Tôi gặp anh Châu lần đầu vào cuối tháng 1/2010, lúc anh đã nhận lời sang Đại học Chicago làm giáo sư. Trong lần gặp đầu tiên đó, anh Châu đi cùng với hai người bạn chung của chúng tôi ở Chicago; chúng tôi hẹn nhau đi ăn tối ở trong khu Việt Nam.
![]() |
Hôm đó, trời rét đậm. Anh
Châu mặc một chiếc áo choàng dài màu đen và
đội mũ len; dáng người nhỏ, đôi mắt chắc
chắn của người thường xuyên phải đọc và mái
tóc đã bạc nhiều.
Cảm giác đầu tiên không thể nhầm lẫn khi gặp
anh Châu: anh Châu là một người rất giản dị
và cởi mở. Trong xe ô tô trên đường vào khu
Việt Nam, anh phụ họa đọc thơ với một người
bạn.
Hôm đó, chúng tôi không có dịp nói chuyện
nhiều. Điều mà tôi nhớ nhất là trong câu
chuyện, anh hỏi tôi “Viết văn chắc là khó
lắm nhỉ?”. Câu hỏi ấy làm tôi nhận ra có thể
không chỉ có tôi thấy khó hình dung về công
việc của một nhà toán học như anh, mà ngược
lại những người làm toán có lẽ cũng không
biết nhiều về công việc của người làm nghệ
thuật.
Nhưng có thể, toán học và văn học nói riêng,
cũng như khoa học và nghệ thuật nói chung,
đều chỉ là việc dùng những ngôn ngữ và công
cụ khác nhau để mô tả và giải thích thế
giới.
Và đấy là lí do tôi đề nghị anh Châu cho
tôi phỏng vấn anh trong lần gặp sau, với
mong muốn rằng việc biết rõ thêm một chút về
hành trình công việc và hành trình cá nhân
của anh có thể giúp rất nhiều người thuộc
các lĩnh vực khác nhau có thêm niềm tin với
những gì họ theo đuổi.
Chúng tôi đã hẹn sẽ gặp nhau lúc 9 giờ sáng
ở nhà anh rồi đi bộ vào trường. Đầu tháng
Tư, Chicago đã có nắng ấm; hoa tulip, thủy
tiên và mộc lan bắt đầu nở trên mặt đất mặc
dù lá chưa mọc trở lại trên các cây cổ thụ
dọc các con đường trong khu Hyde Park. Chúng
tôi mua cà phê ở Reynold Club rồi vào Hutch
Commons ngồi.
Hutch Commons là phòng lớn,
nơi sinh viên và cả các giáo sư thường tới
ngồi làm việc, ăn trưa, gặp gỡ bạn bè, đồng
nghiệp. Căn phòng cao, với nhiều cửa sổ lớn
gắn kính màu đón nắng mặt trời. Dọc hai bên
tường có treo ảnh các đời hiệu trưởng của
trường.
Lúc này còn sớm và lại là thứ Hai nên trong
Hutch Commons chỉ có vài ba sinh viên ngồi
rải rác làm bài tập. Chúng tôi chọn một bàn
ở góc trong cùng của căn phòng. Câu chuyện
của chúng tôi bắt đầu bằng việc tôi thú nhận
rằng tôi không biết sẽ phải phỏng vấn như
thế nào; anh Châu nói thôi thì cứ nói chuyện
bình thường thôi.
Tôi ghi lại đây một số đoạn từ cuộc “nói
chuyện bình thường” này và giữ nguyên cách
xưng hô “anh-em” để trung thực với cuộc trò
chuyện.
Phan Việt (PV): Anh có nói với em là anh
muốn đi khỏi Princeton sang Chicago bởi vì
Princeton không có cảm giác cuộc sống. Cái
“cảm giác cuộc sống” đấy chính xác là cái
gì? Anh tìm kiếm điều gì?
Ngô Bảo Châu (NBC): Anh sinh ra ở 47 Hàng
Bài, lúc nào cũng có 1 triệu người quay xung
quanh; ở Princeton không đủ 1 triệu người
quay xung quanh, nên thấy thiếu cảm giác
cuộc sống (cười). Đùa vậy chứ thật ra thì
anh thích Hyde Park này; nó ở trong thành
phố lớn nhưng mà nó vẫn đủ nhỏ. Nếu anh ở
một mình thì đơn giản, nhưng có trẻ con thì
ở Hyde Park này là một lựa chọn tốt.
Thế tức là trong quyết định của anh, trẻ con
là một phần rất quan trọng?
Ừ, tất nhiên rồi. Không, tức là nó có hai
phần; một phần là trẻ con, phần nữa là về
khoa học thì anh thích mấy người ở trường
Chicago này. Về toán thì Chicago thực ra là
xuất sắc, nhất là trong ngành của anh.
Ngành của anh chính xác là gì ạ?
Anh làm cái nó gọi là algebraic geometry
(hình học đại số) và chương trình Langlands.
Nó cũng rộng. Cho nên cái Bổ đề mà anh vừa
viết ấy, anh viết 8 chương, 200 trang, thì
anh vừa nhận được 6-7 cái report của những
người đọc kiểm tra các phần khác nhau, có
người thì đọc toàn bộ, có người thì đọc một
phần thuộc về chuyên môn của người ta thôi,
để xem nó có chính xác chặt chẽ không. Ai có
chuyên môn phần nào thì đọc phần đấy... vì
ngoài chuyện chuyên môn thì đọc như thế cũng
là một việc mất thời gian mà cũng là cái hy
sinh của người ta; một bài đấy cũng phải mất
vài tháng để đọc nếu có chuyên môn, còn nếu
không có chuyên môn thì phải lâu hơn.
