Viết về GS Ngô Bảo Châu
Tháng 12/2009, tạp chí
Time (Mỹ),
một tạp chí có uy tín quốc
tế, đã xếp công trình toán
học Bổ đề cơ bản
của GS Ngô Bảo Châu
thứ 7 trong số 10 khám phá
khoa học nổi bật trên thế
giới năm 2009. Công trình ấy
được công bố năm 2007, sau
đó, được giới toán học thế
giới kiểm tra, phản biện,
rồi công nhận vào năm 2009.
Tạp chí Time
đặt công trình của nhà toán
học Việt Nam bên cạnh những
khám phá khoa học lớn như:
tìm thấy người Ardi,
tổ tiên cổ nhất của loài
người sống cách đây 4,4
triệu năm; lập bản đồ chi
tiết về bộ gen người; phát
hiện nước trên Mặt trăng;
Máy gia tốc lớn hadron ở
Geneva (Thuỵ Sĩ) tạo năng
lượng kỷ luc; thực hiện
thành công viễn tải lượng
tử...
Sinh năm 1972 tại Hà Nội
dưới mưa bom trải thảm, học
tập trong những năm khó khăn
sau chiến tranh, mặc dù vậy,
Ngô Bảo Châu liên tiếp đoạt
hai huy chương vàng Olympic
Toán Quốc tế. 32 tuổi, anh
trở thành giáo sư Đại học
Paris-Nam và, sau đó, được
công nhận là giáo sư kiêm
chức tại Viện Toán học Hà
Nội, vị giáo sư trẻ nhất
Việt Nam.
Anh liên tiếp được tặng
nhiều giải thưởng toán học
quốc tế như Giải
thưởng Nghiên cứu Clay ở Mỹ
(2004), Giải thưởng
Oberwolfach ở Đức
(2007), Giải thưởng
của Viện Hàn lâm Khoa học
Pháp (2008)...
Viện Nghiên cứu cấp cao
Princeton mời anh sang Mỹ
làm việc dài hạn.
Dù tới tháng 9/2010, Đại hội
Toán học Thế giới mới được
tổ chức tại Ấn Độ, nhiều
người đang hi vọng, Ngô Bảo
Châu sẽ vinh danh Việt Nam
bằng Huy chương Fields danh
giá.
Bài viết sau với những tư
liệu chính xác và riêng về
Ngô Bảo Châu của tác giả Hàm
Châu, người vốn thân thiết
và am hiểu nhà toán học nổi
tiếng này.
***
Ngô Bảo Châu, “bom
tấn” và “trống đồng” trong
toán học
Khoa học là
"nghề gia truyền"
Ngô Bảo Châu sinh năm
1972, năm Tổng thống Mỹ
Richard Nixon ra lệnh cho
máy bay chiến lược B-52 ném
bom trải thảm Hà Nội, khi
cha anh tòng quân, chuẩn bị
lên đường vào tuyến lửa
Quảng Trị.
 |
GS Ngô Bảo Châu
cùng bố, GS,TSKH Ngô
Huy Cẩn |
Anh là con một, lớn lên
trong gia đình trí thức: cha
là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học
cơ học Ngô Huy Cẩn, làm việc
tại Viện Cơ học (thuộc Viện
Khoa học và Công nghệ Việt
Nam; mẹ là Phó Giáo sư, Tiến
sĩ dược học Trần Lưu Vân
Hiền, công tác tại Bệnh viện
Y học cổ truyền trung ương.
Có thể nói, "nghề gia
truyền" của gia đình anh là
"nghề khoa học".
"Hữu thư chân phú
quý"
(có sách mới thật
là giàu sang), của cải dồi
dào trong gia đình anh không
phải là "tờ xanh, cây vàng",
mà là sách vở, là lòng khát
khao hiểu biết được "di
truyền" qua nhiều thế hệ. Tổ
tiên anh thuộc dòng họ "thi
thư", có người từng giữ chức
Đông các Đại học sĩ chuyên
giảng "sách thánh hiền" cho
Thái tử triều Nguyễn.
Ngay từ những năm trung
học cơ sở, Bảo Châu đã được
học tại các lớp chuyên toán
của thành phố Hà Nội đặt tại
Trường Trưng Vương. Thầy Tôn
Thân, thầy giáo toán cho
Châu là người dạy giỏi nổi
tiếng ở Thủ đô, cháu ngoại
nhà học giả Phạm Quỳnh (Chủ
bút tạp chí Nam Phong hồi
đầu thế kỷ 20). Cô giáo dạy
văn là cô Trịnh Bích Ba, con
gái yêu của nhà học giả
Trịnh Đình Rư, cử nhân Nho
học, đã để ấn tượng sâu đậm
trong lòng Châu ngay từ lứa
tuổi thiếu niên giàu cảm
xúc.
