LTS:
Sự kiện Giáo sư Ngô
Bảo Châu được trao tặng Giải thưởng toán học Fields
danh giá làm xới nên biết bao cách nhìn nhận lý giải
con đường đi, sự thành công và sự thăng hoa của anh
trong toán học, một lĩnh vực khoa học khó nhọc. Một
điều thú vị, tuổi thơ, GS Ngô Bảo Châu là học sinh
của Trường tiểu học Thực nghiệm Giảng Võ (Hà Nội) do
GS Hồ Ngọc Đại chủ xướng. Nhân dịp này, Tuần Việt
Nam trân trọng đăng bài viết của nhà văn - nhà giáo
Phạm Toàn về một vấn đề thú vị: "Thông minh" và "trí
khôn", đưa ra mấy gợi ý có thể giúp bạn đọc hiểu
thêm sự quan trọng cực kỳ của phương pháp giáo dục
Trí khôn: Được dạy
dỗ hay tổ chức hoạt động?
Có người hỏi "con
ngỗng vì sao nổi?". Ông hay chữ đáp "đa mao thiểu
nhục tắc phù" (lắm lông ít thịt thì nổi). Người hỏi
vặc lại "thế cái thuyền không lông không thịt sao
cũng nổi?" Liền hỏi "cái hòn đá kia sao nứt làm
đôi?" Ông hay chữ đáp "phi thiên đả tắc nhân đả"
(không Giời đánh thì Người đập làm nó nên nỗi ấy".
Người hỏi lại vặc tiếp "thế cái ... ? (Truyện dân
gian)
Có hai khái niệm
cần được hiểu thật đúng thì mới ứng dụng được vào
công cuộc giáo dục: "Thông minh" và "trí khôn".
Khái niệm thông
minh là một tính từ, tiếng Anh và tiếng Pháp có
khái niệm tương đương diễn đạt là intelligent.
Khái niệm trí khôn là một danh từ, tiếng Anh
và tiếng Pháp có khái niệm tương đương diễn đạt là
intelligence.
Nếu không tìm ra
phương pháp khảo sát hai khái niệm này, một người
làm cả đời, nhiều người làm nhiều đời cũng không xuể
- lý do thật đơn giản: loài người thoát khỏi trạng
thái động vật để thành người là cả một quá trình dài
dặc tự làm ra trí khôn cho chính mình. Thành
tích đó được sách vở ghi lại đã nhiều, mà các quan
niệm đối lập nhau cũng lắm.
Chính vì thế, cần
giới hạn phương pháp khảo sát, chọn lựa giữa hai
cách hiểu - một cách, con người được dạy dỗ
để trở nên thông minh, để có trí khôn, hay là một
cách nữa, con người được tổ chức hoạt động để
tự tạo ra trí khôn cho mình.

Cần
hiểu đúng hai khái niệm trí khôn và thông minh
Trong trường hợp thứ
nhất, việc dạy dỗ có thể có kết quả, thậm chí kết
quả rất cao, nhưng kết quả không diễn ra với đông
đảo dân chúng - mà chính vì thế, trong một thời gian
dài, cả xã hội mới có quan niệm như thông minh
vốn sẵn tư trời. Và sự thất vọng mang tính bi
kịch thường xảy ra ngay cả với các "hổ phụ", khi các
bác đó không sinh ra hổ tử mà lại sinh... "cẩu tử".
Được cái người dân
bao giờ cũng khôn ngoan (bây giờ, người ta hay gọi
là "minh triết") tìm cách an ủi nhau trước những
thất bại không sao lý giải nổi: Thôi mà, ai giàu
ba họ ai khó ba đời, đau khổ mà làm gì, thua keo
này bày keo khác,
học tài thi phận ấy mà
...
Còn trong trường
hợp thứ hai ...
Ba chân kiềng:
Jean Piaget - Hồ Ngọc Đại - Howard Gardner
Để đi tới cách xử
lý với vấn đề thông minh hoặc trí khôn
theo con đường tổ chức cho con người tự tạo ra trí
khôn của mình, ta cần kiên nhẫn hơn để tìm hiểu về
cách thức làm việc đó.
Con đường nghiên
cứu đó được tiến hành một cách tâm lý học, và
nếu tổng kết theo nhận thức của người viết bài này,
nghĩ rằng cái tam giác nhận thức luận tạo ra bởi ba
tác giả tiêu biểu sau đây hẳn có thể có ích cho các
nhà sư phạm (và cả các quan chức quen dạy dỗ thần
dân):

Xin phép được diễn
giải. Tâm lý học manh nha từ lâu, thậm chí từ thượng
cổ, nhưng nó chưa bao giờ thành một khoa học. Chỉ vì
muốn thành một môn khoa học, phải xác định được
đối tượng nghiên cứu, thậm chí tìm được đơn
vị nghiên cứu nhỏ nhất, và kết quả nghiên cứu
phải kiểm chứng được - nhà khai sáng Immanuel
Kant còn thách thức thêm: Phải toán học hóa được.