Nhân anh nói
chuyện hy sinh... Lúc mà tạp chí Time công
bố là công trình của anh nằm trong 10 công
trình khoa học lớn nhất năm 2009 thì
VnExpress có đưa tin về chuyện đó và chuyện
anh về Chicago dạy học. Em không biết là anh
có đọc những ý kiến bạn đọc ở bên dưới
không...
Anh có đọc loáng thoáng.
Thì có một số ý kiến nói nào là chảy máu
chất xám, nào là lẽ ra anh phải về Việt Nam
cống hiến. Anh có cảm thấy đòi hỏi như vậy
là bất công với anh không?
Anh không thấy bất công ... nói chung là có
một số ý kiến mà nó... nó ấu trĩ đến mức mà
anh không thể nào quan tâm được (cười). Anh
cảm thấy là anh đã qua cái tuổi mà anh còn
chịu áp lực xã hội rồi. Tất nhiên là anh vẫn
chịu áp lực từ một số người mà mình quan tâm
ý kiến của họ; ý kiến của họ chính xác thì
làm anh suy nghĩ; còn có nhiều ý kiến xuất
phát một là từ sự ấu trĩ, hoặc là từ sự ghen
tị thì anh không để ý.
Nhưng mà, để đi
đến cái chỗ biết cái gì là ấu trĩ để mà bỏ
qua cũng là cả một quá trình, đúng không ạ?
Lúc đầu có lẽ mình không làm
được như vậy đâu; kể cả mình biết là người
ta nói vô lí thì mình vẫn đau...
Anh nghĩ là... thực ra để đạt đến sự ổn định
thì mình phải có sự nhạy cảm nhất định với
cuộc sống. Một khi mình đã đau thì mình đừng
nhắm mắt bịt tai, mà mình phải cố gắng phân
tích cho đến cùng cái đau đấy, hoặc là cái
ngu ngốc của mình. Anh thực ra không phải là
người có nhiều va chạm xã hội; chỉ có điều
là mỗi một lần va chạm thì anh chịu khó phân
tích cái va chạm của mình; thì mỗi lần va
chạm, mình càng đau mà mình càng chịu khó
phân tích thì mình càng hiểu, hiểu mình và
hiểu người khác hơn.
Nhưng nếu như mình cứ phải phân tích để biết
cái gì không đáng làm mình đau, thì nó cũng
có thể làm mình chai sạn, mệt mỏi. Có thể
với toán học thì khác; nhưng với nhà văn
chẳng hạn, nếu mà mình cố gắng lý trí để
không làm mình đau thì mình cũng có khi làm
mất cái con mắt quan sát thuần khiết của
mình đi…
Làm toán thì tất nhiên nó hơi khác nhưng nó
cũng có cái giống như thế. Bởi vì làm toán
thực ra là cực kỳ violent (bạo lực) với bản
thân mình, lúc nào mình cũng phải lý trí,
không bao giờ được chiều bản thân mình,
không được chiều theo cái ham muốn hiện tại.
Với lại, toán cũng có cái mâu thuẫn giống
như em nói. Một mặt nó cũng là một dạng
profession (nghề nghiệp), tức là nó cũng có
những hoạt động của nó; tức là phải đi làm
seminar, đi làm hội thảo, viết báo cáo; tức
là nó cũng phải có những thủ tục; cộng đồng
thì bao giờ cũng phải có thủ tục; nhưng nếu
có thủ tục mà thành chuyên nghiệp quá thì vô
thức nó cũng có thể giết đi cái trong sáng,
cái khởi thủy của người làm toán, tức là cái
con mắt trong sáng của trẻ con, cái gì mình
cũng muốn hiểu ngọn ngành từ đầu đến cuối,
trong khi nếu mình thành chuyên nghiệp thì
mình chỉ chú tâm để ý những cái gì đang nổi,
đang mới, đang là mốt, làm cho mình quên đi
cái cơ bản nhất. Nếu muốn làm nhà toán học
giỏi thì không thể để mất đi cái cơ bản.
Thực ra anh viết blog Thích Học Toán một
phần là như thế; vì lúc nào anh cũng có điều
kiện xem lại những thứ cơ bản nhất.
Em muốn quay lại với chuyện về tìm kiếm
“cảm giác cuộc sống” mà anh đã nói. Với văn
học, người ta có khái niệm cảm hứng rất rõ
ràng và nó thường xuất phát từ cuộc sống.
Thế với toán học thì nguồn cảm hứng đấy ở
đâu ra?
Nó là bài toán toán học. Nhưng mà bài toán
toán học, khi mình đã làm việc đủ lâu với
nó, thì nó cũng hiển hiện như là một xã hội;
nó có hình tròn, hình cầu, hình méo...
Nó có đem lại cảm giác say mê như với
say mê nhân vật, say mê ngôn ngữ không ạ?
Tức là có cái cảm giác mình không thể sống
được nếu mình không làm toán?
Tất nhiên nếu anh không làm toán thì anh
cũng không đi tự tử (cười) nhưng mà... nó là
cái phần cơ bản của mình, nó là một nguồn
hạnh phúc lớn. Mà anh không nói đến làm toán
theo kiểu chỉ có nghiên cứu viết báo cáo
đâu, anh nói đến việc mình liên tục đọc
sách, xem cái mới, cái cũ, tìm kiếm, suy
nghĩ, nó là một hành trình liên tục...