Lên bậc trung học phổ
thông, Châu thi đỗ vào Khối
Phổ thông chuyên toán Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay
là Khối THPT chuyên Toán -
Tin Trường Đại học Khoa học
tự nhiên thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội). Suốt mấy thập
niên, Đơn vị Anh hùng Lao
động này đã hội tụ được
nhiều nhà giáo dạy toán nổi
tiếng như Phan Đức Chính,
Nguyễn Văn Mậu, Lê Đình
Thịnh, Phạm Văn Điều, Phạm
Tấn Dương, Nguyễn Xuân My,
Đỗ Thanh Sơn, Nguyễn Vũ
Lương, Phạm Văn Hùng, Phạm
Quang Đức, Phan Cung Đức,
Phạm Đăng Long, Nguyễn Thành
Văn, cũng như những cô giáo,
thầy giáo dạy giỏi các môn
khác như các cô Đặng Thanh
Hoa, Nguyễn Thị Tính, các
thầy Lê Đình Vinh, Dương
Hoàng Giang, Lê Văn Việt,
Nguyễn Cảnh Hòe...
Lão Tử, nhà tư tưởng lỗi
lạc của phương Đông cổ đại,
đã viết: "Thiên lý chi
hành thuỷ ư túc hạ"
(Chuyến đi nghìn dặm là do
bước chân đầu tiên). Ngô Bảo
Châu đặt những bước chân đầu
tiên vững chắc, đúng hướng,
không "xa chính đạo, sẩy
chân, lạc lối".
Do được đào tạo trong
"trường chuyên, lớp chọn"
với chất lượng cao, cho nên
mùa hè năm 1988, khi mới 16
tuổi, đang học lớp 11, Châu
đã lọt vào đội tuyển học
sinh giỏi toán nước ta đi
thi Olympic Toán quốc tế
(International Mathematical
Olympiad/ IMO) tại Canberra,
thủ đô Australia. Là một
trong mấy thí sinh ít tuổi
nhất kỳ thi, thế mà Châu
vươn tới đỉnh cao nhất:
giành huy chương vàng với số
điểm tuyệt đối 42/42. Châu
quả có năng khiếu toán vượt
trội.
Mùa hè năm sau, 1989,
Châu lại lọt vào đội tuyển
quốc gia đi dự IMO tại
Braunschweig (Brunswick
trong tiếng Anh). Và, một
lần nữa, Châu giành huy
chương vàng.
Trở về Hà Nội, Châu vinh
dự được bác Đỗ Mười, lúc đó
giữ chức Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, mời lên Phủ Chủ
tịch hỏi chuyện.

Ngô Bảo Châu báo cáo
thành tích sau giải nhất
Toán quốc tế

Ngô Bảo Châu (thứ 3 từ trái
sang trong Đội tuyển Olympic
Toán học Quốc tế Việt Nam
Vươn tới đỉnh cao giữa Paris
hoa lệ
Học xong trung học, Châu
theo một lớp tiếng Hungary,
sửa soạn sang Budapest học
lên đại học. Nào ngờ bên
Đông Âu xảy ra "cách mạng
nhung"! Chính quyền mới
không cấp học bổng cho sinh
viên Việt Nam nữa...
Được Giáo sư Nguyễn Văn
Đạo giới thiệu, Giáo sư Paul
Germain, Tổng Thư ký Viện
Hàn lâm Khoa học Pháp, liền
đề nghị Chính phủ nước này
đặc cách cấp học bổng cho
Châu vào Đại học Paris 6.
Đối với một sinh viên
Pháp hay Việt Nam vào loại
giỏi, được vào Đại học Paris
6 là mãn nguyện lắm rồi.
Nhưng Châu thì không! Anh
luôn vươn tới đỉnh cao. Hai
năm sau, anh thi vào hệ sau
đại học của École Normale
Supérieure de Paris, đại học
danh tiếng nhất nước Pháp mà
ta quen dịch là Đại học Sư
phạm Paris, nơi từng đào tạo
nhiều nhà bác học Pháp lừng
danh, và cũng là nơi mà một
số người Việt Nam ưu tú thế
hệ trước như Hoàng Xuân Hãn,
Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo,
Trần Thanh Vân... đã từng
theo học.
Do rất nổi tiếng trên thế
giới, tên trường này thường
vẫn giữ nguyên dạng chữ Pháp
trong các văn bản tiếng nước
ngoài. Châu đỗ thủ khoa kỳ
thi tuyển năm ấy.
Anh bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ năm 25 tuổi,
rồi luận án habilitation
(tương đương tiến sĩ khoa
học) năm 31 tuổi.

