Duyên số với giải Fields

Vietsciences-Ngô Việt Trung - Vũ Công Lập  - Phùng Hồ Hải            22/08//2010

 

Viết về GS Ngô Bảo Châu

 

 1/ Những người bạn lớn của toán học VN

TT - 14g ngày 19-8 (giờ VN) là thời khắc có thể đi vào lịch sử Việt Nam, nếu dự báo thành sự thật: Liên đoàn Toán học thế giới trao giải Fields - giải thưởng được ví như “Nobel toán học” cho giáo sư Ngô Bảo Châu.

Báo Tuổi Trẻ đã cử hai phóng viên đến với Đại hội toán học thế giới (tại Ấn Độ) để đón đầu sự kiện này. Cũng từ hôm nay, Tuổi Trẻ khởi đăng loạt bài “Duyên số với giải Fields” về những câu chuyện thú vị liên quan đến toán học VN, đến giáo sư Ngô Bảo Châu...

Giáo sư Ngô Bảo Châu (phải) và thầy Laumon (Pháp). Xung quanh họ có nhiều nhân vật liên quan thú vị đến nền toán học VN - Ảnh tư liệu

 

Tuổi Trẻ xin giới thiệu những câu chuyện có thể nói là duyên số của toán học VN với giải thưởng Fields danh giá.

Giải Fields được trao lần thứ ba vào năm 1954. Một trong hai người được giải là nhà toán học Nhật Kunihiko Kodaira. Ông có con rể là GS Mutsuo Oka, cũng là một nhà toán học.

 

 

Ông Oka là một người bạn lớn của toán học VN. Ông đã thu xếp cho nhiều nhà toán học VN sang Nhật làm việc và tham gia quyên góp tiền cho việc xây dựng nhà khách của Viện Toán học. Khi ông Kodaira mất năm 1997, gia đình đã quyết định tặng tủ sách chuyên môn của ông Kodaira cho thư viện Viện Toán học.

“Có một nền toán học VN...”

Năm 1966, lần đầu tiên giải Fields được trao cho bốn nhà toán học, trong đó có nhà toán học Pháp Alexander Grothendieck và nhà toán học Mỹ Steffen Smale. Cả hai người đều nổi tiếng về hoạt động chống chiến tranh của Mỹ ở VN.

Ông Grothendieck được coi là nhà toán học có ảnh hưởng nhất trong nửa sau của thế kỷ 20. Để tỏ thái độ chống chiến tranh, ông Grothendieck sang thăm VN năm 1967 trong lúc Mỹ đang ném bom Hà Nội ác liệt nhất. Ông đã giảng một loạt bài về các hướng nghiên cứu toán học hiện đại, chủ yếu về đại số đồng điều.

Trong bản báo cáo về chuyến đi VN ông viết rằng “có một nền toán học VN thật sự đúng nghĩa ở nước VN dân chủ cộng hòa”. Câu này được ông gạch thêm bên dưới để nhấn mạnh. Sau đấy ông viết là sẽ chứng minh “Định lý tồn tại” này và giới thiệu tương đối chi tiết toán học VN thời bấy giờ. Ông đặc biệt ấn tượng với khả năng của các nhà toán học trẻ VN và nêu tên đích danh ba người là Đoàn Quỳnh, Hoàng Xuân Sính và Trần Văn Hạo.

Ông có kế hoạch đưa những người này sang đào tạo bên Pháp. Sau này chỉ có Hoàng Xuân Sính sang Paris làm luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của ông. Tham gia hội đồng bảo vệ luận án có đến ba người được giải Fields là Grothendieck, Schwartz và Pierre Deligne. Có lẽ chưa bao giờ có một hội đồng bảo vệ luận án nổi tiếng như vậy. Ông Grothendieck là thầy (hướng dẫn luận án tiến sĩ) của ông Luc Illusie, ông này lại là thầy của Gerard Laumon là thầy của Ngô Bảo Châu. Như vậy Grothendieck - Ngô Bảo Châu - GS Lê Văn Thiêm - GS Hoàng Xuân Sính có họ hàng về mặt toán học.

Còn ông Smale được coi là một nhà bác học trong toán học vì ông quan tâm nghiên cứu nhiều chuyên ngành toán học khác nhau, và ở chuyên ngành nào ông đều đạt được những kết quả xuất sắc. Những năm 1960, ông là lãnh tụ phong trào trí thức chống chiến tranh VN ở Mỹ.

Năm 1965 ông tổ chức cho sinh viên bãi khóa ở Đại học California và chặn tàu chở lính Mỹ ở Berkeley. Năm 1966 ông tổ chức họp báo chống chiến tranh VN bên thềm Đại hội toán học thế giới khi nhận giải Fields. Vì những hoạt động chống chiến tranh mà ông bị Quỹ khoa học quốc gia Mỹ cắt tiền tài trợ nghiên cứu.

Năm 2004 Viện Toán học mời GS Smale sang VN giảng bài với sự tài trợ của Quỹ giáo dục VN (VEF). Trong buổi nói chuyện với sinh viên tại Đại học Bách khoa Hà Nội, ông đã khóc và xin lỗi về chiến tranh VN. Ông Smale có một học trò người Việt là Hà Quang Minh, hiện làm việc ở Đại học Humboldt Berlin. Laumon, Lafforgue, Ngô Bảo Châu, Ngô Đắc Tuấn...

Đại hội toán học thế giới năm 1970 có hai giải Fields liên quan đến VN. Người thứ nhất là nhà toán học Nhật Heisuke Hironaka. Năm 1968 ông Hironaka dạy về lý thuyết kỳ dị cho các nhà toán học trẻ ở châu Âu. Trong lớp học đó có một sinh viên VN tên là Lê Dũng Tráng mới ở tuổi đôi mươi. Sau này Lê Dũng Tráng trở thành một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về lý thuyết kỳ dị.

GS Lê Dũng Tráng là người đưa Hội Toán học VN gia nhập Liên đoàn Toán học thế giới là tổ chức xét và trao giải Fields. GS Hironaka rất quan tâm đến việc giúp đỡ toán học VN. Ông là người đã vận động Hội Toán học Nhật thành lập chương trình trao đổi toán học giữa Nhật và VN. Ông đã sang thăm VN một vài lần với tư cách cá nhân.

 Năm 1977 ông công bố một công trình toán học nổi tiếng của mình trong tạp chí Acta Mathematica Vietnamica của Viện Toán, được trích dẫn rất nhiều. Người thứ hai là nhà toán học Nga Sergey Novikov. Ông Novikov là thầy của Lê Tự Quốc Thắng, huy chương vàng Olympic toán quốc tế năm 1982. Hiện nay Lê Tự Quốc Thắng là một chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Tôpô chiều thấp.

Còn hai người đoạt giải Fields nữa đã sang làm việc ở VN. Người thứ nhất là nhà toán học Mỹ David Mumford được giải Fields năm 1974. Ông này đã làm báo cáo mời tại Hội nghị toán quốc tế do Viện Toán phối hợp với Đại học Quy Nhơn tổ chức năm 2005. Người thứ hai là nhà toán học New Zealand Vaughan Jones, được giải Fields năm 1990. Ông này đã làm báo cáo mời tại Hội nghị quốc tế về Tôpô lượng tử do Viện Toán tổ chức năm 2007, và công bố một công trình của mình trong tạp chí Acta Mathematica Vietnamica của Viện Toán.

Năm 1978 có nhà toán học Pháp Pierre Deligne được giải Fields. Ông Deligne là học trò của ông Grothendieck và là thầy của GS Lê Dũng Tráng (đồng hướng dẫn). Ông từng là thành viên hội đồng bảo vệ của GS Hoàng Xuân Sính. Do GS Hoàng Xuân Sính cũng là học trò của ông Grothendieck nên có thể coi GS Hoàng Xuân Sính là em và Ngô Bảo Châu là “cháu họ” của GS Deligne về mặt toán học.

Đặc biệt hơn, bạn cùng thầy của Ngô Bảo Châu là Laurent Lafforgue cũng được giải Fields năm 2002. Học trò đầu tiên của Lafforgue là Ngô Đắc Tuấn, người từng đoạt huy chương vàng hai lần thi Olympic toán quốc tế năm 1995 và 1996. Hiện nay Ngô Đắc Tuấn đang làm việc tại Đại học Paris 13.