Cái hành trình và cái hạnh phúc đấy nó
liên quan nhiều đến sự phát triển nội tâm
của mình, đúng không? Nó gắn với hành trình
phát triển của con người mình.
Đúng rồi. Anh nghĩ là nếu một người mất cảm
giác mình vẫn còn nhiều cái không biết thì
không thể nào làm được cái gì hay ho nữa.
Cho nên phải học. Ví dụ như anh thì có một
cái kém mà nhiều lúc cũng khó xử đấy; tức là
anh cảm tưởng cái gì anh cũng không biết rõ
lắm, cái gì anh cũng biết lơ mơ; dĩ nhiên
cái mà anh làm thì anh biết rõ còn lại thì
anh rất lơ mơ, nhưng anh lại không có thói
quen giấu cái sự lơ mơ đấy; thế thì nó khó
xử là đi đâu lúc đầu người ta cũng trọng
vọng mình, nhưng xong rồi người ta hỏi cái
gì mình cũng không biết thì có khi cũng khó
xử vì ở những vị trí nhất định thì mình
không thể xuề xòa quá được... Cho nên bây
giờ anh cũng phải học.
Đấy, mình phải giữ cái ham muốn học hỏi, và
mình cũng phải học cách chia sẻ nữa. Cũng
phải chọn người mới chia sẻ, đâu phải ai
cũng chia sẻ được, vì nhiều khi nó có thể
làm mình rất tổn thương; ví dụ là có những
cái mà mình quý nhất thì người ta lại coi
thường.
Trong văn học, anh thấy là có khái niệm “văn
phong” rất là rõ ràng. Toán học thì có khái
niệm phong cách riêng không?
Có chứ, nhưng nói chung là nó hơi khác, vì
toán thì… khi mà nó đến cái mức hoàn hảo thì
nó không còn có tính cá nhân nữa, nó vô
tính, nó trong sáng đến mức không biết là ai
nữa mặc dù style làm toán thì cũng có tại vì
cái cách suy nghĩ của mỗi người thì có khác
nhau.
Thế style của anh là gì nếu anh phải mô tả
bằng một vài từ?
Anh cũng không rõ nhưng mà anh làm toán hầu
như không bao giờ cần giấy cả.
Anh cứ nghĩ trong đầu?
Ừ, anh không cần phải ngồi tính toán, anh cứ
nghĩ đến một lúc mà anh cảm tưởng là được
rồi thì anh ngồi viết ra; lúc đó lại phải
lắp ghép lại.
Thực ra cái quá trình viết ra đấy là quá
trình hiện thực hóa vì lúc mình nghĩ thì nó
giống như là mình xây dựng cả một thế giới
của mình, nó có nhiều đường, nhiều ngã rẽ;
đến lúc mình viết ra giấy thì mình phải viết
tuần tự.
Có những bài toán đơn giản thì dễ nhưng với
bài toán phức tạp như cái Bổ đề vừa rồi thì
anh viết rất nhiều lần; lúc mới bắt đầu
viết, anh cũng không biết là viết thế nào
cả... anh cũng phải chuẩn bị rất nhiều...
như văn chắc là cũng phải chuẩn bị, nhưng
văn thì có thể chuẩn bị thừa một chút chứ
toán thì về mặt nguyên tắc là không được
chuẩn bị thừa cái gì cả, chỉ viết cái gì cần
thiết, đúng như thế thôi, không dài hơn.
Lúc đầu anh viết thì anh không biết chính
xác là cái gì mình cần, bởi vì nó là cả một
cái hệ thống, anh cứ mô tả dần dần cho đến
cuối cùng, sau đó thì mới quay lại sửa.
Cái quá trình đấy cũng tương
đối là painful (khó khăn), vì lúc mình nghĩ
trong đầu thì kể cả mình suy nghĩ nhiều,
mình cũng không thể nào chặt chẽ 100% được,
có nhiều chỗ lúc nghĩ thì mình bảo chỗ này
được rồi, có thể bỏ qua, mình sẽ làm được,
cái đấy là do kinh nghiệm thì mình biết và
thường là cũng đúng, nhưng mà lúc viết ra,
thì mỗi đoạn đấy lại phải bổ sung chi tiết,
thì có khi mình thêm chỗ này nó lại phình ra
chỗ kia.
Hôm qua em ngồi đọc về Viện IAS ở
Princeton mà anh đang làm việc. Thì có người
chỉ trích là cái viện đó thực ra cũng là chỗ
giết chết nhiều người tài, tức là lúc trước
họ làm được nhiều thứ tử tế, nhưng khi đến
Viện thì không làm được gì nữa bởi vì sang
đó chỉ phải ngồi nghiên cứu thôi, không có
áp lực dạy học hay làm gì nếu không muốn,
cho nên họ đi đến chỗ cô lập, bế tắc. Anh có
nghĩ là đứng về mặt sáng tạo, việc được “bao
cấp” và không có áp lực như thế là cái có
hại?
Với một số người thì nó có hại thật. Có
những người, khi họ không còn chịu áp lực
phải xuất bản công trình nghiên cứu nữa, thì
họ chẳng làm gì cả. Nhưng ngược lại nếu phải
chịu áp lực xuất bản nhiều quá, như ở Mỹ này
áp lực lớn quá thì người ta cũng in nhiều
thứ nhảm nhí chẳng ai đọc.
Em thấy rác nhiều lắm.