Ngô Bảo Châu cùng mẹ, PGS
Trần Vân Hiền và Giáo sư
Henri Regemorter
Người cha
giáo sư và cô con gái nhỏ
Là một người "hiến thân"
cho toán học, nhưng anh
không phải là một cỗ rô-bốt
chỉ biết tính toán suốt ngày
đêm, mà trái lại, là một con
người - như bạn bè anh nhận
thấy - có tâm hồn tinh tế,
trầm tư, giàu mỹ cảm, biết
yêu những vũ khúc polonaise,
mazurka mang âm hưởng đồng
quê êm dịu của Chopin hay
những khúc rhapsony (cuồng
tưởng) đầy bão dông sấm sét
của Liszt; biết say thơ Hàn
Mặc Tử siêu thoát hay thơ
Quang Dũng hào hoa; biết mải
mê đọc ngấu nghiến mấy cuốn
tiểu thuyết mới in như
"Phế đô" (The Abandoned
Capital), "Quỷ
thành" của nhà văn
Trung Quốc đương đại Giả
Bình Ao - cây bút có biệt
tài soi tỏ cõi tâm linh "tội
lỗi" của những nhân vật nam
và nữ thời nay như Trang Chi
Điệp, Đường Uyển Nhi, Liễu
Nguyệt... ở thành Tây An,
chốn đế đô thời cực thịnh
Hán - Đường, nhưng về sau bị
"phế bỏ"!
Và chiều chiều người cha
trẻ tuổi ấy thường âu yếm
dắt tay cô con gái nhỏ thảnh
thơi dạo bước men theo những
ngọn đồi thoai thoải dốc, nở
đầy hoa thuỷ tiên dại màu
vàng sáng, hoa lệ xuân đỏ
tươi hay hoa đậu kim vàng
thắm ở vùng Palaiseau,
Gif-sur-Yvette, ngoại thành
Paris, vừa đi vừa bày cho
con cách gọi tên các loài
hoa ấy bằng hai thứ tiếng
Việt, Pháp.
Đầu năm 2004, khi chưa
đầy 32 tuổi, anh được hai
trường đại học lớn ở Paris
(Paris 6 và Paris 11) mời
làm giáo sư. Anh nhận lời
Đại học Paris 11 vì muốn
sống gần ba người đồng
nghiệp có nhiều "duyên nợ":
Gérard Laumon, Laurent
Lafforgue và Ngô Đắc Tuấn.
G. Laumon là người thầy đã
hướng dẫn L. Lafforgue và
Ngô Bảo Châu viết luận án
tiến sĩ.
Cả hai nhà toán học Pháp
ấy đều đã sang thăm Việt Nam
và đã sống nhiều ngày trong
ngôi nhà của cha mẹ anh lúc
bấy giờ ở khu Mai Động, Hà
Nội. Còn Ngô Đắc Tuấn, thì
vốn cũng là "dân chuyên toán
Tổng hợp" như Châu, và cũng
như Châu, Tuấn hai lần giành
huy chương vàng IMO (International
Mathematical Olympiads,
năm
1995, rồi 1996) tại Canada
và Ấn Độ, sau đó, theo học
Đại học Bách khoa Paris
(École Polytechnique de
Paris), đỗ đầu kỳ thi tốt
nghiệp. Tuấn được Châu giới
thiệu làm nghiên cứu sinh
với L. Lafforgue, bạn thân
của Châu và là nhà toán học
được tặng Huy chương Fields
(Fields Medal), Viện sĩ Viện
Hàn lâm Khoa học Pháp.
Bước qua chướng
ngại 30 năm của nền toán học
thế giới
Ngô Bảo Châu đã nghiên
cứu thành công Bổ đề cơ
bản của Langlands, một
"bổ đề" khó chứng minh đến
mức mà 30 năm qua, nhiều nhà
toán học hàng đầu - kể cả cá
nhân Langlands - đã ra sức
lao vào giải quyết nhưng đều
thất bại. Vị GS trẻ này đã
nhận được lời mời làm việc
dài hạn tại Đại học
Princeton, một đại học hàng
đầu ở Mỹ, nơi Albert
Einstein từng giảng dạy.
Công trình
toán học gây tiếng vang tức
thì
Tháng 4/2004, Ngô Bảo
Châu và Gérard Laumon công
bố dưới dạng tiền ấn phẩm và
đưa lên mạng Internet công
trình toán học dày 100 trang
viết bằng tiếng Pháp nhan
đề: Le lemme fondamental
pour les groupes unitaires
(Bổ đề cơ bản cho các nhóm
unita/ the fundamental lemma
for unitarian groups).