Gần đây nhất có Terence Tao là nhà toán học Úc được giải Fields năm 2006 cũng có liên quan đến VN. Tao có mối quan hệ cộng tác thân thiết với Vũ Hà Văn, hiện là một chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực tổ hợp. Họ đã viết chung 15 công trình và một cuốn sách chuyên khảo. Ngoài ra, Tao có cùng thầy với Dương Hồng Phong, cũng là một nhà toán học VN hàng đầu ở Mỹ. Hiện nay, Tao có một nghiên cứu sinh người Việt là Lê Thái Hoàng, huy chương vàng Olympic toán quốc tế năm 1999. Với những người trẻ tuổi như Ngô Đắc Tuấn và Lê Thái Hoàng, biết đâu toán học VN tiếp tục nồng đượm với giải Fields...

 

2/ Ngô Bảo Châu - sản phẩm đặc biệt của A0 - Vũ Công Lập

TT - Ngày mai 19-8, chúng ta sẽ cùng hướng về Hyderabad (Ấn Độ) để hi vọng một sự kiện có ý nghĩa lịch sử, trong một ngày lịch sử: giáo sư Ngô Bảo Châu và giải thưởng Fields.

Để ghi nhận sự kiện trọng đại này, Tuổi Trẻ đã cử hai PV đến Hyderabad và nhận được sự cộng tác của các giáo sư Ngô Việt Trung, Lê Tuấn Hoa, Hoàng Văn Phú (Viện Toán học), Nguyễn Văn Liễn (Viện Vật lý) cùng TSKH Vũ Công Lập.

 

Ngô Bảo Châu khi còn là học sinh lớp A0 (cách gọi vui vẻ lớp chuyên toán) cách đây hơn 20 năm - Ảnh: tư liệu - Nguyễn Á

 

Gần đây chúng ta nghe và nói nhiều đến giải Fields, được mệnh danh là Nobel toán học. Dần dần Fields cũng trở nên quen thuộc. Fields quen thuộc là nhờ có giáo sư Ngô Bảo Châu, một nhà toán học trẻ Việt Nam trở thành “một người dẫn đầu trên đỉnh cao của nền toán học thế giới”, như người thầy của anh, giáo sư G. Laumon (Pháp) đã nhận định.

 

Giáo sư Ngô Bảo Châu tại Đại học Chicago (Mỹ) năm 2001 - Ảnh tư liệu

 

Ước mơ Fields từ Grothendieck

Ngày đi học ở Trường đại học Tổng hợp, lứa chúng tôi vốn có lòng kính phục sâu nặng đối với các thầy dạy toán. Lúc đó thầy Lê Văn Thiêm là hiệu phó, thầy Hoàng Tụy là chủ nhiệm khoa toán, còn các thầy Hoàng Hữu Đường, Nguyễn Bác Văn, Nguyễn Thừa Hợp, Phan Đức Chính... đứng đầu các bộ môn khác nhau.

Ngày ấy chưa phong giáo sư, nhưng bao giờ cánh học trò chúng tôi cũng bàn tán rôm rả về các thầy với lòng thán phục về tài năng, và biết bao câu chuyện mang màu sắc huyền thoại. Ngay cả sinh viên các khoa khác, đặc biệt là khoa lý, cũng hướng về những huyền thoại toán học ấy.

Với sự giúp đỡ của tiến sĩ khoa học Vũ Công Lập, các giáo sư Ngô Việt Trung, Lê Tuấn Hoa, Hoàng Văn Phú (Viện Toán học) và Nguyễn Văn Liễn (Viện Vật lý) sẽ đồng hành cùng Tuổi Trẻ trong việc tuyên truyền về sự kiện Ngô Bảo Châu với giải Fields.

 

Còn nhớ ngày bộ trưởng Tạ Quang Bửu đưa giáo sư Grothendieck lên thăm Trường Tổng hợp, cỡ năm 1965-1966, khi trường sơ tán ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên. Sinh viên đứng chen nhau bên những hàng tre, ngóng nhìn từ xa dáng hình và bước chân của những nhà khoa học lớn.

Sau này mới biết “vào những năm 1958-1970, phòng làm việc của Grothendieck là trung tâm của thế giới toán học” (lời của L. Lafforgue, Giải Fields năm 2002, cùng là học trò của G.Laumon như Ngô Bảo Châu). Chứ còn ngày bom đạn ấy, chỉ mới nghe rằng ông giáo sư người Pháp này giỏi lắm, vĩ đại lắm, nhưng ông vẫn vui vẻ ở trong một gia đình nông dân bình thường, dùng nước giếng và giặt quần áo phơi lên sào tre.

Từ ngày đó, với những người đặc biệt như cố giáo sư Tạ Quang Bửu đã có ước mơ về giải Fields trong tương lai cho VN...

Với người đi học, toán học là một bộ môn đặc biệt dù thoạt đầu có vẻ chỉ là một môn như nhiều môn khác. Vì môn toán đặc biệt nên người làm toán cũng khác thường. Và cũng thật lạ, có hẳn một Liên đoàn Toán học thế giới (IMU - International Mathematical Union) để người làm toán có một không gian riêng cho công việc và những trao đổi của họ. Bạn thử nghĩ mà xem làm gì có Liên đoàn vật lý (hay hóa học) thế giới?

Cứ mỗi bốn năm một lần, IMU lại tổ chức đại hội toán học thế giới (ICM - International Congress of Mathematicians), để trong phiên khai mạc đại hội, giải thưởng Fields sẽ được trao tặng. Vào sáng mai, 19-8-2010, phiên khai mạc sẽ diễn ra từ 9g30-12g30 (giờ Ấn Độ), nghĩa là từ 11g-14g (giờ Việt Nam).

Ở thời điểm ấy, chúng ta hãy mở tivi (VTV) để xem GS Ngô Bảo Châu, nhà toán học Việt Nam 38 tuổi, bước lên diễn đàn trang trọng nhất ở Hyderabad.

Chúng ta có thể biết gì về anh? Giáo sư Lê Tuấn Hoa - chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, một trong 65 thành viên của IMU - tâm sự: ”Về hiện tượng Ngô Bảo Châu, chúng ta chỉ có thể có một tiệm cận nào đó mà thôi”.

Những người thầy đầu tiên

Bây giờ, có lẽ ít ai biết đến lịch sử của ký hiệu A0. Đấy là thời sơ tán chống Mỹ. Bảo mật là một nguyên tắc chủ yếu. Nếu bạn đi tìm người thân ở nơi sơ tán, bạn sẽ phải khóc mà bỏ về. Hỏi tên: không biết. Hỏi lớp: không biết. Hỏi quê: không biết...

 Người ta không gọi sinh viên các ngành là toán, lý hay sinh... Các lớp toán chuyển thành A1, A2, A3, A4 (theo thứ tự từ năm thứ nhất đến năm 4). Các lớp lý tương tự: B1, B2, B3, B4... Còn hóa là C, sinh là D... Khi lớp toán năng khiếu xuất hiện, gọi là toán đặc biệt, đặt là A0.

Những năm gian khó ấy ngành toán Việt Nam đã đón tiếp Laurant Schwartz, Alexander Grothendieck, ít năm sau là Friedrich Phạm, Lê Dũng Tráng, những nhà toán học Việt Nam ở nước ngoài đã đóng góp nhiều công sức cho toán học Việt Nam.

Và cũng thật đáng ngạc nhiên và khâm phục, dưới những mái nhà tranh sơ sài, bên ngọn đèn dầu leo lét, một thế hệ mới các nhà toán học Việt Nam đã hình thành.

Gần như cùng lúc đó, các trường sư phạm cũng mở các lớp chuyên toán, ở cả Hà Nội lẫn thành phố Vinh, tạo ra một không khí học tập thật sôi nổi. Không thể nhớ và kể hết, nhưng trong lứa này có GS Đào Trọng Thi, GS Lê Tuấn Hoa... Ngày ấy thầy Phan Đức Chính, vừa tốt nghiệp phó tiến sĩ ở Liên Xô trở về, được cử sang chuyên phụ trách lớp A0.

