Những
bài cùng tác giả
Thứ
Sáu 13 tháng 10 vừa qua không phải là một ngày xấu.
Những người nghèo trên khắp thế giới bấy lâu vẫn mang ơn giáo sư tiến sĩ
Muhammad Yunus và hệ thống ngân hàng Grameen của ông cuối cùng đã thấy rằng
“Trời cao có mắt”. Những người ngưỡng phục tấm lòng nhân ái, hành động vị
tha của vị giáo sư người Bangladesh cuối cùng đã mãn nguyện khi nghe tin
chính thức từ Ủy ban Nobel Na Uy (the Norwegian Nobel Committee) rằng giáo
sư Yunus và hệ thống ngân hàng Grameen do ông sáng lập đã được chọn để cùng
chia đôi giải thưởng Nobel Hòa bình 2006. Phải, người ta hẳn chưa quên rằng
từ nhiều năm trước, giáo sư Yunus đã từng được đề cử vào danh sách những
người xứng đáng để được thưởng giải Nobel danh giá. Rốt cuộc, thời gian đã
trả lời.
Trong lịch sử hơn 100 năm của giải Nobel Hòa bình (khởi đầu từ 1901), không
phải lúc nào giải thưởng này cũng có được tính thuyết phục đối với công luận
trên hoàn cầu. Tuy nhiên, năm nay thì khác hẳn. Phải nói rằng những ai có
công tâm và có biết đến sự nghiệp chống giặc nghèo đói của giáo sư Yunus
suốt từ 1976 tới nay đều tán thành quyết định đúng đắn của Ủy ban Nobel Na
Uy.
Giải thưởng được chia đều cho cha đẻ của Grameen và đứa con sáng giá của
Yunus. Điều ấy có nghĩa là những người bấy lâu cộng sự với lý tưởng của
Yunus cũng được đánh giá công trạng một cách xứng đáng. Không có họ, một
mình Yunus không thể nào trải rộng khắp tấm lòng của ông đến được với mọi
ngõ ngách tối tăm của dân nghèo trên thế giới. Yunus và Grameen đã nỗ lực
phi thường để tạo nên những sự phát triển kinh tế và xã hội tử tầng lớp dưới
cùng (to create economic and social development from below) – đó là lời
tuyên dương của Ủy ban Nobel Na Uy. Hòa bình bền vững không thể có được trừ
phi những số đông dân chúng tìm thấy những cách phá vỡ cảnh đói nghèo. Yunus
và Grameen đã mang đến phương tiện cho họ đột phá thông qua hình thức các
khoản tín dụng cực nhỏ (micro-credits).
Năm 1974, giáo sư đưa ra sáng kiến thành lập ở Bangladesh các “gram sarker”
tức là các chính quyền làng xã với sự tham gia của nông dân. Sáng kiến này
thực sự thành công và năm 1980 được chính phủ Bangladesh tiếp thu. Giáo sư
còn khai sáng ra hệ thống nông trang hợp tác gọi là “tebhaga khamar ”, mô
hình này được chính phủ Bangladesh áp dụng năm 1977, và năm sau (1978) giáo
sư được tổng thống Bangladesh trao giải thưởng về sáng kiến nông trại này.
Ngoài giải thưởng Central Bank (1985) của Bangladesh, ông còn được giải
thưởng cao quý nhất của đất nước là giải Ngày Độc lập (the Independence Day
Award, 1987).
Trước khi nhận giải Nobel Hòa bình, giáo sư Yunus còn được trao nhiều giải
thưởng quốc tế như: giải Ramon Magsaysay (1984: Manila, Philippines); giải
Kiến trúc Aga Khan (1989: Geneva, Thụy Sĩ); giải Khoa học Mohamed Shabdeen
(1993: Sri Lanka); giải Lương thực Thế giới của World Food Prize Foundation
(1994: Mỹ).
Thay vì một tiểu sử tỉ mỉ về cuộc đời hoạt động không mệt mỏi của giáo sư
Yunus để phụng sự người nghèo trên khắp thế giới, chúng ta có thể ghi nhớ
ước mơ của ông: “Một ngày nào đó con cháu chúng ta sẽ tới các viện bảo tàng
để thấy đói nghèo là như thế nào.”
Vâng, những con người nhân bản, những chiến sĩ hòa bình chỉ mơ ước một điều,
rằng nghèo đói sẽ trở thành hiện vật của viện bảo tàng chứ không còn là thực
trạng thương đau đang xói mòn hành tinh này.
Người nghèo Bangladesh
Tín dụng không thế chấp cho người nghèo
Sinh năm 1940, Mohammad Yunus nhận học bổng Fullbright
(1965) và lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại Viện đại học Vanderbilt (Mỹ). Đang
dạy đại học tại bang Tennessee, ông được mời về nước làm trưởng khoa Kinh tế
tại Viện đại học Chittagong (1972). Bấy giờ Bangladesh (147.570km2) vừa độc
lập (16-12-1971) sau 24 năm làm một tỉnh của Pakistan (từ 1947).