May sao, đến thế kỷ
thứ 19, Wilhem Wundt nhà sinh lý học Đức đã tiến
hành những thực nghiệm sinh lý học người (đo những
phản ứng sinh lý của người trước nóng, lạnh, nặng,
nhẹ, nhanh, chậm, vv...) có sự tham gia của người
chịu thực nghiệm - và đó chính là bước đi đầu
tiên để tâm lý học thành bộ môn thực nghiệm, để trở
thành bộ môn khoa học.
Sau Wundt, bác sĩ
Alfred Binet người Pháp bắt đầu đo nghiệm trẻ em
độ tuổi đi học và nhà tâm lý Mỹ ông Edward
Thorndike tiến hành đo nghiệm rộng rãi trên động vật
để tìm ra quy luật tâm lý học của huấn luyện và
học tập và đến năm 1910 Thorndike đã có thể công
bố bài báo hết sức quan trọng về
Sự đóng góp của tâm lý
học cho giáo dục.
Cuộc hành trình
nghiên cứu tâm lý học từ châu Âu cuối thế kỷ 19 qua
châu Mỹ để kiểm nghiệm trên diện rộng theo lối "công
nghiệp", rồi lại đã quay trở lại châu Âu trong những
tổng kết của Jean Piaget hồi đầu thế kỷ 20. Trong
công trình tâm lý học của Piaget có cả lý thuyết và
thực nghiệm. Phần lý thuyết là con đường phát
triển nhận thức một cách tự nhiên của con người
từ khi lọt lòng.
Lý thuyết đó cho
thấy học tức là tự học của chủ thể - kể từ
việc học bằng bú, mút, sờ, nhai, cắn, ngửi... rồi
toét miệng cười... cho đến những thao tác học tập
phát triển từ những thao tác cụ thể (học và nhận
thức bằng "mó máy") đến những thao tác trừu tượng
(tạo ra biểu trưng và dùng biểu trưng).
 |
GS. Hồ Ngọc Đại |
Piaget đã mở trường
thực nghiệm mang tên Jean-Jacques Rousseau, ông đã
cho chính ba đứa con của mình vào học trường này -
để thực nghiệm sự tác động chủ động của nhà sư phạm
vào các giai đoạn phát triển - thực nghiệm tổ chức
cho trẻ em chiếm lĩnh các bộ môn trong giáo dục nhà
trường. Một cách làm được Albert Einstein khen là "giản
dị như một thiên tài"! Đó là lý do chọn Piaget
như một đỉnh của chân kiềng lý thuyết tâm lý học
giáo dục hiện đại.
Bây giờ ta sang
chân kiềng thứ hai với đại diện - theo dự kiến của
người viết - là Giáo sư Hồ Ngọc Đại.
Phải đặt Hồ Ngọc
Đại vào hệ thống tâm lý học Xô Viết. Cần nói về hệ
thống này và Hồ Ngọc Đại trong mối quan hệ tương tác
lẫn nhau. Cũng cần thấy, ngay cả sau khi rời Liên Xô
về nước và sau khi Liên bang này sụp đổ, thì Hồ Ngọc
Đại vẫn là người thuộc trường phái tâm lý học Xô
Viết.
Cái tương tác quan
trọng nhất giữa Hồ Ngọc Đại và trường tâm lý học này
diễn ra trong bối cảnh trường thực nghiệm
giáo dục phổ thông các lớp đầu cấp ở Moskva. Tại
đây, khác với ở Trường thực nghiệm Jean-Jacques
Rousseau của Piaget, thành tựu to lớn nhất của người
Nga là sự dũng cảm tổ chức cho trẻ em chiếm lĩnh các
khái niệm khoa học. Trên tư cách đó, bằng những
thành tích dạy trẻ em 6-7 tuổi người Nga chiếm lĩnh
toán học hiện đại, qua cả những tổng kết lý thuyết
của ông, Hồ Ngọc Đại đáng được coi là người thuộc
thế hệ nhà tâm lý học Xô Viết trẻ tuổi.
Tại Việt Nam, hoạt
động tâm lý học giáo dục của Hồ Ngọc Đại được triển
khai cả trong phòng thí nghiệm lẫn trên diện rộng,
điều chưa từng có ở tất cả các thế hệ nhà tâm lý học
trường phái Nga hoặc Xô-Viết. Thành tựu tâm lý học
giáo dục của Hồ Ngọc Đại ở Việt Nam từ năm 1978 tới
đầu thế kỷ 21 khi hệ thống Công nghệ Giáo dục đang
triển khai của ông bị yêu cầu dừng hoạt động. Thành
tựu do Hồ Ngọc Đại tạo ra không phải là số lượng học
sinh thực nghiệm ở 43 tỉnh và thành phố trong cả
nước. Cái đáng giá nhất của nó nằm ở chỗ khác: Nó đã
đưa ra được một định nghĩa mới cho vấn đề vẫn gọi
bằng lý
thuyết.