Nhưng không có cái áp lực xuất bản công
trình nghiên cứu đấy thì cũng nguy hiểm. Cho
nên anh vẫn nói làm khoa học nó có hai mặt;
một mặt mình vẫn phải giữ cái con mắt trong
sáng của người muốn tìm hiểu, một mặt mình
vẫn phải giữ con người làm việc chuyên
nghiệp.
Đến hẹn mình vẫn phải tham gia hội thảo, làm
thuyết trình, đấy là việc mình phải làm,
mình không nên từ chối bởi vì khi mà mình từ
chối, mình tự rút ra khỏi xã hội thì không
sớm hay muộn mình cũng bị thoái hóa.
Thu mình vào thì nhiều khi cũng cần thiết để
mình có thể nghĩ lâu một cái gì đó nhưng
mình cũng có thể bị một cái bệnh là bệnh chủ
quan, tức là mình chỉ quan tâm đến cái mình
nghĩ thôi mà mình lại quên mất nhiều thứ, và
mình sẽ khó giao tiếp với người khác.
Thì ở IAS có những người rất là giỏi, bài
toán nào các ông ấy cũng giải được, mà ai có
gì khó thì các ông ấy đến giúp; nhưng các
ông ấy không thấy có động lực đủ lớn để làm
thêm cái gì nữa, có lẽ họ đã chán toán rồi.
Lúc bé, anh có ý thức gì về việc thích toán
không?
Anh có ý thức là mình muốn trở thành nhà
toán học không? Lúc bé anh chẳng có ý thức
gì cả. Lúc bé thì toán văn anh đều học giỏi
cả nhưng bố anh bảo anh vào chuyên toán thì
anh vào chuyên toán.
Thế thì anh có nghĩ là cần định hướng
sớm cho trẻ con về nghề nghiệp không? Ví dụ
như là hướng cho trẻ con trở thành nhà toán
học hay bác sỹ hay kiến trúc sư?
Anh nghĩ là cũng không cần phải định hướng
về mặt nghề nghiệp sớm như thế đâu. Với nhạc
sỹ chẳng hạn thì anh không biết, có thể họ
cần định hướng từ lúc rất bé; còn những nghề
mà làm việc trí óc nghiêm túc thì nhận thức
về nghề nghiệp nó phải là lúc mình trưởng
thành rồi.
Chẳng hạn như ông Langlands, ông ấy là một
trong những người có ảnh hưởng mạnh nhất tới
toán học thế kỷ 20-21, nhưng mà ông ấy thực
ra cứ tự học, mà học toán cũng tình cờ; bố
ông ấy là tiều phu, ông ấy không đi học
trường trung học hay đại học nổi tiếng nào
cả, đào tạo cơ bản của ông ấy thực ra bình
thường; nhưng khi ông ấy đi học đại học bên
Canada thì học cũng được, thế là thầy giáo
toán của ông ấy bảo ông ấy đi làm PhD (tiến
sỹ).
Ông ấy bảo PhD là cái gì. Sau rồi ông ấy
thấy ừ thì bây giờ được đi học có học bổng,
mà lại được lấy vợ sớm nữa thì cũng thích
(cười); thế là đi làm PhD. Cho nên anh thì
anh không nghĩ chuyện định hướng nghề nghiệp
sớm cho trẻ con là quan trọng.
GS. Ngô
Bảo Châu 1990: Sang Pháp du học tại Đại học Paris 6, sau đó là Đại học Ecole Normale Supérieure. 1997: Trở thành tiến sỹ toán; về công tác tại Trung tâm khoa học quốc gia Pháp 2004: Cùng nhận giải thưởng của
Viện toán học Clay với Giáo sư
Gerard Laumon cho công trình Bổ đề
cơ bản cho các nhóm Unita. 2008: Hoàn thành chứng minh Bổ đề cơ bản trong trường hợp tổng quát cho các đại số Lie. 2009: Kết quả chứng minh Bổ đề cơ bản Langlands của Ngô Bảo Châu được tạp chí Time bình chọn là 1 trong 10 phát minh khoa học tiêu biểu của năm 2009. 2010: Ngô Bảo Châu sẽ báo cáo tại phiên toàn thể của Đại hội Toán học thế giới. Anh được đánh giá là một trong những ứng cử viên hàng đầu cho giải thưởng Fields – giải thưởng toán học tương đương với giải thưởng Nobel, được trao 4 năm một lần cho một nhà toán học dưới 40 tuổi. Anh cũng đã nhận lời về làm giáo sư toán tại Đại học Chicago kể từ mùa thu 2010. |
Đối với các cháu nhà anh bây giờ anh có định hướng gì không?
Anh không định hướng gì cả.
Anh có dạy các cháu học không?
Anh có dạy. Thực ra mấy năm nay anh cũng bận
nhưng anh có dạy, và anh cũng để ý rèn các
cháu những thứ mà đối với anh là quan trọng,
là có giá trị.
Ví dụ là thứ gì?
Ví dụ là đọc sách, là cố gắng viết đúng
chính tả (cười)... vì cái gì bố không làm
được thì con phải làm được 2.
Đọc sách gì ạ?
Sách thì cũng đủ loại... đến bây giờ thì con
gái lớn của anh cũng lớn rồi nên anh cũng
không muốn áp đặt. Tất nhiên anh cũng cố
gắng hướng dẫn một chút để nó không đọc sách
nhảm nhí nhưng anh cũng không muốn áp đặt.
Anh có kỳ vọng điều gì ở con anh không?
Anh chỉ kỳ vọng là chúng nó có một cuộc sống
bình thường, hạnh phúc... anh không kỳ vọng
chúng nó phải làm gì vĩ đại cả.