Công trình đi vào một vấn
đề thời sự toán học, giải
quyết một bài toán lớn từng
được nhiều nhà toán học hàng
đầu trên thế giới lao vào
chứng minh trong suốt 20 năm
nhưng chưa ai thành công,
cho nên ngay lập tức gây
tiếng vang rộng khắp.
Ngô Bảo Châu được mời
sang Nhật Bản trình bày các
kết quả mới, rồi sau đó,
sang Canada dự Hội nghị quốc
tế về các dạng tự đẳng cấu
và công thức vết tại Viện
Fields. Đến hội nghị có
nhiều nhà toán học nổi tiếng
từ các đại học lớn trên thế
giới. Ngô Bảo Châu được mời
đọc báo cáo trong phiên họp
toàn thể đầu tiên.
Sau khi nghe anh, chính
Robert Langlands, nhà toán
học đã từng đưa ra
Chương trình Langlands
(Langlands Program) thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà toán học xuất sắc
nhất hành tinh trong mấy
chục năm qua, gặp ngay Ngô
Bảo Châu, mời anh sang làm
việc dài hạn tại Đại học
Princeton, một đại học hàng
đầu ở Mỹ, nơi Albert
Einstein từng giảng dạy.
Gạt bỏ chướng
ngại lì lợm cho giới toán
học quốc tế
Do đã có kinh nghiệm
trong việc nghiên cứu thành
công Bổ đề cơ bản
của Jacquet, Ngô Bảo Châu
mạnh dạn bắt tay nghiên cứu
Bổ đề cơ bản của
Langlands. Sau hai năm, anh
thực hiện được một bước đột
phá vào mùa hè 2003, khi trở
về Hà Nội "phượng đỏ bờ đê,
ve kêu hàng sấu" để thăm cha
mẹ tại ngôi nhà xinh xắn mới
xây nhìn sang hồ Thủ Lệ biếc
xanh. Những tháng tiếp theo,
kết hợp với một số kết quả
mà G. Laumon đã đạt được
trước đó, hai tác giả hoàn
thành chứng minh Bổ đề
cơ bản cho các nhóm unita
(the fundamental lemma for
unitarian groups).
Công trình của Ngô Bảo
Châu và Gérard Laumon chứng
minh thành công "bổ để" này,
gạt bỏ một vật chướng ngại
lì lợm trên dòng chủ lưu của
toán học đương đại, lập tức
gây được sự chú ý của giới
toán học quốc tế. Hai tác
giả giúp giới toán học vượt
qua một vật cản để tiến xa
hơn trên con đường A. Wiles
đã từng đi qua khi ông chứng
minh Giả thuyết Taniyama
- Shimura.
Với kết quả Ngô Bảo Châu
và Gérard Laumon đạt được,
giới toán học quốc tế đã
bước thêm một bước tiến tới
chứng minh các giả thuyết
khác trong Chương trình
Langlands (Langlands
Program), thực hiện giấc mơ
ấp ủ của nhiều thế hệ các
nhà nghiên cứu nhằm tìm kiếm
sự thống nhất vĩ đại huy
hoàng trong toán học.
Không phải ngẫu nhiên khi
chính A. Wiles, "nhà toán
học lừng danh nhất thế kỷ
20", tự mình đứng ra tiến cử
Ngô Bảo Châu và Gérard
Laumon nhận Giải thưởng
Nghiên cứu của Viện Toán học
Clay dành cho công trình
toán học xuất sắc nhất thế
giới năm 2004. Cũng không
phải dễ dàng khi người Mỹ
mời anh sang nước này làm
việc với mức lương hơn 200
nghìn USD/ năm.

Giáo sư Gérard Laumon (trái)
và giáo sư Ngô Bảo Châu tại
Paris (Pháp) mùa hè 2004
Làm được việc
chính Langlands cũng thất
bại
Để hiểu được ý nghĩa của
thành công trên, ta hãy quay
về với quá trình chứng minh
Định lý cuối cùng của
Fermat, hay còn gọi là Định
lý lớn Fermat. Định lý này
được Pierre de Fermat, nhà
toán học Pháp kiệt xuất, nêu
lên vào thế kỷ 17, nhưng
không để lại chứng minh! Và,
vì thế, nó đã trở thành một
thách đố làm bối rối những
bộ óc vĩ đại nhất của nhân
loại trong hơn ba thế kỷ!
Thoạt nhìn, định lý thật
giản đơn:
Phương trình xn
+ yn = zn
không có nghiệm nguyên
dương khi n > 2.
Định lý lớn Fermat khiến
ta nhớ tới một định lý đã
được Pythagore, nhà toán học
Hy Lạp cổ đại, chứng minh
vào thế kỷ 6 trước Công
nguyên, thường gọi là Định
lý Pythagore: x2
+ y2 = z2
(nếu trong một tam giác
vuông ta coi cạnh huyền là
z, các cạnh góc vuông là x
và y).