Xưa nay, khi nghĩ
tới lý thuyết, người ta thường nghĩ đến những
con người chững chạc ăn nói ề à, khi viết văn thì
chốc chốc lại có câu chú thích sách kinh điển - và
người ta gọi đó là "lý thuyết" cùng "nhà lý luận".
Bây giờ, với cách
làm việc mới như đã được Hồ Ngọc Đại triển khai, lý
thuyết được quan niệm lại: Đó là một định hướng
từ khi bắt tay vào việc với sự hình dung kết quả
cuối cùng và kết quả này được tạo ra trong suốt
quá trình hoạt động được đảm bảo bằng những
thiết kế khoa học - khách quan - để mở cho khả
năng điều chỉnh. Cái định hướng lý thuyết như
thế của Hồ Ngọc Đại là sự tìm tòi vào cách học
(thậm chí CÔNG NGHỆ HỌC) của trẻ em diễn ra
trong suốt quá trình TỰ HỌC của các em, được
dắt dẫn bởi những bản thiết kế được tạo ra một cách
khoa học, được thực thi một cách khách quan, và được
điều chỉnh thường xuyên (thông qua những "thửa ruộng
mẫu" -- demonstration plot -- hay là các
trường thực nghiệm) cho phù hợp với thực tại bao giờ
cũng năng động.
Và bây giờ ta sang
chân kiềng thứ ba có tên tuổi đại diện là Howard
Gardner.
Ông là tác giả của
một định hướng lý thuyết có tên là lý thuyết trí
khôn nhiều thành phần (Theory of Multiple
Intelligences, viết tắt là MI). Định hướng này công
nhận các thành tựu tâm lý học giáo dục đã hình
thành, trừ một nhược điểm to lớn của chúng: Tính
chất "tinh hoa - bác học" trong cách nhìn nhận trẻ
em.
Thực vậy, lý thuyết
MI phản đối cách "đo nghiệm" trẻ em chỉ bằng những
câu hỏi và nhận được những câu trả lời bằng cây bút
chì và tờ giấy trắng - đặc biệt coi trọng đưa lên
ngôi Vương cho trí khôn toán học. Lý thuyết MI cho
rằng trí khôn con người phong phú hơn thế rất nhiều,
và cũng uyển chuyển hơn thế rất nhiều.

Sơ đồ
7 loại trí khôn của Howard Gardner
Theo H. Gardner, và
quan điểm này đã được tất cả các nền giáo dục nào
muốn dân chủ hóa đến tận gốc rễ nhận thức của người
học, con người ta có ít nhất 7 thành phần trí khôn,
có người có đủ cả 7 thành phần, nhưng không nhất
thiết ai ai cũng cứ phải có đủ các thành phần đó thì
mới "khôn". Bảy thành phần đó là: Trí khôn ngôn
ngữ, trí khôn lôgich-toán, trí khôn âm nhạc, trí
khôn không gian, trí khôn cơ thể ở dạng động, trí
khôn cá nhân hướng nội, và trí khôn cá nhân hướng
ngoại.
Quan điểm này của
Gardner về trí khôn người làm đảo lộn quan niệm về
nhà trường vì cho rằng có những khi trí khôn con
người được hình thành ngay cả bên ngoài nhà trường
nữa. Quan điểm này đặc biệt ủng hộ sự đa dạng hóa
nhà trường không dựa trên giàu nghèo và địa vị xã
hội, mà dựa trên việc tổ chức một cách phù hợp
nhất năng lực tự nhận thức của người học.
Ngô Bảo Châu:
"Thông minh" và "trí khôn"
Bạn sẽ hỏi: như
trường hợp Giáo sư Ngô Bảo Châu, thì đó là "thông
minh" hay đó là "trí khôn"?
Theo cách hiểu nào,
ta cũng vẫn cứ có một Ngô Bảo Châu thông minh. Nhưng
theo một cách nhìn khác đi về trí khôn - và cái này
phải hỏi chính Ngô Bảo Châu thôi - rất có thể vị GS
trẻ trung đó sẽ "phiến diện" về một thành phần trí
khôn nào đó: Ta có quyền nghi ngờ Ngô Bảo Châu không
làm xiếc giỏi như Marcel Marceau chẳng hạn, nghĩa là
có thể thiếu cái trí khôn cơ thể ở dạng động... Biết
đâu đấy?
Suy luận kéo theo
nhận xét vừa rồi có thể như sau: Một hệ thống giáo
dục mà cứ bắt buộc ai ai cũng có kiến thức như nhau
và ai ai cũng chỉ có một con đường đi thi vào đại
học, là một hệ thống cho thấy các tác giả của nó còn
thiếu một thứ trí khôn nào đấy. Trí khôn cá nhân
hướng nội và hướng ngoại chẳng hạn.
Là cứ đoán thế,
biết đâu là chừng?!