Nhưng anh có cảm thấy là mình đã biết
đến cuộc sống trí thức và cái cuộc sống đấy
làm cho nội tâm mình thanh thản, nó sạch, nó
là một lựa chọn sống tương đối thích so với
một số ngành nghề khác, thì anh có hướng các
cháu vào cuộc sống đấy không?
Anh không nghĩ là cuộc sống trí thức là điều
kiện bắt buộc để có cuộc sống trong sáng.
Nhưng cái mà em nói đúng là quan trọng, tức
là có cuộc sống nội tâm trong sáng là cái
quan trọng. Nhưng mà có nhiều cách để đạt
được chuyện đó. Đấy là một trong những cái
mà lúc nào anh cũng muốn dạy cho trẻ con,
tức là cách quan hệ xử sự với người khác,
rồi là thái độ đối với của cải vật chất như
thế nào, những chuyện đấy thì anh nói tương
đối nhiều...
Nhân anh nói đến của cải vật chất...
Ừ (cười)
Bây giờ thì anh giàu rồi, đúng không ạ?
Ừ (cười)
Giả sử là anh không giải quyết được Bổ
đề và anh cứ sống cuộc sống trung lưu hoặc
nghèo khó đến hết đời, thì đối với anh điều
đó có khó chấp nhận không? Có cái thời điểm
nào mà anh nhìn ra rằng kể cả nếu mình chỉ
sống nghèo khó như thế này hoặc mình không
có tên tuổi gì đến hết đời thì điều đó cũng
không sao?
Không, thực ra chưa bao giờ anh thấy bức bối
lắm về chuyện thiếu thốn vật chất, kể cả lúc
anh không nhiều tiền. Thực ra lúc nào anh
cũng cố gắng ý thức cái chuyện là mình không
ham muốn những cái không cần thiết cho mình;
chỉ có lúc nào là mình cần mà mình không làm
được thì cũng hơi bức bối; thực ra ở Việt
Nam thì cái đấy cũng khó; nhưng ở nước ngoài
thì việc hạn chế những cái không cần thiết,
những cái phù phiếm cũng tương đối dễ dàng;
cho nên chưa bao giờ anh cảm thấy bức bối về
chuyện đó. Đồng lương của giảng viên đại học
thì cũng đủ để sống trung lưu bình thường,
nói chung là anh thích cuộc sống trung lưu.
Nhưng mà em đang nói tới lúc anh trẻ
hơn... em hỏi điều này bởi vì là anh đã
thành công sớm, ta tạm gọi là như vậy, anh
được 2 giải Olympic toán quốc tế, cho nên có
thể có một số kỳ vọng hoặc sức ép thành công
nào đó về mặt danh vọng hoặc của cải vật
chất.
Không, thực ra thì có một cái là... dạo mà
anh học cấp 2, cấp 3 chẳng hạn, anh cứ nghĩ
đến những anh được giải toán quốc tế như là
thiên tài vĩ nhân; xong đến lúc mình thi
được giải thì mình thấy nó cũng… bình thường
(cười).
Thì vì anh coi chuyện đấy là bình thường cho
nên anh cũng không thấy có áp lực gì. Lúc
anh làm luận án thì cũng có khó khăn, nhưng
mà làm việc gì cũng có lúc khó khăn cả; nó
khó khăn là vì bản thân cái việc đó nó khó
khăn chứ không phải là vì có sức ép xã hội;
anh thì không tưởng tượng là xã hội kỳ vọng
gì ở bản thân mình.
Có thể là toán học ít sức ép xã hội hơn vì
xã hội không có cái kỳ vọng là ví dụ trong
vòng 2 năm, anh Ngô Bảo Châu phải giải xong
bài toán này. Nhưng với nhà văn, đôi khi có
cảm giác sức ép là bởi vì nhà văn phải có
sản phẩm là cuốn sách và phải công bố ở diện
rộng hơn công trình toán học và ai cũng có
thể phê bình...
Ừ, như lúc nãy anh nói là phải có thái độ rõ
ràng với hai mặt của công việc mà hai cái
đấy mình không thể xem nhẹ cái nào; một cái
là chuyện học thuật của mình, còn một cái là
đời sống xã hội của mình, cái cách mình cư
xử với sức ép xã hội.
Thì đối với sức ép xã hội, mình phải quản lý
nó theo nghĩa là mình quản lý nó chứ mình
không để nó ép mình; quản lý tức là những
việc mình thấy nên làm, như việc dự hội thảo
hay đi nghe thuyết trình thì cứ đúng đến
ngày đến giờ là mình đi; nếu cái hội thảo đó
có nghĩa cho công việc của mình, thì tuần
nào cũng đến đúng giờ đấy là anh đi nghe,
chứ mình không đi nghe theo kiểu là cứ thấy
ông này nổi tiếng, ông kia nổi tiếng thì
mình đi nghe.
Anh nghĩ là trong đời sống giao tiếp với xã
hội, nếu mình muốn giữ nó là một cái có ích
cho mình thì mình phải rất kỷ luật, cứ tuần
tự mà làm, mình không từ chối nó nhưng mình
cũng không cố gắng ôm thêm vào người. Có thể
mình đang theo đuổi một cái gì đó cần lâu
dài, thì mình cứ làm nhưng trong lúc đó mình
cũng nên làm một cái gì đó tuần tự để giữ
vững tinh thần của mình...
Thế lúc tinh thần của anh không vững,
tức là lúc anh nản chí ấy, thì anh làm gì?
Nói chung là lúc mà tâm lý đã đi xuống thì
chỉ cứ đợi cho nó đi qua thôi.