Đây lại thêm một bằng chứng cho tầm nhìn chiến lược của giáo sư Tạ Quang Bửu.

Với năng lực nổi trội, việc Ngô Bảo Châu vào A0 (sau này dù đã hòa bình, mọi người vẫn gọi lớp chuyên toán là A0) là một điều gần như đương nhiên.

Điều đáng lưu ý là hầu như anh đồng thời hưởng thụ hai quá trình đào tạo song hành, hiệu quả. Một, là quá trình diễn ra trong nhà trường, trên bục giảng, như với bất cứ một học sinh nào khác. Và phải khẳng định đây là những giáo trình tốt, những thầy giáo giỏi. Và hai, là quá trình học thêm theo một hướng khác, có ý nghĩa bổ sung, phát triển, khiến Ngô Bảo Châu trở thành khác biệt.

Giáo sư Lê Tuấn Hoa kể lại: “Chính anh Ngô Huy Cẩn - bố của Ngô Bảo Châu - lo việc tìm thầy cho con và cũng bàn với thầy về cách dạy”. Bản thân là một nhà khoa học, ông biết cách nuôi dưỡng ước mơ cho con và giúp con thực hiện ước mơ.

Thầy dạy thêm cho Châu ngay từ hồi cấp II là một cán bộ khoa học trẻ, cùng công tác tại Viện Cơ với GS Ngô Huy Cẩn là anh Phạm Ngọc Hùng. Sau anh Hùng đi làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô thì bạn anh Hùng là anh Lê Tuấn Hoa, cũng mới tốt nghiệp ngành tổng hợp toán ở Nga trở về. Sau anh Hoa đến anh Vũ Đình Hòa, tốt nghiệp toán đại học và sau đại học tại Đức.

Anh Hoa và anh Hòa đều là lứa học sinh chuẩn bị tham gia giải toán Olympic thế giới đầu tiên, vào năm 1974, nghĩa là ngay từ khi nước nhà còn trong cảnh thiếu thốn của chiến tranh.

Các thầy dạy thêm cho Châu đều là những cán bộ rất trẻ. Chưa ai có vợ, thậm chí còn chưa có cả người yêu. Họ dành tất cả thời gian và tâm huyết cho học trò. Chính bản thân họ cũng đang ở đoạn đầu trên bước đường chinh phục đỉnh cao và mang trong người cái hơi hướng của toán học hiện đại.

Trong họ đã có sẵn sự chín muồi của kỹ năng, nhưng quan trọng hơn cả là họ mang đến cho học trò mình những nhận thức đầu tiên về phương pháp, không chỉ biết cặm cụi trên những trang sách trước mắt, mà biết ngẩng lên để nhìn xa hơn về phía chân trời.

Ngày ấy, tình thầy trò mà như anh em, chuyện học hành cũng chẳng cách xa một cuộc chơi là mấy. Bây giờ, Lê Tuấn Hoa nhớ lại: ”Anh Cẩn, chị Hiền lo lắng cho chúng tôi cũng nhiều lắm. Và thường thì áy náy không biết trả công cho thầy như thế nào. Chúng tôi cũng hay đùa: Dạy cho em là có dịp ăn một bữa cơm no và ngon, thế là quý lắm rồi”.

Có lẽ đây là một cách quan trọng để Ngô Bảo Châu có thể nối bước từ hai huy chương vàng Olympic (1988-1989) đến những đỉnh cao toán học thật sự. Những đỉnh non cao vời vợi.

Vũ Công Lập

 

3/  Đôi cánh gia đình

TT - Trong “Trò chuyện với nhà toán học Ngô Bảo Châu”, một bài phỏng vấn khá thành công của nhà văn Phan Việt, ngay từ những dòng đầu ta đã thấy tác giả mô tả “mái tóc đã bạc nhiều” của GS Ngô Bảo Châu.

 

GS Ngô Bảo Châu và bố là GS Ngô Huy Cẩn

 

Nhưng người thấy hết lớp tóc bạc của Ngô Bảo Châu chính là PGS.TS Trần Lưu Vân Hiền, mẹ anh. Bà nói:”Cứ thấy tóc nó bạc dần mà sốt cả ruột”. “Làm toán vất vả quá phải không chị?”. “Vâng - rồi bà cười lấp đi - nhưng có lẽ do di truyền nữa. Bố cháu cũng bạc tóc sớm”. Ngô Bảo Châu có nét mặt giống mẹ nhưng dáng người giống cha, GS.TSKH Ngô Huy Cẩn, một trong những nhà cơ học hàng đầu của VN.

Bà mẹ luôn đổi mới vì con trai

Con trai còn giống mẹ ở một điểm khác: cả hai đều là học sinh Trường Trưng Vương, Hà Nội. Đấy là một gia đình Hà Nội. Bây giờ, sau chợ Châu Long vẫn còn ngôi lăng dành để tưởng nhớ cụ tổ Trần Lưu Công Huân. Cụ của bà Vân Hiền là Trần Lưu Huệ, sau được công nhận là một danh nhân văn hóa Huế.

Trần Lưu Vân Hiền là một nữ sinh Hà Nội, thuộc đội tuyển học sinh giỏi văn của thủ đô những năm 1963-1964, rồi chị trở thành một cán bộ mang dáng dấp Hà Nội. Nếu nhìn bức ảnh chụp cùng con trai kế bên thì bạn sẽ tin vào điều đó. Nhưng điều đáng ngạc nhiên chính là con đường học vấn của chị. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa ngành hóa nhưng bà Vân Hiền lại là tiến sĩ dược học, với đề tài liên quan đến khả năng nâng cao hoạt tính miễn dịch của cơ thể dưới ảnh hưởng của các loài cây thuốc VN.

Tuy nhiên nếu nói chuyện với bà Hiền hôm nay bạn sẽ tin rằng bà chính là một nhà toán học. Bà nói rõ tất cả mọi chuyện, từ chương trình Langlands đến bổ đề cơ bản, kể cả bổ đề Jacquet, bà kể chuyện ăn cơm và đi nghỉ với gia đình Laumon, nói chuyện về giải thưởng của Lafforgue... Phàm bất cứ lĩnh vực nào Ngô Bảo Châu đã đặt chân qua thì mẹ Trần Lưu Vân Hiền cũng có mặt. Bà mẹ ấy đã sinh ra, nuôi dưỡng đứa con trai và để mãi mãi ở bên con, bà cũng luôn đổi mới chính bản thân mình.

Cứ mỗi bận có con anh lại gửi con về cho ông bà trông. Khôn lớn một chút, cháu lại rời ông bà sang ở với bố mẹ, Bà nội cứ lúc bận lúc rỗi, lúc vui lúc buồn. Và càng thế lại càng thương con cháu.

Bà kể một chuyện vui: ”Cháu tôi nó ngồi dưới gầm bàn ấy. Đầu cúi xuống, khuỷu tay tì lên đầu gối, bàn tay chống lên cằm. Hỏi: Ngồi làm gì thế con. Trả lời: Cháu đang làm toán”. Rồi sau này có thay đổi, nó tay vòng ôm lên vai, bàn tay sờ sờ dưới cằm: làm toán kiểu nhổ râu. Chắc lúc này GS Ngô Bảo Châu đã sang giai đoạn mọc râu và bạc đầu. Điều này rất phù hợp với phong cách làm toán của Ngô Bảo Châu: anh thường làm toán mà không cần giấy, chỉ khi nghĩ xong mới lấy giấy ra để chép lại. Sự chép lại ấy cũng vô cùng vất vả.

Ôi chao, một gia đình đến là lắm chuyện vui nhưng không lẫn vào đâu được.

 

Bà Trần Lưu Vân Hiền và con trai Ngô Bảo Châu năm 1972

 

Một gia đình khoa học

GS Ngô Huy Cẩn học đại học, có bằng tiến sĩ rồi tiến sĩ khoa học đều ở Nga. Năm 1972, trong thời khắc gay go nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ, ông gia nhập quân đội, và nói vui “Tôi là lính 5 đồng”, tức những chiến sĩ thực thụ, tham gia những cuộc chiến vào sinh ra tử. Sau quân đội điều TS Cẩn về Viện Vũ khí, rồi tham gia biên soạn tài liệu để thành lập Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga. Ông rời quân ngũ với quân hàm trung tá.

