã dùng vận trù học để mang lợi cho mỗi khách hàng cả triệu
euros. Hỡi ôi, những gì đã học, những kinh nghiệm đã tích lũy không bao giờ
chúng tôi được dịp dùng để giúp nước mẹ đẻ.
Nếu giải Constantin Caratheodory của
GS Hoàng Tụy làm chúng tôi cay đắng thì huy chương Fields của GS Ngô Bảo
Châu làm chúng tôi có nhiều lý do thất vọng.
"Nếu có gì có thể nói là kinh nghiệm
cho người trẻ thì theo tôi, phải có một đam mê thực sự, có mơ ước và luôn
luôn cố gắng thực hiện mơ ước ấy, dù hoàn cảnh khó khăn, có rủi ro. Thứ hai
là phải có niềm tin. Đó là phẩm chất rất quan trọng của người làm khoa học,
phải tin việc mình làm không vô ích"[iv].
Đó là những đặc tính phân biệt một nghiên cứu sư thường và một nghiên cứu sư
đặc biệt, được quốc tế vinh danh. GS Ngô Bảo Châu đã có những đặc tính đó từ
thuở bé. Nhưng những đặc tính đó cần có một môi trường học hỏi và nghiên cứu
thuận tiện thì mới sinh ra được những nghiên cứu sư đặc biệt. Môi trường để
phát huy tài năng của mình thì du học sinh Ngô Bảo Châu đã tìm thấy ở Ecole
Normale Superieure (Trường Cao đẳng Sư phạm) của Pháp chứ không phải ở một
trung tâm nghiên cứu nào của Việt Nam. Trước khi du học sinh này nổi tiếng
thì ở nước ta không có cơ sở nghiên cứu khoa học ‒ kỹ thuật (NCKHKT) nào tạo
ra môi trường thuận tiện đó cả. Việc chính phủ thành lập VIASM là một tin
đáng mừng. Nhưng giới NCKHKT phải chờ đến bao giờ thì chính phủ mới thành
lập những Viện Nghiên cứu Cao cấp về Hóa học, Vật lý và Y khoa ? Liệu chúng
tôi phải cầu cho một người bất đồng chính kiến nhận giải Nobel Hòa bình để
nước ta có được một Viện Nghiên cứu về Dân chủ học à ? Hay là chính phủ coi
những môn này không cần thiết cho đất nước ?
Cắt hơn 650 tỷ đồng cho VIASM mà chỉ
đòi hỏi chung chung, tăng tỷ lệ giảng viên toán có bằng tiến sĩ ở các trường
đại học lớn lên 70 %, tăng số lượng công trình công bố quốc tế so với năm
2010 và đưa vị thế của toán học Việt Nam trên trường quốc tế lên hàng thứ 40
là một quyết định kỳ dị[v].
Người thì nói rằng số tiền đó quá lớn, kẻ thì nói là không đủ[vi].
Đầu tư mà không có định hướng thì một xu cũng đã là phí phạm rồi.
Số lượng tiến sĩ và công trình công bố
quốc tế đâu phải là chỉ báo của sức mạnh khoa học ‒ kỹ thuật của một quốc
gia hay của một trung tâm NCKHKT. Quan trọng là những tiến-sĩ đó và những
công-trình đó có gắn bó chặt chẽ với ý-đồ phát-triển khoa học ‒ kỹ thuật của
quốc-gia đó hay không. Cơ quan nào dựa vào đâu để xếp chúng ta vào hạng
50/55 về toán học ? Chính phủ đang chạy theo một thứ hạng hão huyền thay vì
ra lệnh cho VIASM nghiên cứu những đề tài hữu ích cho đất nước. Một trường
đại học hay một cơ sở NCKHKT có tiếng tăm, được coi là giỏi, là một nơi mà
những thày giỏi nhận đến nghiên cứu giảng dậy và học sinh giỏi tranh nhau
ghi tên học.
Có người biện luận rằng không thể áp
đặt những đề tài nghiên cứu vì phải để cho các nghiên cứu sư tự do nghiên
cứu thì họ mới phát huy được tài năng của họ. Trong ngành NCKHKT người ta
phân biệt nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu áp dụng. Đại khái thì nghiên cứu
cơ bản trong một ngành khoa học có mục đích làm cho ngành đó tiến bộ còn
nghiên cứu áp dụng có mục đích làm cho các ngành khoa học ‒ kỹ thuật khác
tiến bộ. Chúng tôi thú thật không nắm rõ nội dung và giá trị những công
trình nghiên cứu của các huy chương Fields hay giải Nobel và nếu các vị này
làm phúc bỏ thì giờ dậy riêng cho chúng tôi thì chắc chúng tôi cũng không
hiểu gì cả. Theo các bài báo phổ cập khoa học thì năm 2010 có bốn vị đồng
chia sẻ huy chương Fields. Đề tài nghiên cứu của ba vị, GS Ngô Bảo Châu,
GS Elon Lindenstrauss và GS Stanislav Smirnov, liên quan đến toán học cơ
bản. Đề tài của GS Cedric Villani thì nhằm giải quyết một số vấn đề vật lý
khí động học (gaz kinetics) và lý thuyết vận chuyển (transport theory). Năm
1950, GS Laurent Schwartz, một người bạn quý của Việt Nam, được huy chương
Fields vì đã hiến cho môn vật lý một bước tiến nhẩy vọt với lý thuyết phân
bổ (distribution hay là generalized functions). Chúng tôi đã nêu ở trên giải
Constantin Caratheodory của GS Hoàng Tụy với đóng góp lớn lao cho ngành hậu
cần.
Chúng tôi tôn trọng tự do nghiên cứu
của những nghiên cứu sư nên không trách GS Ngô Bảo Châu đã chọn một đề tài
nghiên cứu cơ bản. Công trình của giáo sư đã gia tăng kho kiến thức của nhân
loại và đã mang lại vinh quang cho nước Việt Nam, vinh quang mà cả nước đều
hãnh diện chia sẻ. Nhưng chúng tôi trách chính phủ đã không hướng dẫn du học
sinh Ngô Bảo Châu đến những đề tài liên quan trực tiếp tới bát cơm manh áo
của người dân Việt Nam. Một khi được gửi đi học ở ngoại quốc, chưa chắc gì
một du học sinh sẽ quan tâm đến một đề tài nghiên cứu ưu tiên của chính phủ
và dù em đó nghiên cứu theo định hướng của chính phủ chăng nữa thì cũng chưa
chắc em sẽ trở thành một nghiên cứu sư được quốc tế vinh danh. Đó là những
bất trắc mà chúng ta phải chấp nhận thôi. Nhưng một chính phủ, nhất là chính
phủ một nước nghèo như nước ta, đâu có thể để cho một sinh viên đi du học mà
lại không nhắn em đó nên học gì, nên nghiên cứu gì cho thích hợp với kế
hoạch NCKHKT của chính-phủ[vii].
Những thành tích của GS Hoàng Tụy làm
chúng tôi cay đắng vì những kết quả nghiên cứu của người Việt Nam được quốc
tế trọng dụng nhưng không được áp dụng ở Việt Nam. Việc thành lập VIASM sau
khi GS Ngô Bảo Châu được huy chương Fields làm chúng tôi thất vọng vì nhận
thấy chính phủ không có nghị lực đủ mạnh và tầm nhìn đủ cao đủ rộng để đưa
ngành NCKHKT tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế ‒ xã hội của đất
nước.
Đặng Đình
Cung