Thế nhưng, hơn ba thế kỷ
trôi qua, không ai chứng
minh được Định lý lớn
Fermat!
Giữa thế kỷ 20, hai nhà
toán học Nhật Bản Yukata
Taniyama và Goro Shimura đưa
ra phỏng đoán thiên tài (về
sau gọi là Giả thuyết
Taniyama - Shimura)
rằng mỗi phương trình
eliptic đều có liên hệ với
một dạng modular. Nếu giả
thuyết này đúng, thì nó sẽ
tạo điều kiện để giải quyết
nhiều bài toán eliptic cho
đến nay chưa giải quyết
được, bằng cách tiếp cận
chúng qua thế giới modular.
Và, như vậy, hai thế giới
eliptic và modular vốn tách
biệt nhau, sẽ có thể thống
nhất.
Trong những năm 1960, R.
Langlands và những người
cộng tác tại Đại học
Princeton (Mỹ) đưa ra một
loạt giả thuyết về những mối
liên hệ giữa nhiều ngành
toán học vốn rất khác nhau,
và kêu gọi giới toán học
quốc tế hợp tác chứng minh
những giả thuyết cấu thành
Chương trình Langlands.
Nếu những giả thuyết mang
màu sắc tư biện ấy, vào một
ngày đẹp trời nào đó, được
chứng minh, thì sẽ mang lại
những kết quả vô cùng to lớn
cho toán học. Khi ấy, bất cứ
một bài toán chưa giải được
trong một lĩnh vực nào đều
có thể biến đổi thành một
bài toán tương tự trong một
lĩnh vực khác, và các nhà
toán học có thể huy động cả
một kho to lớn những kỹ
thuật mới để giải nó.
Thế nhưng, cho đến lúc
bấy giờ, thì chưa có một giả
thuyết nào trong chương
trình đầy tham vọng của
Langlands được chứng minh,
kể cả giả thuyết nổi tiếng
nhất là Giả thuyết
Taniyama - Shimura.
Mùa thu năm 1984, tại một
hội nghị toán học tổ chức
trong khu Rừng Đen ở CHLB
Đức, Gerhard Frey đi tới một
kết luận đầy kịch tính, rằng
nếu chứng minh được Giả
thuyết Taniyama - Shimura,
thì cũng có nghĩa là chứng
minh được Định lý lớn
Fermat, bởi vì định lý
này chỉ là một hệ quả của
giả thuyết trên.
Kết luận đó kích thích
mạnh lòng "cuồng nhiệt" của
Andrew Wiles, một nhà toán
học người Anh làm việc tại
Mỹ. A. Wiles lặng lẽ tự giam
mình bảy năm liền trên một
gian gác xép, cam lòng chịu
cảnh "lưu đày cô đơn" để bí
mật tìm kiếm lời giải cho
bài toán "xuyên thế kỷ"!
Để rồi trong ba phiên họp
liên tiếp vào mấy ngày 21,
22 và 23/6/1993 tại Viện
Isaac Newton ở Cambridge,
Vương quốc Anh, quê hương A.
Wiles, ông ta viết chi chít
trên hai tấm bảng lớn, đột
ngột thông báo chứng minh
Giả thuyết Taniyama -
Shimura mà Định lý
lớn Fermat chỉ là một
hệ quả. Lúc ấy, nhiều người
thành thật nghĩ rằng đó là
"buổi thông báo toán học
quan trọng nhất thế kỷ 20".
Báo Guardian ở
Anh cũng như báo Le
Monde ở Pháp rút tít
lớn trên trang nhất. Tờ
People coi A. Wiles là
một "người hấp dẫn trong
năm" sánh ngang Công nương
Diana! Một tập đoàn may sẵn
quốc tế mời Wiles quảng cáo
cho các mẫu quần áo đàn ông!
Thế nhưng...
Nhà toán học Nick Katz,
một người bạn của Wiles,
bỗng phát hiện ra một lỗi
nghiêm trọng nhưng hết sức
tinh vi, khó thấy, trong bản
thảo dày 200 trang của
Wiles. Thế là, than ôi,
dường như bất cứ ai cả gan
lao vào chứng minh Định
lý lớn Fermat, đều
không tránh khỏi cuối cùng
chuốc lấy... "thất bại định
mệnh"! Và bài toán hóc hiểm
kia vẫn cứ kiêu hãnh nằm
nguyên tại chỗ như một
toà... "lâu đài tăm tối"!