Cho dù chặng đường ấy đã để lại nhiều dấu ấn, về cơ bản GS Ngô Huy Cẩn vẫn là một trong những chuyên gia hàng đầu ở Viện Cơ học, thuộc Viện Khoa học và công nghệ VN.

Có thể nói Ngô Bảo Châu sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa học. Bác họ Ngô Bảo Châu là nhà toán học Ngô Thúc Lanh. Với nhiều sinh viên toán lý bậc đại học, “Đại số tuyến tính” của Ngô Thúc Lanh là một trong những cuốn sách hàng đầu. GS Ngô Việt Trung nói rằng đó là một trong hai cuốn sách mà ông mang theo sang tận Đức và vẫn giữ mãi tới hôm nay.

GS Lê Tuấn Hoa là người đã dạy Châu từ ngày học phổ thông, hiện nay vẫn là người bạn thân thiết và tin cậy của gia đình. GS Hoa cho rằng bố Cẩn chính là linh hồn phát triển toán học cho Ngô Bảo Châu. Ông luôn tạo cho Châu một niềm khát vọng, một động lực mãnh liệt để vươn tới, nhưng ông không gây cho con bất cứ áp lực nào.

Áp lực ấy bản thân người cha gánh chịu hết thảy bằng cách chọn trường, chọn thầy cho con, bằng cách ông luôn là người tìm ra giải pháp tổng thể trong từng giai đoạn. Để cuối cùng bao giờ Châu cũng hồn nhiên học, hồn nhiên sống, với chỉ một niềm vui duy nhất là tìm tòi và khám phá.

GS Lê Tuấn Hoa nhớ lại GS Ngô Huy Cẩn luôn ở bên con trong bất cứ trường hợp nào. Khi Châu vào lớp chuyên toán, bố Cẩn đã nghĩ đến giải Olympic. Khi Châu sang Pháp, GS Cẩn đã nghĩ đến giải Fields. Ngay cả khi GS Ngô Bảo Châu đã nhận giải Clay, là một giải to lắm rồi, ông Ngô Huy Cẩn vẫn quyết tâm không dừng lại.

Bây giờ nhớ lại, thời điểm GS Ngô Huy Cẩn nhớ nhất là lúc Ngô Bảo Châu làm luận án tiến sĩ ở Pháp: “Hơn hai năm, không tạo ra bất cứ đột phá nào. Đã có lúc tưởng phải thu xếp những kết quả dọc đường để làm ra luận án. Nhưng may quá, mọi sự đã kết thúc tốt đẹp”. Còn trên blog của mình, Ngô Bảo Châu khẳng định: ”Làm PhD (tiến sĩ) nhanh chưa chắc đã hay. Đây là khoảng thời gian rất quý để bạn tìm ra con đường riêng của mình trong toán học”.

TSKH VŨ CÔNG LẬP

 

4/ Ngô Bảo Châu và duyên kỳ ngộ với Pháp

TT - Cũng rất tự nhiên, học sinh như Ngô Bảo Châu sẽ được chọn đi học ở nước ngoài. Mà học toán lúc bấy giờ tốt nhất là đi Liên Xô. Nhưng không may Liên Xô lúc ấy đang tan rã nên Ngô Bảo Châu chuẩn bị ngoại ngữ để đi học ở Hungary, một nước cũng có nền toán học mạnh, đã đào tạo cho Việt Nam khá nhiều tài năng.

Chủ tịch IMU nhiệm kỳ 2007-2010 là Laszlo Lovasz (Hungary), người từng đoạt 4 HCV Olympic. Nhưng hình như lúc này GS Ngô Huy Cẩn - bố Châu - vẫn chưa yên tâm.

 

Vợ chồng giáo sư G. Laumon tại tiệc chiêu đãi tối 19-8 do Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ tổ chức mừng sự kiện giáo sư Ngô Bảo Châu đoạt giải Fields - Ảnh: Hoài Linh - Tuổi Trẻ
 

 

”Quới nhân” Paul Germain

Lúc ấy, ông Paul Germain, tổng thư ký vĩnh viễn của Viện Hàn lâm khoa học Pháp, sang thăm Việt Nam theo lời mời của GS Đặng Hữu, chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước. Vào ngày nghỉ, GS Nguyễn Văn Điệp, phó viện trưởng Viện Cơ học, mời vị khách quý người Pháp đi thăm Hạ Long theo sự ủy thác của GS viện sĩ Nguyễn Văn Đạo, viện trưởng Viện Cơ học. GS Ngô Huy Cẩn đi cùng. Và Châu cũng có mặt, theo cái lý trước lúc đi du học cứ con đâu là bố đấy.

Trong câu chuyện trên xe, tình cờ GS Germain hỏi thăm rất kỹ về chú bé duy nhất có mặt. Rất nhanh, ông đưa ra một đề nghị: ”Xin các bạn chờ cho một chút, tôi sẽ cố thu xếp một học bổng của Pháp cho cháu”. Chỉ hai tuần sau tin vui đến từ Paris: Châu được nhận học bổng sang học toán ở Pháp. Còn gì cho bằng, cái nôi toán học vĩ đại ở nước Pháp. Cả hai người bạn lớn của toán học Việt Nam là L.Schwartz và A. Grothendieck đều là những người Pháp từng đoạt giải Fields.

Sang Pháp học toán, đó có lẽ là điều kỳ diệu nhất. Chúng ta muốn sang Pháp học và các bạn Pháp cũng muốn đón nhiều tài năng về Pháp để đào tạo. Bởi vì chính những tài năng trẻ tuổi đó sau này biết đâu lại vinh danh cho nước Pháp. Có thể nói đây là một bước ngoặt cực kỳ quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của GS Ngô Bảo Châu.

Còn một câu chuyện nhỏ nữa về việc Châu đi học ở Pháp. Tất nhiên học sinh nào cũng phải trải qua kỳ thi ngoại ngữ. Bà Trần Lưu Vân Hiền kể lại:”Ông ngoại dạy cháu học có hai tháng. Sau các thầy bên đài phát thanh giúp thêm. Nhưng thời gian ngắn quá. Đến khi đi thi, bài đầu là đọc - hiểu Châu bảo chỉ biết khoảng hơn 10 từ.

Châu nói với giám thị: Em biết ít từ quá, nhưng em hiểu câu chuyện này, đó là câu chuyện Người đi xuyên tường và em đã đọc bản dịch tiếng Việt. Giám thị khuyên: Vậy thì em cố viết lại, được nhiều chừng nào hay chừng ấy. Đến bài thi nói cũng tàm tạm, khá hơn”. Nghe mà thấy hồi hộp: “Rồi sự việc kết thúc thế nào hả chị?”. Bà Hiền kết thúc nhẹ nhàng bằng một giọng rất Hà Nội: ”Bên Pháp họ cho đỗ. Họ bảo với những học sinh thông minh như thế này, chỉ sang bên ấy vài tháng là giỏi tiếng Pháp. Ngôn ngữ quyết không thể là rào cản cho những tài năng”. Người Pháp có cách chọn học sinh của riêng họ, và họ nhìn khá xa.

Bây giờ là lúc Châu bước vào một chặng đường hoàn toàn mới.

”Người khổng lồ” Gerard Laumon

Giáo sư G. Laumon là một nhà toán học đặc biệt. Ông thuộc dòng toán học Pháp nổi tiếng, có nguồn gốc từ L.Schwartz, A. Grothendieck và là thầy dạy trực tiếp của hai học trò đoạt giải Fields: L.Lafforgue (2002) và Ngô Bảo Châu (2010). Tên tuổi GS Laumon mãi mãi gắn bó với những thành tựu toán học đặc sắc nhất của GS Ngô Bảo Châu.