Trên blog Thích Học Toán của anh, anh có
nói đến một cụm từ là “15 cô đơn với Bổ đề”,
và anh hứa là anh kể, nhưng anh vẫn chưa kể.
Từ lúc anh bắt đầu làm PhD, tức là năm 1993
ấy, thì đến giờ là 15 năm. Lúc mà anh làm
PhD thì vấn đề của Langlands chẳng ai quan
tâm, người ta coi là vấn đề chết; tức là mấy
chục năm không ai làm được thì người ta
không làm nữa.
Cái luận án tiến sỹ của anh cũng gần giống
với Bổ đề Langlands; nó là của ông Jacquet;
nó dĩ nhiên là không nổi tiếng và không kéo
theo quá nhiều những kết quả rực rỡ gì khác
như Bổ đề Langlands nên người ta càng không
để ý. Lúc anh làm PhD là khoảng thời gian
thử thách tâm lý rất lớn; lúc đấy mình còn
chưa tin lắm vào khả năng của mình. Mà lại
còn có nhiều chuyện làm mình nản.
Chẳng hạn như là ngay cái tên ấy, ông
Langlands ông ấy đặt cái tên “Bổ đề cơ bản”
nghe nó đã buồn cười rồi. Cái Bổ đề bình
thường thì nó không phải là một kết quả quan
trọng, nó chỉ là một kết quả trung gian
thôi, người ta dùng cái đó để làm cái khác.
Nhưng mà với Bổ đề Langlands thì vì sau này
có quá nhiều thứ liên kết với nó, phụ thuộc
vào sự vững chắc của Bổ đề cơ bản cho nên nó
mới trở thành vấn đề trung tâm của ngành.
Thì lúc mà anh đi phỏng vấn xin việc lần đầu
ở Pháp ấy, người ta hỏi anh làm cái gì, anh
bảo là anh làm Bổ đề cơ bản, thì đến một nửa
cái hội đồng phỏng vấn là họ phá ra cười, vì
nghe nó buồn cười, nghe nó ngớ ngẩn, vì
người ta không biết ngành của anh. Tất nhiên
là lần đấy anh không đỗ, sau này anh mới đỗ.
Lúc đó thực ra không mấy ai tin là có thể
giải quyết được Bổ đề Langlands; kể cả lúc
anh sang Chicago năm 2001 rồi sang
Princeton, thì lúc đó thực ra anh cũng chỉ
có âm mưu giải quyết nó thôi, chứ anh cũng
không chắc chắn lắm; có điều là lúc nào anh
cũng giữ trong đầu một cái hy vọng là lúc
nào đấy sẽ làm.
Không biết em có thấy không, ở đây thì ít
đấy chứ ở Princeton có rất nhiều những cái
cờ xanh đỏ cắm trên bãi cỏ để đánh dấu chỗ
này là đường ống nước, chỗ này là đường cáp
điện, thì ở Princeton mọi người hay đùa đấy
là cờ tưởng niệm các chiến sỹ đã hy sinh vì
Bổ đề Langlands (cười).
Thế nếu anh không làm được Bổ đề cơ bản
thì nó có phải là một thất bại cá nhân nặng
nề không? Nó có phải là một điều kinh khủng
không?
Anh cũng không biết... Về bản chất anh không
phải là người thích cuộc sống của mình trở
thành dramatic (kịch tính). Nếu đã để nó trở
thành một thứ như là một thất bại nặng của
đời mình thì lại thành ra dramatic quá.
Giả sử anh đã công bố anh làm được rồi mà
hóa ra là giải sai thì lúc đó rất tệ; nhưng
mà lúc anh chưa làm được thì thực ra cũng
bình thường. Nó chỉ là một cái mình thích và
mình làm thôi… Thực ra ấy mà, nhiều khi anh
cũng muốn tìm ra một vấn đề mà mình không
bao giờ làm được.
Vì sao ạ?
Vì, nói thật là, khi mình đang làm toán, khi
mình đang theo đuổi một vấn đề thì nó vô
cùng thú vị, nó như là một nguồn sinh lực
sống với mình... Toán học ấy mà, lúc mình
theo đuổi một vấn đề, thì thực ra là mình tự
làm đau mình, đúng không? Như là tự hành hạ
bản thân vậy. Nhưng mà làm xong rồi thì lại
phải tìm chỗ khác để hành hạ tiếp (cười).
Anh nghĩ là trong cuộc sống, bản chất con
người là không thích sự ngẫu nhiên, bất
định; mình chỉ muốn sự ngẫu nhiên ở một mức
nhất định cho cuộc sống vui vẻ thôi, còn về
bản chất thì mình muốn có một cuộc sống
logic, mà để có cái logic đấy thì phải chọn
một cái mục đích gì đó.
Dĩ nhiên mục đích nó phải đủ cao quý thì nó
mới vực được cuộc sống của mình lên, chứ mục
đích mà thấp kém hèn hạ thì nó cũng chẳng
thể là cứu cánh được cho mình. Nhưng bản
thân cái mục đích đấy cũng chỉ là cách để
mình tổ chức cuộc sống thôi, cho nó có
hướng; nếu không thì cuộc sống của mình nó
vô hướng.
Anh cảm thấy đối với anh, việc tìm một bài
toán để giải nó xuất phát từ nhu cầu tự
nhiên là con người mình cần một cái mục đích
để tổ chức cuộc sống của mình... nhưng nó
chỉ là đích, mình không cần cố sống cố chết
đạt được; cái chính là khi mà mình đi tới
cái đích ấy thì mình phải biết cách thưởng
thức con đường trong lúc mình đi. Cái đích
chỉ là cứu cánh cho mình sắp xếp cuộc sống,
để cho mình đi qua cuộc đời này một cách
hạnh phúc thôi.