Nhưng là con người gang
thép, Wiles không cam chịu
"bó giáo quy hàng" như bao
bậc "tiền bối"! Suốt 14
tháng trời tiếp theo, qua
những ngày dài "đau đớn, tủi
nhục và gần như tuyệt vọng",
Wiles đã sửa chữa, hoàn
thiện chứng minh, rồi trao
bản thảo hoàn chỉnh cho
người đầu tiên là vợ ông -
bà Nada - để mừng sinh nhật
bà, người đã khích lệ ông
trong những phút giây "đen
tối nhất"..
A. Wiles thành công vang
dội khi chứng minh được
Định lý cuối cùng của
Fermat, chấm dứt 358 năm
căng thẳng trong giới toán
học quốc tế. Tuy nhiên, một
kết quả mà những người
"ngoại đạo" ít chú ý tới,
nhưng lại có ý nghĩa to lớn
hơn nhiều, đó là chứng minh
Giả thuyết Taniyama -
Shimura.
Giả thuyết Taniyama -
Shimura được chứng minh
có nghĩa hòn đá tảng của
Chương trình Langlands
quả thật là vững chắc.
Chương trình này mặc nhiên
trở thành bản thiết kế cho
tương lai của toán học.
Một loạt giả thuyết toán
học của Chương trình này
liên kết nhiều đối tượng có
vẻ rất khác nhau trong các
lĩnh vực toán học như lý
thuyết số, hình học đại số,
lý thuyết các dạng tự đẳng
cấu... ngày càng thu hút sự
chú ý của các nhà toán học
hàng đầu, và dần dần trở
thành dòng chủ lưu của toán
học đương đại.
Việc gạt bỏ những vật cản
trên dòng chảy chính ấy đã
mang lại vinh quang cho
nhiều nhà toán học: A. Wiles
chứng minh thành công
Định lý lớn Fermat,
được tặng Giải thưởng Nghiên
cứu Clay. V. Drinfeld thiết
lập được tương ứng Langlands
cho trường hàm trong trường
hợp số chiều bằng 2; L.
Lafforgue giải quyết trong
trường hợp tổng quát; cả hai
nhà toán học trẻ ấy đều được
tặng Huy chương Fields.
Năm 1987, Langlands và
cộng sự phỏng đoán về một
tương tự tương ứng cho
trường hàm trên trường phức,
về sau, được gọi là tương
ứng Langlands hình học. Để
chứng minh được sự tồn tại
của tương ứng đó, phải giải
quyết một bài toán lớn mà
lúc đầu Langlands chưa thấy
hết mức độ phức tạp của nó,
nên mới gọi là Bổ đề cơ
bản.
Thuật ngữ bổ đề (lemma)
thường dùng để chỉ một cái
gì đó dễ chứng minh, một kết
quả kỹ thuật giản đơn cần
thiết trên con đường chứng
minh một định lý đích thực.
Thế nhưng, trong trường hợp
này, cụm từ bổ đề cơ bản
(fundamental lemma) lại gắn
liền với một giả thuyết
quyết định, một bộ phận
không thể tách rời của
Chương trình Langlands,
một "bổ đề" khó chứng minh
đến mức mà 30 năm qua nhiều
nhà toán học hàng đầu - kể
cả cá nhân Langlands - đã ra
sức lao vào giải quyết nhưng
đều thất bại!
GS Ngô Bảo Châu - người 3 lần được thế giới vinh danh
Bức thư của Chủ tịch Viện Toán học Clay
Những ngày giữa tháng 10/2004, Ngô Bảo Châu dự Hội nghị quốc tế về các dạng tự đẳng cấu và công thức vết được tổ chức tại Viện Fields, Canada. Cùng với nhiều nhà bác học nổi tiếng thế giới, GS Ngô Bảo Châu được mời đọc báo cáo tại phiên họp toàn thể. Anh trình bày công trình mà anh vừa cùng GS Gérard Laumon hoàn thành và công bố trên mạng Internet.
Đó là công trình 100 trang về Bổ đề cơ bản cho các nhóm unita, giải quyết một trở ngại lớn trên con đường phát triển lý thuyết tự đẳng cấu (automorphic forms theory), dần dần thực hiện Chương trình Langlands.
Trước Hội nghị Canada, anh nhận được bức thư điện tử của James Carlson, Chủ tịch Viện Toán học Clay, viết:
"Giáo sư Ngô thân mến,
Tôi vui mừng báo để ông biết: Viện Toán học Clay vừa chọn ông và ông Gérard Laumon là hai người được tặng Giải thưởng Nghiên cứu Clay sẽ trao vào ngày 5/11/2004 tại Cambridge, bang Massachusetts, trong phiên họp hằng năm của viện. Mục đích của giải thưởng này là để công nhận công trình nghiên cứu chung của hai ông về bổ đề cơ bản. Năm ngoái, hai người nhận giải thưởng là Richard Hamilton và Terry Tao. Năm trước, giải thưởng đã được trao cho Manindra Agrawal và Oded Schramm.