GS Laumon kể: “Tôi nhớ mãi buổi trình bày rực rỡ bản luận văn thạc sĩ của Ngô Bảo Châu năm 1993. Vào thời gian này tôi thật sự không có một đề tài luận văn tốt và tôi hết sức lưỡng lự khi nhận một nghiên cứu sinh mới làm luận án tiến sĩ. Nhưng ông Michel Broue, người chịu trách nhiệm về toán ở Trường Ecole Normale Supérieure, có ấn tượng rất tốt về Ngô Bảo Châu và ra sức thuyết phục tôi nhận anh làm nghiên cứu sinh tiến sĩ...”. Về sau, giữa gia đình GS Laumon và gia đình GS Ngô Bảo Châu đã nảy sinh mối quan hệ hết sức thân tình.

GS Ngô Việt Trung và GS Lê Tuấn Hoa có cùng quan điểm: ”Quan trọng hơn cả là Ngô Bảo Châu đã theo học GS G.Laumon, một giáo sư còn trẻ nhưng đầy ý tưởng táo bạo nhằm giải quyết những vấn đề khó nhất của toán học. Có thể nói Ngô Bảo Châu đã đứng trên vai của một người khổng lồ để đạt được những đỉnh cao mới”. Người làm toán bao giờ cũng cần những đề hay, với người giỏi bài hay là bài khó nhất.

Thông thường, đi làm luận án tiến sĩ ở nước ngoài chúng ta hay đi vào những con đường an toàn đã định sẵn, nhờ vào những thầy giáo đã nhiều thành công và làm việc theo một nhánh trong những hướng của thầy. Ngô Bảo Châu làm khác hẳn.

Thầy Laumon đã chỉ ra một hướng, còn tự anh phải vạch ra một con đường, để rồi chính anh lại chỉ ra một hướng mới, có khi còn bao la, rộng lớn hơn nữa. Chính vì chọn một chiến lược như thế mà cả hai thầy trò Laumon - Ngô Bảo Châu đã có những lúc rất khó khăn. Nhưng rồi sau này nhìn lại, năm tháng khó khăn ấy chính là dịp tích lũy kiến thức, trui rèn ý chí để đi tới giải Fields.

GS Ngô Việt Trung tâm sự: ”Có thể một số tài năng sau này thực tế hơn, chọn những con đường dễ đi hơn” và điều đó sẽ cản trở những thành tựu lớn. Nếu hài lòng với “tốt” thì không thể trở nên “vĩ đại”.

 

 

Châu và mẹ cùng ông ngoại Trần Lưu Hân

Gửi thơ khóc ông ngoại

Trong gia đình, Ngô Bảo Châu thân thiết nhất với ông ngoại Trần Lưu Hân. Ông cũng chính là người đã dạy Châu học tiếng Pháp cấp tốc để tham dự cuộc sát hạch nhận học bổng. Ông Trần Lưu Hân là bộ đội, về tiếp quản thủ đô năm 1954, sau học hàm thụ Bách khoa khóa 1, là một nhà kỹ thuật ưu tú về vô tuyến, viết sách và gắn bó với những cuốn truyện ngày nào chúng ta mê đắm: Mít Đặc và Biết Tuốt. Ông ngoại là người hay đưa Châu đi thi, với lòng tin luôn được khẳng định là có ông đưa đi kết quả bao giờ cũng tốt.

Năm 2000 ông ngoại mất. Trước đó Châu đã kịp về ở Việt Nam chăm sóc ông một tháng, cứ bốn ngày lại vào ở với ông một ngày, rồi vào thăm ông bất cứ lúc nào có dịp. Nhưng khi ông mất anh lại không về được. Bà Vân Hiền kể: “Châu gửi về viếng ông bằng một bài thơ. Đó là bài Tống biệt hành của Thâm Tâm. Thâm Tâm là cha đẻ của một học sinh Trường Trưng Vương, bạn Nguyễn Tuấn Khoa, người đoạt giải nhất cuộc thi toán học sinh giỏi Hà Nội năm 1964. Có lẽ Châu là người sành thơ lắm, anh nhớ ông:

Đưa người ta không đưa qua sông/Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng/Nắng chiều không thắm không vàng vọt/Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.

Nếu bạn vào thăm blog của Ngô Bảo Châu (Thích học toán) bạn còn thấy anh thật sự là một người sáng tác thơ và đối đáp bằng thơ.

 

5/ Những điều thú vị về Ngô Bảo Châu

TT - Trong giờ phút này có lẽ với những người Việt Nam, mọi câu chuyện về GS Ngô Bảo Châu đều được đón chờ. Và có lẽ nói bao nhiêu cũng là quá ít về con người Ngô Bảo Châu. Trong chừng mực của mình, tôi xin góp nhặt đôi ba câu chuyện thú vị...

1. PGS Trần Lưu Vân Hiền và GS Ngô Huy Cẩn đều nhớ lại sự nhanh nhẹn (trong suy nghĩ) và sự kiên trì của Châu từ những ngày còn bé, khi học Trường Thực nghiệm và Trường Trưng Vương. Ngày ấy, thầy giáo dạy toán Tôn Thân chỉ chấm bài cho năm người mang lên bục giảng bài giải của mình. Châu luôn là một trong năm người đó. Sau trong lớp đổi chỗ học, Châu phải vào ngồi sát tường, nhưng anh vẫn “phi” bài giảng lên cho thầy sớm nhất. Bây giờ bà Hiền kể lại chuyện này mà vẫn bật cười.

Bà Trần Lưu Vân Hiền kể lại: ”Một người đã giúp đỡ Châu nhiều là ông Henry Rogermortier, nguyên giám đốc Đài Thiên văn Paris và lúc đó là chủ tịch Hội Pháp - Việt về khoa học - kỹ thuật. Ông Rogermortier có một ngôi nhà, tầng trệt ông để Ngô Bảo Châu ở.

Trên lầu một là hai học sinh Campuchia có bố mẹ bị bọn diệt chủng Pol Pot sát hại. Khi ông Rogermortier mất đi, trong di chúc để lại ông có dặn cứ để cho Châu cùng các bạn ở mãi đến khi nào không có nhu cầu nữa thì thôi. Nếu bạn từng đi du học nước ngoài, bạn sẽ thấy sự giúp đỡ này là đáng quý như thế nào. Nó góp phần tạo ra môi trường học tập hoàn hảo, tạo ra một nhà toán học lớn.

2. Có khá nhiều bài viết về những năm sau này của GS Ngô Bảo Châu. Anh đã sang Mỹ làm việc nhiều năm (Viện Nghiên cứu cấp cao - Institute for Advanced Study ở Princeton) và từ ngày 1-9-2010 anh sẽ là giáo sư tại Đại học Chicago, nhưng giai đoạn ở Pháp là giai đoạn đặc biệt nhất. Có điều không có nhiều lắm tư liệu về quá trình học tập của Ngô Bảo Châu ở Pháp và nhà toán học của chúng ta lại ít kể về mình. Chúng ta biết anh học ở Đại học Paris 6 và Đại học Ecole Normale Supérieure, những đại học danh giá bậc nhất của nước Pháp.

Bản thân GS Ngô Bảo Châu coi quá trình học toán của mình là một cái gì đó hết sức tự nhiên. Anh cũng không cho rằng phải định hướng nghề nghiệp quá sớm cho con trẻ. Trong bài trả lời phỏng vấn của Phan Việt, Ngô Bảo Châu có kể lại câu chuyện về chính Langlands, một trong những nhà toán học có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế kỷ 20-21 (Ngô Bảo Châu đoạt giải thưởng Fields nhờ chứng minh được bổ đề cơ bản trong chương trình Langlands).

Xin chép ra đoạn văn thú vị này: “Ông ấy học toán cũng tình cờ. Bố ông ấy là tiều phu. Ông ấy không đi học trường trung học hay đại học nổi tiếng nào cả, đào tạo cơ bản của ông ấy thật ra cũng bình thường. Nhưng khi ông ấy đi học đại học bên Canada thì học cũng được, thế là thầy giáo của ông ấy bảo ông ấy đi làm PhD (tiến sĩ). Ông ấy hỏi PhD là cái gì. Sau thì ông ấy ừ vì bây giờ đi học có học bổng mà được lấy vợ sớm nữa thì cũng thích, thế là đi làm PhD”.