Thế cứu cánh tiếp theo của anh là gì?
Chưa tìm được cứu cánh tiếp theo... Chưa tìm
được cứu cánh cụ thể. Vẫn đang đi tìm; phải
đi tìm chứ.
Anh đã bắt đầu ngấm cái chuyện anh rơi
vào trường bất tử chưa?
Trường bất tử là thế nào?
Tức là... với thế
giới thì có thể là anh chỉ được biết nhiều
trong giới toán học; nhưng mà ở Việt Nam thì
anh chắc chắn sẽ đi vào lịch sử rồi, có thể
là sẽ có trường Ngô Bảo Châu, có đường Ngô
Bảo Châu, có giải thưởng Ngô Bảo Châu, vv...
Thực ra thì đấy là cái đáng
ngại nhất đấy, đấy chính là cái đáng ngại
nhất...
Nhưng anh có tự hào về điều đó không?
Không.
Không tự hào?
Ừ… là vì từ bé anh đã có cảm giác là mình
phải sống thế nào để sau khi mình ra đi thì
mình không để lại dấu vết gì về bản thân
nữa. Anh nghĩ là chuyện không để lại dấu vết
gì cũng là chuyện quan trọng. Giống như
trong cuộc sống bình thường, khi mình rời
khỏi nơi nào đó hoặc làm xong chuyện gì thì
mình nên thu dọn sạch sẽ để ra đi.
Nhưng mà Flaubert có nói là cứ đưa cho tôi
một người anh hùng, tôi sẽ viết cho anh một
bi kịch; có thể hiểu một nghĩa là sau người
anh hùng nào cũng có bi kịch. Anh bây giờ là
anh hùng rồi đấy, dù anh có muốn hay không.
Thế anh có bi kịch nào không? Hoặc là một
cái gì đấy mà đến cuối đời, nó có thể coi là
một cái mà mình đã không dọn được sạch sẽ để
ra đi?
(Cười)...
Ngần ngừ tức là có rồi (cười)
(Cười)
Em muốn hỏi cái này từ góc độ nhà văn.
Với nhà văn hoặc người làm nghệ thuật, khi
mà mình muốn làm cái gì tử tế ấy, thì nhiều
khi mình phải cực đoan lắm. Ông Faulkner có
nói là “nghĩa vụ duy nhất của một nhà văn là
nghĩa vụ với nghệ thuật; tất cả những thứ
khác như danh dự, tự trọng, cuộc sống ổn
định, hạnh phúc cá nhân, tất cả, đều tung hê
hết, miễn là có thể viết. Nếu cần phải ăn
cướp từ mẹ đẻ để hoàn thành cuốn sách, thì
một nhà văn cũng làm, nếu như anh ta thực sự
là một nhà văn”. Anh nghĩ đối với
người làm toán hoặc người làm khoa học nói
chung thì nghĩa vụ cao nhất là nghĩa vụ với
cái gì hoặc với ai?
Anh nghĩ là toán thì nó không cực đoan như
thế, nhưng để làm cái gì tử tế thì mình cần
có sự nghiêm túc. Nghĩa vụ của người làm
khoa học là làm khoa học, tất cả những cái
khác là hệ quả, chứ không phải cái mình tìm
đến. Bởi vì giá trị của khoa học nó thể hiện
chính xác ở sản phẩm khoa học mình làm ra.
Có thể là toán khác, vì toán không có
tính personal (cá nhân) nhiều
Ừ, nó không personal, nó không quá quan tâm
đến quan hệ xã hội như nghệ thuật hoặc văn
học. Toán thực ra là quá trình giành giật
chiến đấu với bản thân mình, nó không liên
quan nhiều đến người khác, đến các quan hệ.
Đấy, văn khổ là ai cũng tưởng mình hiểu, còn
toán thì cứ yên tâm là người ta không hiểu
(cười), đỡ lo lắng.
Thế thì với toán, cái lo lắng nhất là cái
gì?
Toán học thì khó nhất chính là làm được lâu,
tức là giữ được sự ham mê lâu. Hầu như đến
90% các nhà toán học khi già ấy mà, anh thì
không nghĩ là vì họ già nên họ không làm
được nữa đâu, mà là họ chán; khi thấy cuộc
sống ổn định, đủ tiền tiêu, thì làm toán chỉ
còn là một cái nghề, đến giờ thì đi dạy học,
cũng làm nghiên cứu nọ kia nhưng nó không
còn đam mê nữa
Anh có nghĩ là anh sẽ đến lúc đấy không?
Lúc chán?
Bây giờ thì chưa chán. Anh nghĩ là để biết
cách duy trì cái ham mê của mình cũng phải
có nghệ thuật. Chính cái chuyện mà người ta
muốn mình thành expert (chuyên gia) về một
cái gì đấy là cái giết chết sự đam mê trong
sáng của mình; cho nên mình phải chống trả
quyết liệt cái chuyện đó. Cho nên là có khi
mình phải đặt mình vào một tình trạng hơi kì
cục, tức là tình trạng của người lúc nào
cũng đang đi học.
Khi nói đến toán học, hoặc đến người như
anh, người ta hay nói đến khái niệm trí
thông minh và người ta cứ nói nó là bẩm
sinh, có hoặc là không có chứ không luyện
tập được. Anh có nghĩ thế không? Nếu có thể
luyện tập được thì có thể luyện theo những
cách nào?