Hội đồng Cố vấn của Viện chúng tôi, gồm các ông James Carlson, Simon Donaldson, Gregory Margulis, Richard Melrose, Yum-Tong Siu, Andrew Wiles, gửi lời chúc mừng hai ông.
Tôi muốn hỏi ý kiến ông về những gì mà viện chúng tôi có thể giúp ông và ông Laumon trong nghiên cứu vào năm tới. Phạm vi giúp đỡ khá rộng, hai ông có thể tuỳ ý lựa chọn, bao gồm cả phí tổn những chuyến đi ra nước ngoài của hai ông và những người mà hai ông muốn cộng tác, hoặc để tổ chức hội thảo chuyên đề...
Tôi cũng muốn mời ông dự cuộc họp của viện chúng tôi tại Cambridge vào thứ sáu 5/11 để nhận giải thưởng. Viện sẽ trả mọi phí tổn đi lại, lưu trú và các khoản chi tiêu hằng ngày. Nếu ông muốn kéo dài chuyến đi ngoài thời gian dự cuộc họp, trước hoặc sau, chẳng hạn để nói chuyện với các nhà toán học tại đây hoặc tại những nơi khác, chúng tôi sẵn lòng thanh toán mọi chi phí.
Tôi cũng viết thư cho ông Laumon để thông báo với ông ấy về giải thưởng và mời ông ấy đến dự cuộc họp để cùng nhận giải thưởng với ông. Chúng tôi cũng mời ông ấy nói chuyện về công trình mà ông ấy và ông đã hoàn thành về bổ đề cơ bản.
Tôi chờ đợi để sớm được nói chuyện với ông. Chúng ta có thể thoả thuận về thời gian tôi gọi điện cho ông?
Rất chân thành,
Jim Carlson
Chủ tịch Viện Toán học Clay"
Suýt không đến nhận giải được vì hộ chiếu
Sau khi kết thúc hội nghị ở Viện Fields, Ngô Bảo Châu trở về vùng Plaiseau, xanh ngắt những ngọn đồi thông, mênh mông những cánh đồng kiều mạch ở ngoại thành Paris, nơi anh sống cùng vợ - chị Nguyễn Bảo Thanh, người bạn gái cùng lớp từ thời còn học cấp II chuyên toán Trưng Vương - và ba cô con gái nhỏ. Hộ chiếu sắp hết hạn. Anh phải đến ngay Đại sứ quán Việt Nam tại Paris để xin gia hạn, điều này không khó. Nhưng rồi, sau đó, liệu có còn đủ thời gian để làm thị thực nhập cảnh vào Mỹ không?
Mấy năm gần đây, do quá lo sợ khủng bố, việc xét cấp visa cho công dân các nước Á, Phi vào Mỹ thường kéo dài cả tháng. Anh Châu sang Pháp học từ năm 1990, không phải do tiền Nhà nước ta cấp, không bị ràng buộc bởi lời cam kết phải trở về nước phục vụ. Sống và làm việc tại Paris đã gần 15 năm, thế mà, do đạo lý "uống nước nhớ nguồn", anh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, mang cuốn hộ chiếu phổ thông bìa xanh, cho dù điều ấy lắm khi gây phiền hà cho anh, chẳng hạn trong việc xin visa vào Mỹ. Anh định nhờ G. Laumon thay mặt cho cả hai người sang Cambridge nhận Giải thưởng Nghiên cứu Clay. Bởi vì, G. Laumon mang hộ chiếu Pháp, sang Mỹ đâu có cần visa!
Đang gần như hết hy vọng, bỗng anh được biết: Viện Toán học Clay đã nhờ Thượng nghị sĩ E. Kennedy can thiệp, gọi điện thẳng từ Boston sang Paris cho Đại sứ quán Mỹ.
Thế là, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, anh nhận được visa!
Lễ trao Giải thưởng Nghiên cứu Clay năm 2004 diễn ra giản dị mà trọng thể trong phiên họp hằng năm của Viện Toán học Clay, tại giảng đường Đại học Harvard (Mỹ) ngày 5/11/2004. Cho tới hôm ấy, chỉ mới có 12 nhà toán học trên thế giới được tặng giải thưởng này.

GS Ngô Bảo Châu nhận Giải thưởng Nghiên cứu Clay năm 2004.
Năm 2005, Nhà nước ta đã đặc cách công nhận chức danh Giáo sư kiêm chức cho Tiến sĩ khoa học Ngô Bảo Châu. Anh trở thành vị giáo sư trẻ nhất Việt Nam, 33 tuổi.
Còn Giáo sư Gérard Laumon, sau khi nhận Giải thưởng Nghiên cứu Clay, đã được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.