3. Ngô Bảo Châu cũng tâm sự rằng lúc nghĩ về huy chương vàng Olympic thì thấy nó lớn lao, vĩ đại lắm, nhưng khi thật sự nhận được giải rồi thì thấy nó cũng... thường. Một trong những nét đặc biệt ở Ngô Bảo Châu là anh sống, học toán, làm toán và nhận những giải thưởng cao quý nhất về toán một cách tự nhiên, cứ như một việc bình thường.

Thế mới biết sự chuẩn bị của gia đình cho anh thật chu đáo: không hề tạo ra áp lực, không hề gây ra sự căng thẳng, chán chường hay mệt mỏi. Mà thật ra đấy là sự chuẩn bị công phu, nghiêm túc, phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Ngô Bảo Châu, cả ở gia đình lẫn trong xã hội. Mỗi người cần phải biết đi đúng con đường dành riêng cho mình.

Những thành tựu sau này của GS Ngô Bảo Châu thì tất cả chúng ta đều đã biết. Chỉ xin ghi ra ở đây để chúng ta có một cái nhìn hệ thống, theo giới thiệu của GS Lê Tuấn Hoa: Giải thưởng Clay (cùng GS Laumon) - 2004, Giải thưởng Oberwolfach, Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp 2007, một trong 10 phát minh khoa học tiêu biểu (Time bình chọn) - 2009, Giải Fields - 2010. Một thống kê đủ nói lên tất cả.

Chỉ xin thêm một chút: GS Ngô Bảo Châu có cả giải thưởng của toàn thế giới (IMU), lại có đủ giải thưởng của các nền toán học vĩ đại nhất (Pháp, Mỹ, Đức). Ngày còn cắp sách đến trường, ta thường mơ và tưởng tượng đến những cây đại thụ trong khoa học. Bây giờ một nhân vật vĩ đại như thế đã lại ở ngay trong ngôi nhà của chúng ta.

4. Nhà văn Phan Việt hỏi: ”Với toán, điều lo lắng nhất là gì?”. GS Ngô Bảo Châu trả lời: ”Toán học thì khó nhất chính là làm được lâu, tức giữ được sự đam mê lâu”. Hi vọng sự đam mê từ Giải Fields Ngô Bảo Châu sẽ lan sang nhiều thế hệ, nhiều lĩnh vực khoa học của Việt Nam chúng ta.

Khi được hỏi ấn tượng lớn nhất về con người Ngô Bảo Châu, GS Ngô Việt Trung nói: ”...Là lòng nhiệt huyết của anh đối với đất nước. Mỗi lần về nước anh đều thảo luận với chúng tôi làm thế nào để đẩy toán học Việt Nam đi lên. Với uy tín của mình, anh đã đi gặp các cấp lãnh đạo, kiến nghị một số biện pháp nhằm cải thiện tình hình đào tạo cán bộ trẻ cho toán học. Lần nào về anh cũng tham gia công tác giảng dạy ở Viện Toán, nói chuyện với sinh viên các trường đại học hay báo cáo kết quả nghiên cứu. Ngoài toán học, anh Châu còn quan tâm đến âm nhạc, văn học và nghệ thuật. Có thể nói anh là một con người toàn diện”.

Với bất cứ ai trong chúng ta, có thể nói rằng GS Ngô Bảo Châu là một con người gần gũi. Một bạn đọc thắc mắc về phép quy nạp trong logic và mong anh Châu, trong tư cách hòa thượng ở “Thích học toán”, “làm một bài về món cháo quy nạp cho bọn em xơi”, anh Ngô Bảo Châu đã trả lời thế này:

Logic bần đạo không rành
Cháo chay quy nạp lại thành cháo khê
Xơi vào lại hóa cháo mê
Quy đi nạp lại biết về nơi nao.

Cũng trong blog “Thích học toán”, anh mở hẳn mục “Tơ lòng” để gỡ rối cho những ai còn nhiều băn khoăn, mắc mứu, theo kiểu chị Thanh Tâm ngày xưa ở báo Phụ Nữ. Một bạn đọc là chị Sosana, có con ghét học toán, đã trình bày nhiều suy nghĩ trong việc học toán khó khăn, anh Châu đã trả lời rất dài và rất chu đáo.

Cuối hai bài trả lời, anh viết thế này:

Ở bài 1- “Tôi nghĩ chị cũng đồng ý với tôi là cuộc sống có nhiều ngả, cho cả người ghét và người thích học toán”, còn sang

bài 2- “Đây là ý kiến của tôi, có gì không phải xin chị đừng ngại dạy bảo”. Trích ra những dòng trên là muốn mời bạn đọc có gì cần, có gì muốn nên vào “Thích học toán”. Chỉ với một yêu cầu: nghiêm túc, không làm mất thời giờ của người khác.

5. Hôm đến thăm nhà, thăm gia đình GS Ngô Bảo Châu, tôi ra về bằng xe ôm. Cậu xe ôm nói: ”Ối giời ơi, mấy hôm nay quay phim chụp ảnh ghê lắm. Cả ông to lắm cũng đến. Nghe nói ông này giỏi toán lắm hả chú?”.”Ừ, ông ấy hiện nay thuộc loại giỏi toán nhất thế giới”. “Thế thì phải giàu ghê gớm chú nhỉ”. Bạn xe ôm ơi, người làm toán chỉ cần không thiếu thốn và ông giỏi toán này chỉ mong ước một cuộc sống trung lưu bình thường. Ông vẫn tiết chế, không dùng cái gì mà ông cho là không cần. Bởi với ông, toán học mới là chúa tể. Hiện kim của Giải Fields năm nay là 15.000 đôla Canada, nhưng ông giỏi toán đang lập ra một cái quỹ để phát triển toán học ở Việt Nam đấy.

TSKH VŨ CÔNG LẬP

 

 

6 / Nhớ người viện trưởng đầu tiên

 Truyền thống của người Việt chúng ta là “uống nước nhớ nguồn”. Sau giây phút hạnh phúc tột cùng với sự kiện GS Ngô Bảo Châu nhận huy chương Fields 2010, không thể không nhớ đến người viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học VN - GS Lê Văn Thiêm, nhân vật được xem là khởi điểm của toán học hiện đại ở VN.

Giáo sư Lê Văn Thiêm sinh ngày 25-3-1918 tại làng Lạc Thiện, xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình trí thức. Năm 1949, đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ông đã từ châu Âu về Việt Nam qua đường Thái Lan. Sau đó ông đi bộ từ Nam bộ ra Việt Bắc, tham gia xây dựng trường đại học đầu tiên ở chiến khu. Cùng các trí thức khác như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa... ông đã xây dựng nền móng cho khoa học Việt Nam. Với sự trợ giúp của GS Hoàng Tụy, ông đã góp phần đưa nền toán học Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 lên một vị trí cao trong khu vực, được cả thế giới biết đến. Tới nay cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trở thành một phần của lịch sử phát triển toán học Việt Nam hiện đại. Tiếc rằng những hiểu biết về cuộc đời của ông vì nhiều lý do khách quan và chủ quan còn chưa đầy đủ.

Nhiều người cho rằng GS Phạm Tỉnh Quát mới là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ tại Paris vào năm 1948. Vậy có thật GS Lê Văn Thiêm là người Việt Nam đầu tiên có học vị tiến sĩ toán học hay không?

Wikipedia bản tiếng Anh [1] viết: Năm 1939, sau khi kết thúc kỳ thi tốt nghiệp một cách xuất sắc, Lê Văn Thiêm được học bổng sang học tại Trường Ecole Normal Superior tại Paris. Việc học tập của ông bị gián đoạn bởi sự bùng nổ Thế chiến II, và chỉ được tiếp tục năm 1941. Ông tốt nghiệp bằng thạc sĩ toán học trong vòng 1 năm, trong khi khóa học thông thường kéo dài 3 năm. Dưới sự hướng dẫn của GS Georges Valiron, ông bảo vệ luận thành công án tiến sĩ tại Đức năm 1945 và sau đó quay lại ĐH Tổng hợp Zurich để làm việc với tư cách giáo sư toán học. Ở đó ông gặp và làm việc với Rolf Nevanlinna một vài năm.

Wikipedia tiếng Việt [2] về Lê Văn Thiêm viết: Ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ toán học ở Đức năm 1944 về giải tích phức, luận án tiến sĩ quốc gia ở Pháp năm 1948 và cũng là người Việt Nam đầu tiên được mời làm giáo sư toán học và cơ học tại Đại học Tổng hợp Zurich, Thụy Sĩ vào năm 1949.