Anh nghĩ là cũng phải có bẩm sinh, nhưng mà
anh nghĩ cái bẩm sinh đó không phải hiếm như
người ta nghĩ, rất nhiều người có cái bẩm
sinh đó, nhưng mà cái quá trình rèn luyện
trong làm việc mới đưa đến thành công.
Bây giờ em muốn hỏi anh một số câu hỏi ngắn,
mà anh không được nghĩ, anh phải trả lời
ngay… Hằng ngày anh dậy lúc mấy giờ?
7 giờ sáng.
Khi lên mạng anh làm gì?
Kiểm tra thư, đọc báo.
Món ăn mà anh thích... nhất? Hoặc một số món
ăn.
Phở.
Thời gian trong ngày mà anh làm việc
hiệu quả nhất?
Buổi sáng.
Mô tả một ngày bình thường của anh?
Sáng dậy ăn sáng, chuẩn bị cho các cháu đi
học; đến khoảng 8 giờ rưỡi thì anh bắt đầu
làm việc; đầu tiên là có email anh phải trả
lời thì trả lời cho xong. Buổi sáng là lúc
đầu óc sáng sủa nhất thì anh ngồi làm những
thứ mà phải suy nghĩ nhiều nhất; ăn trưa
xong đến chiều thì nếu có hẹn gặp người nào
thì anh hẹn gặp nói chuyện buổi chiều. Đến
cuối giờ làm việc thì anh trả lời nốt email
anh phải trả lời; sau rồi chiều tối anh về
nhà; cho trẻ con học, xong nếu còn đủ minh
mẫn thì anh ngồi nghĩ tiếp hoặc anh đọc
sách, rồi đi ngủ.
Anh có thường mơ trong lúc ngủ không?
Cũng hay mơ lung tung (cười).
Anh có đức tin tôn giáo nào không? Hoặc
là cảm thấy anh gần với một tôn giáo nào đó?
Anh không tin cụ thể nhưng anh cũng thấy tôn
giáo cũng thú vị. Anh đọc sách cả về đạo
Phật và Thiên Chúa giáo; anh cũng chia sẻ
một số suy nghĩ của họ nhưng bản thân anh
không phải là con người tôn giáo theo nghĩa
anh tin vào một cái gì đó; nhưng triết lý
sống của họ có nhiều cái phải suy nghĩ.
Anh quan niệm thế nào là bất hạnh?
Bất hạnh nhất là không biết mình muốn cái
gì.
Anh dễ tha thứ nhất cho tính xấu nào của
con người?
Con người bình thường thì ai chả có nhiều
tính xấu nhưng mà đối với anh thì chuyện đấy
nó bình thường, anh không chỉ trích họ.
Phẩm chất hoặc tính cách mà anh đánh giá cao
nhất ở một con người?
Không bao biện cho bản thân. Bao biện tức là
có lúc mình xử sự sai, lẽ ra phải làm thế
này thì mình làm khác; mình làm sai và sau
đó mình luôn tìm cách viết lại lịch sử của
bản thân. Trên blog Thích Học Toán, anh có
viết về phim Rashomon, em đã xem phim đó
chưa?
Em chưa.
Phim đó là một phim tuyệt hay.
Nhưng em nhớ anh
có viết là đừng bao giờ viết lại lịch sử của
bản thân để làm cho mình thấy tử tế hơn, để
có thể sống với bản thân mình...
Đúng rồi.
Nhà văn, nhà thơ mà anh yêu thích?
Nhà thơ thì hồi xưa anh thích Quang Dũng.
Nhà văn thì anh thích Thomas Mann với J.M.
Coetzee.
Tài năng hoặc năng khiếu bẩm sinh mà anh
muốn có nhất?
Có lẽ nếu có một điều ước thì anh muốn có
năng khiếu âm nhạc.
Anh có chơi giỏi một môn thể thao nào
không? Hoặc có quan tâm đến thể thao?
Càng ngày càng ít quan tâm. Ngày trước thì
anh cũng thích bóng đá.
Mong muốn lớn nhất của anh bây giờ là gì?
Tìm lại nhịp sống bình thường để làm toán
trở lại. Thời gian vừa rồi anh cũng nhiều
việc, chuyển nhà rồi đi lại.
Câu hỏi này có lẽ
hơi buồn cười. Triết lý sống hoặc khẩu hiệu
sống của anh là gì?
Không để lại dấu vết.
Nhiều người bảo anh có nụ cười hiền. Anh
có nghĩ “hiền” là từ chính xác để mô tả anh
không?
Anh nghĩ là đúng... Em không nghĩ thế à?
Không, em nghĩ là đúng. Ngô Bảo Châu là một
người hiền.
Chú thích:
1 Blog Thích Học Toán của Ngô Bảo Châu:
http://www.thichhoctoan.org
2 Trên blog Thích Học Toán, anh Châu thỉnh thoảng viết sai chính tả và anh thường đùa rằng tình hình chính tả của anh rất nan giải.
4/2010
Nhà văn Phan Việt (1978) là tác giả hai tập truyện ngắn Phù Phiếm Truyện; Nước Mỹ, nước Mỹ, và tiểu thuyết Tiếng Người. Chị vừa hoàn thành chương trình tiến sỹ ngành công tác xã hội tại Đại học Chicago và sẽ trở thành giáo sư đại học (assistant professor) tại Mỹ từ tháng 7/2010. |
(Theo Phan Việt -Tia sáng)