Nhà toán học Ngô Bảo Châu (phải) nhận bằng giáo sư tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Thêm 2 lần được thế giới vinh danh
Sau khi nhận Giải thưởng Clay ở Mỹ, Ngô Bảo Châu còn được tặng Giải thưởng Oberwolfach (Oberwolfach Prize) ở CHLB Đức. Đây là giải thưởng toán học ba năm mới tặng một lần cho một hoặc hai nhà toán học dưới 36 tuổi có công trình đặc biệt xuất sắc ở châu Âu.
Giải thưởng Oberwolfach (Oberwolfach Prize) năm 2007 dành cho một mình Ngô Bảo Châu, do công trình nổi bật 188 trang về đại số và lý thuyết số (algebra and number theory). Giải do Quỹ Oberwolfach và Viện Nghiên cứu Toán học Oberwolfach ở Đức trao tặng.
Công trình mới của nhà toán học mang quốc tịch Việt Nam làm việc tại Đại học Orsay (tức Đại học Paris-Sud) nhằm giải quyết trọn vẹn Bổ đề cơ bản theo phỏng đoán của Langlands và Shelstad (the conjecture of Langlands and Shelstad).

GS Ngô Bảo Châu nhận Giải thưởng Oberwolfach năm 2007 (lễ trao giải diễn ra đầu năm 2008) ở Đức
Với những chứng minh xác đáng, Ngô Bảo Châu được thừa nhận là chuyên gia dẫn đầu ở nơi gặp gỡ giữa hình học đại số và lý thuyết các dạng tự đẳng cấu. Nếu năm 2004, cùng G. Laumon, Ngô Bảo Châu mới giải quyết Bổ đề cơ bản cho các nhóm unita; thì giờ đây, anh đưa ra lời giải cho các trường hợp khái quát hơn.
Đọc diễn văn ca ngợi (laudatory speech) tại buổi lễ trao giải thưởng được tổ chức vào đầu năm 2008, GS Rapoport coi công trình mới của Ngô Bảo Châu là "một thành tựu sáng chói" (a brilliant achievement). Sau đó, GS Ngô Bảo Châu còn nhận được Giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Đánh
giá về thành công
của Ngô Bảo Châu, GS
Ngô Việt Trung -
viện trưởng Viện
Toán học VN, viện sĩ
Viện hàn lâm Khoa
học thế giới thứ ba
- nói trong một cuộc
trả lời phỏng vấn:
“Đầu năm 2004 Ngô
Bảo Châu và GS
Gérard Laumon đã làm
nên “một quả bom
tấn” khi công bố kết
quả đột phá về bổ đề
cơ bản trong chương
trình langlands, gây
tiếng vang lớn trong
giới toán học thế
giới.
Với
kết quả ấy, anh và
GS Laumon được tặng
giải thưởng Clay
danh giá. Đầu năm
2007, anh lại gây
xôn xao khi giải
quyết hoàn toàn bổ
đề cơ bản. Với những
thành công như thế,
anh được Viện Nghiên
cứu cấp cao
Princeton của Mỹ,
nơi tập trung rất
nhiều nhà khoa học
hàng đầu thế giới,
mời sang làm việc
dài hạn”.
GS
Ngô Việt Trung coi
GS Ngô Bảo Châu là
“một ngôi sao sáng
trên vòm trời toán
học VN” và kết luận:
“Chúng ta có cơ sở
để hi vọng anh Ngô
Bảo Châu được tặng
một trong những giải
thưởng cao quý nhất
của toán học là Huy
chương Fields”.
Cách đây không lâu,
trò chuyện với GS Lê
Tuấn Hoa - chủ tịch
Hội Toán học VN, tôi
được biết GS Ngô Bảo
Châu đã được chính
thức mời đọc báo cáo
tại phiên họp toàn
thể đại hội toán học
thế giới sẽ họp tại
Ấn Độ năm 2010. Theo
GS Hoa, giới toán
học VN hiện đang
nóng lòng chờ đợi
tin GS Ngô Bảo Châu
được tặng Huy chương
Fields.
Nếu điều dự báo của
vị chủ tịch Hội Toán
học Việt Nam xảy ra,
đó sẽ là một sự kiện
khoa học rất lớn bởi
vì ngay cả Trung
Quốc, với 1,3 tỉ
dân, cũng chưa có
nhà toán học nào
giành được vinh dự
khoa học cao quý ấy.
Hàn Quốc, Singapore
mặc dù khoa học và
công nghệ phát triển
hơn ta rất nhiều
nhưng vẫn chưa có ai
đoạt Huy chương
Fields. (Theo
Hàm Châu/
Tuổi Trẻ) |
Bee.net.vn
|