Lời giới thiệu cuốn sách Các công trình tiêu biểu [3] viết: Năm 1941, Lê Văn Thiêm thi đỗ vào Trường Ecole Normal Superior... Tốt nghiệp École Normale Supérieure... Lê Văn Thiêm tiếp tục làm luận án tiến sĩ tại Thụy Sĩ rồi luận án tiến sĩ quốc gia tại Pháp. Ông từng học với những người thầy giỏi nhất thời đấy như Nevanlinna, Teichmüller, Valiron... Nhờ những kết quả xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, năm 1949 Lê Văn Thiêm nhận được một ghế giáo sư tại Trường ĐH Tổng hợp Zurich, Thụy Sĩ.

Ta thấy có một số mâu thuẫn trong các thông tin ở trên. Kết hợp các thông tin này chúng ta chỉ có thể đoán rằng Lê Văn Thiêm đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đức năm 1944-1945. Tuy nhiên cũng không có các bằng chứng xác thực những điều này. Một số câu hỏi được nhiều người quan tâm từ lâu như: Tại sao ông lại sang Đức? Ông có bảo vệ luận án tiến sĩ ở Đức hay không? Ông có phải là học trò của Nevanlinna hay không?... đều chưa có câu trả lời.

Tháng 12-2008, một hội nghị quốc tế về hình học phức đã được tổ chức tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Tại hội nghị đã có nhiều nhà giải tích và hình học phức nước ngoài tham dự, trong đó có hai giáo sư H. Esnault và E. Viehweg đến từ ĐH Tổng hợp Essen, Đức. Khi làm việc với Viện Toán học, họ rất ngạc nhiên và ấn tượng về cuộc đời và sự nghiệp của GS Lê Văn Thiêm.

Sau khi trở về Đức, hai giáo sư Esnault và Viehweg đã sử dụng mọi quan hệ cá nhân cũng như uy tín của mình để tìm hiểu về GS Lê Văn Thiêm trong thời gian tại Đức. Sau nhiều cố gắng liên hệ với thư viện một số trường đại học của Đức, ngày 23-1-2009 họ đã nhận được email từ TS. U. Hunger từ phòng lưu trữ ĐH Tổng hợp Göttingen với nội dung sau: Tôi có thể chứng thực rằng Thiem Le Van (hoặc Le Van Thiem) đã bảo vệ luận án tiến sĩ ở đây (hồ sơ bảo vệ số Math.Nat.Prom. 0728). Tên của luận án là “Về việc xác định kiểu của một diện Riemann mở đơn liên”. Các môn thi nghiên cứu sinh (cùng với tên người chấm thi vấn đáp) bao gồm: giải tích (wittich), đại số (herglotz), toán ứng dụng (kaluza) và vật lý thực nghiệm (kopfermann). Phản biện chính của luận án và cũng là thầy hướng dẫn là Hans Wittich. Buổi bảo vệ được tổ chức vào ngày 4-4-1945, bằng tiến sĩ được trao vào ngày 8-4-1946. Điểm đánh giá trung bình: giỏi.

Ngay khi nhận được thông báo từ GS Esnault, chúng tôi đã liên hệ trực tiếp với TS Hunger để xin bản copy các tư liệu về GS Lê Văn Thiêm. Ông Hunger yêu cầu chúng tôi phải có giấy cho phép đọc tài liệu của GS Lê Văn Thiêm. Rất may ông Hunger đã chấp nhận thông tin từ Wikipedia tiếng Anh về việc GS Lê Văn Thiêm đã qua đời hơn 10 năm là thời gian tối thiểu sau đó người lạ có quyền tiếp cận tư liệu. Nhờ các GS Esnault và GS Viehweg đóng lệ phí hộ, chúng tôi đã nhận được tất cả các tài liệu liên quan tới việc bảo vệ của GS Lê Văn Thiêm bao gồm:

- Toàn văn luận án tiến sĩ

- Đơn xin bảo vệ luận án tiến sĩ (ký ngày 29-3-1945)

- Lý lịch tóm tắt (viết tay, ký ngày 24-3-1945)

- Đơn xin tiến hành kỳ thi tiến sỹ (ký ngày 29-3-1945)

- Nhận xét phản biện (của H. Wittich, ký ngày 31-3-1945)

- Biên bản buổi bảo vệ (bao gồm cả kỳ thi vấn đáp ghi ngày 4-4-1945)

- Bản thống kê các tài liệu liên quan tới việc bảo vệ (ghi ngày cấp bằng là 8-4-1946)

- Bằng tiến sĩ (xem ảnh kèm theo).

Khi nhìn thấy bằng tiến sĩ trong đó ghi trao cho Lê Văn Thiêm từ Lac Thien, Annam, trái tim chúng tôi như nghẹn lại. Tên nước Việt Nam lúc đó chưa có và đất nước chúng ta chỉ được thế giới biết đến là 3 miền thuộc địa Tonkin (Bắc bộ), Annam (Trung bộ) và Cochinchina (Nam bộ) của Pháp.

Bản lý lịch tóm tắt của Lê Văn Thiêm cho chúng ta biết ông đã học các môn phép tính vi phân và phương trình vi phân, vật lý thực nghiệm, cơ học, lý thuyết hàm, giải tích cao cấp và tốt nghiệp thạc sĩ năm 1943 tại Paris. Sau đó ông đã sang làm luận án tiến sĩ tại ĐH Tổng hợp Göttingen với học bổng của Quỹ Alexander von Humboldt. Bản thống kê các tài liệu liên quan tới việc bảo vệ cho chúng ta biết Lê Văn Thiêm đã học 8 học kỳ ở Đại học Paris và 2 học kỳ ở ĐH Tổng hợp Göttingen. Như vậy có thể nói rằng những câu hỏi về GS Lê Văn Thiêm trong thời gian 1939-1945 đã cơ bản được trả lời. Từ những tài liệu trên, chúng ta có thể đưa ra một số kết luận về GS Lê Văn Thiêm trong khoảng thời gian đó như sau.

Lê Văn Thiêm sang Đức năm 1943 ngay sau khi tốt nghiệp thạc sĩ và có lẽ không làm việc hay học tập ở Thụy Sĩ như ta thường nghĩ trước đây. Ông được Quỹ Humboldt (quỹ nghiên cứu khoa học danh tiếng nhất của Đức trước kia cũng như hiện nay) tài trợ và có lẽ là người Việt Nam đầu tiên được học bổng của quỹ này. Trong cơ sở dữ liệu của Quỹ Humboldt thì người Việt Nam đầu tiên được quỹ tài trợ trong những năm 1950. Chúng tôi đã liên lạc với Quỹ Humboldt để hỏi thông tin về Lê Văn Thiêm, tuy nhiên quỹ không tìm thấy tài liệu nào cả, có lẽ do quỹ ngừng hoạt động trong thời gian 1945-1953.

GS Lê Văn Thiêm nhận bằng tiến sĩ tại ĐH Tổng hợp Göttingen, nơi được coi là trung tâm toán học thế giới trước Đại chiến thế giới lần thứ II. Nhiều nhà toán học hàng đầu thế giới như F. Gauss, G. Dirichlet, R. Dedekind, B. Riemann, F. Klein, D. Hilbert, H. Minkowski, E. Noether, H. Weyl, R. Courant ... đã làm giáo sư ở đây và đây cũng là nơi đào tạo ra nhiều nhà toán học nổi tiếng cho thế giới. Chúng ta có thể tự hào là người Việt Nam đầu tiên có bằng tiến sĩ toán lại bảo vệ tại trung tâm toán học nổi tiếng nhất thế giới thời bấy giờ.

Theo thông lệ, nước Đức trước kia có thể coi ông Wittich là người hướng dẫn luận án tiến sĩ của Lê Văn Thiêm. Trong giải tích có định lý Teichmüller-Wittich về ánh xạ tựa bảo giác rất nổi tiếng. Xem phả hệ các nhà toán học [4] chúng ta thấy ông Wittich làm luận án tiến sĩ với đề tài “Một tiêu chuẩn xác định kiểu các mặt Riemann” (giống vấn đề nghiên cứu của luận án của Lê Văn Thiêm) và là “học trò trực hệ” của các nhà toán học nổi tiếng Leibniz, cha con Bernoulli, Euler, Lagrange, Fourier, Dirichlet, Kronecker, Hensel, Hasse (thầy của ông Wittich).

Tuy nhiên trong danh mục các học trò của ông Wittich không thấy có tên Lê Văn Thiêm, có thể vì ông Wittich lúc đó mới là trợ lý khoa học của ĐH Tổng hợp Göttingen. Một điều thú vị là trong số các học trò của ông Wittich ta thấy có ông R. Gorenflo là người đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của nhiều nhà toán học Việt Nam. Ông Gorenflo là nhà toán học nước ngoài có công trình viết chung với nhiều nhà toán học Việt Nam nhất (15 người) [5] và là người hướng dẫn luận án của GS Đinh Nho Hào, cán bộ Viện Toán học.

Ngày bảo vệ của Lê Văn Thiêm chỉ cách 4 ngày ngày quân đồng minh chiếm được thành phố Göttingen [6]. Đơn xin bảo vệ của ông gửi cho bộ trưởng Bộ Giáo dục Đức chỉ trước ngày bảo vệ 5 ngày. Điều này nói lên sự hoàn hảo của bộ máy hành chính Đức ngay cả trong lúc chính quyền sắp tan rã. Có cái lạ là tên ông Thiêm không nằm trong danh sách các luận án tiến sĩ toán bảo vệ ở Đức trong các năm 1907-1945 [7].

Theo danh sách này thì không có ai bảo vệ năm 1945, vì vậy ông Thiêm là người cuối cùng bảo vệ tiến sĩ toán học ở Đức trong Thế chiến lần thứ II. Ngày cấp bằng tiến sĩ và các giấy tờ liên quan cho thấy có thể ông vẫn ở Đức cho đến năm 1946 (theo một số học trò của ông nói lại thì ông từng kể chuyện ở Berlin khi Hồng quân Liên xô chiếm thành phố này). Cho đến nay chưa tìm thấy tư liệu nào về các hoạt động của ông trong thời gian 1945-1946.

So sánh nội dung luận án tiến sĩ của Lê Văn Thiêm với nội dung công trình đầu tiên của ông “Một số kết quả về vấn đề kiểu của các mặt Riemann (tiếng Đức)” đăng năm 1947 [8], chúng ta có thể khẳng định rằng công trình này mở rộng nội dung của luận án tiến sĩ. Đây cũng là công trình toán học đầu tiên của một người Việt Nam công bố trên một tạp chí quốc tế. Tìm hiểu kỹ hơn một chút về luận án có thể cho phép ta hiểu rõ thêm về thời kỳ này của GS Lê Văn Thiêm. Chẳng hạn tại trang 5 của luận án Lê Văn Thiêm có nhắc tới “Dấu hiệu Wittich” với trích dẫn tới công trình của Wittich đăng năm 1939, trong khi đó tại công trình nói trên, mục 6 trang 272, điều này được nêu là “Bổ đề Nevanlinna-Wittich” với trích dẫn tới một công trình của Nevanlinna đăng năm 1940, công trình này không được trích dẫn trong luận án. Từ đây ta có thể dự đoán rằng Lê Văn Thiêm chưa hề gặp Nevanlinna cho tới năm 1945.

Theo các tư liệu lịch sử, Nevanlinna là giáo sư thỉnh giảng tại Göttingen năm 1936/1937 và chỉ sang Đức một lần trong Đại chiến thế giới thứ hai vào tháng 4-1943 để bàn với Chính phủ Đức về một số vấn đề quân sự [9]. Lúc đó Lê Văn Thiêm chưa hoặc mới sang Đức. Tuy nhiên, trong tiểu sử tóm tắt của ông Wittich tại cơ sở dữ liệu của Hội Toán học Đức có ghi ông Wittich từng là trợ lý khoa học cho Nevanlinna, [10]. Lê Văn Thiêm có lẽ không học với ông Teichmüller vì thời gian này Teichmüller làm nhiệm vụ giải mã cho quân đội Đức ở Berlin, xung phong ra trận đầu năm 1943 và chết cuối năm 1943 [11].

Cũng trong công trình nhắc tới ở trên Lê Văn Thiêm ghi địa chỉ là Trường đại học Zurich và ông cảm ơn Quỹ Jubiläumsstiftung của Trường đại học Zurich về sự hỗ trợ tài chính. Trang cuối của công trình ghi ngày gửi đăng là 2-1947. Vì vậy chúng ta có thể tin rằng Lê Văn Thiêm đã sang Thụy Sĩ trong năm 1946. Đây cũng là năm Nevannlina nhận chức giáo sư tại Đại học Zurich. Chúng tôi không tìm thấy thông tin nào về Quỹ Jubiläumsstiftung hiện nay để có thể liên lạc tìm hiểu thêm về GS Lê Văn Thiêm. Chúng ta có thể đoán rằng chính ông Wittich là người giới thiệu ông Lê Văn Thiêm sang Thụy Sĩ với Nevanlinna năm 1946.

Sinh thời, GS Lê Văn Thiêm vẫn nói mình là học trò của ông Nevanlinna. Nevanlinna là một nhà toán học Phần Lan nổi tiếng thế giới trong lĩnh vực giải tích phức. Ông là chủ tịch Hội Toán học thế giới nhiệm kỳ 1959-1962. Nevanlinna là một trong những nhà toán học đầu tiên nhìn thấy tầm quan trọng của máy tính và đã cổ súy cho việc dùng máy tính trong các trường đại học ngay từ những năm 50. Vì vậy Hội Toán học thế giới đã lập ra giải thưởng Nevanlinna, trao 4 năm một lần cho các nhà toán học xuất sắc nhất trong lĩnh vực tin học lý thuyết.

Tóm lại chúng ta có một số tư liệu nói về GS Lê Văn Thiêm trong thời gian 1943-1945 nhưng lại chưa có nhiều thông tin về thời kỳ 1946-1949. Hiện nay vẫn còn những câu hỏi lớn về GS Lê Văn Thiêm như:

- Ông từ Thụy Sĩ quay lại Pháp khi nào?

- Ông có nhận vị trí giảng viên tại ĐH Tổng hợp Zurich năm 1949 hay không?

Chúng tôi đã liên hệ với các đồng nghiệp ở ĐH Tổng hợp Zürich và ĐH Bách khoa Zürich để tìm hiểu nhưng tới nay vẫn chưa tìm thấy một chứng cớ nào cho việc này. Nếu bạn đọc có các thông tin khác về GS Lê Văn Thiêm giai đoạn 1939-1949 xin vui lòng gửi email về cho các tác giả: phung@math.ac.vn và nvtrung@math.ac.vn.

Cuối cùng chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các GS Hélène Esnault và Eckart Viehweg vì sự giúp đỡ vô cùng quý báu trong việc xin các tư liệu về luận án của GS Lê Văn Thiêm.

Tài liệu trích dẫn:

1. http://en.wikipedia.org/wiki/Le_Van_Thiem

2. http://vi.wikipedia.org/wiki/Lê_Văn_Thiêm

3. Lê Văn Thiêm, Các công trình tiêu biểu (Hà Huy Khoái sưu tầm và tuyển chọn), Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007.

4. http://genealogy.math.ndsu.nodak.edu/id.php?id=45002

5. http://www.fracalmo.org/gorenflo/gor_publications.htm

6. http://www.goest.de/kriegsende.htm

7. https://www.dmv.mathematik.de/m-die-dmv/m-geschichte/m-dissertationen-1907-1945/

8. www.emis.de/misc/articles/lehto.pdf

9. Le-Van, Thiem, Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flächen, Comment. Math. Helv. 20, 270-287 (1947).

10. https://www.dmv.mathematik.de/die-dmv/105-kurzbiographien/392-kurzbiographien-w-wi-wy.html

11. http://www-history.mcs.st-andrews.ac.uk/Biographies/Teichmuller.html

GS NGÔ VIỆT TRUNG - PHÙNG HỒ HẢI


 

           http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org