Hồi hương, ông hy vọng tràn trề nhưng chỉ thấy đất nước trượt nhanh xuống
dốc. Nạn đói khủng khiếp năm 1974 phơi xác đồng bào ông khắp đường phố. Đang
dạy môn kinh tế phát triển (development economics), tiến sĩ Yunus chua xót
nhận ra lý thuyết hàn lâm trong giảng đường không giống cuộc sống bên ngoài.
Ông quyết định tự học lại kinh tế bằng cách dấn thân để cọ xát thực trạng xã
hội và những mảnh đời nghèo đói của đồng bào trên quê hương ông.
Viện đại học Chittagong lọt thỏm giữa các ngôi làng ở đông nam Bangladesh.
Trút bỏ tư thế sang cả của vị giáo sư tiến sĩ, Yunus bình dị cuốc bộ từ
trường vào làng trò chuyện với dân quê, tìm hiểu lý do vì sao họ phải cam
chịu nghèo khổ suốt đời này sang đời khác.
Ông gặp một phụ nữ làm ghế tre chỉ kiếm được 2 xu sau khi quần quật cả ngày.
Chị giải bày: thiếu vốn mua tre, chị mượn tiền chủ
cửa hàng ghế tre, thế nên y mua lại thành phẩm của chị rẻ mạt, gần như ngang
giá nguyên liệu!
Yunus suy nghĩ: nếu được giúp vốn, có thể tùy ý bán sản phẩm cho chỗ nào cao
giá, chị ấy khỏi phải lao động theo kiểu nô lệ. Ông nhờ sinh viên đi khắp
làng điều tra và sau một tuần lập được danh sách 42 người cùng hoàn cảnh như
chị làm ghế. Chỉ cần một khoản “taka” (đồng tiền Bangladesh) bấy giờ tương
đương 30 Mỹ kim thì 42 người ấy khỏi bị bóc lột sức lao động.
Móc túi lấy ra 30 Mỹ kim, Yunus định giao sinh viên chia cho dân làng vay.
Nhưng ông chợt nghĩ lại: những người bần cùng khác nếu cần tiền sẽ không dám
tìm gặp ông, vì ông là giáo sư tiến sĩ, khoa trưởng ở viện đại học! Vậy phải
có ngân hàng tín dụng cho người nghèo.
Yunus tiếp xúc các chủ ngân hàng, nhưng hầu hết đều phì cười vì những khoản
vay quá nhỏ, tiền lãi không đủ bù đắp công sức và chi phí hành chánh của
ngân hàng. Yunus làm đủ mọi cách để thuyết phục họ, thậm chí còn tự nguyện
bảo lãnh một khoản tín dụng 300 Mỹ kim thử nghiệm và thực tế đã chứng minh
là nợ đều thu hồi đủ.
Tuy nhiên, vẫn không ngân hàng nào chấp nhận sáng kiến của Yunus, ông bèn
quyết định sẽ lập ngân hàng riêng để đích thân thực hiện mô hình tín dụng
cực nhỏ (micro-credit model) dành cho người nghèo. Giáo sư Tiến sĩ Mohammad
Yunus nói:
“… một khi được trao cho khả năng kinh tế thì người nghèo là những chiến sĩ
kiên định nhất trên mặt trận giải quyết vấn đề dân số, chấm dứt nạn mù chữ,
và sống lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn. Cuối cùng, khi những ai hoạch định chính
sách nhận thức được rằng người nghèo không phải là kẻ đứng ngoài, không phải
là thù địch, mà chính là bạn đối tác của mình, thì bấy giờ chúng ta sẽ tiến
nhanh hơn nhiều so với những gì đang làm hiện nay.”
“... the poor, once economically empowered, are the most determined
fighters in the battle to solve the population problem; end illiteracy; and
live healthier, better lives. When policy-makers finally realize that the
poor are their partners, rather than bystanders or enemies, we will progress
much faster that we do today.”
Dự án ngân hàng Grameen ra đời tại làng Jobra, Bangladesh (1976), rồi trở
thành ngân hàng chính quy do một đạo luật đặc biệt của chính phủ (1983).
Theo thống kê tháng 3-2005, Grameen do chính người nghèo vay nợ làm chủ
(chiếm 94% cổ phần), nhà nước chỉ có 6% cổ phần (2005); mô hình Grameen đã
lan ra hơn 50 quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Theo báo cáo tài
chánh ngày 13-9-2006, Grameen có tổng cộng 6.606.560 nhân viên (nữ chiếm
6.381.750 người), gồm 2.226 chi nhánh, hoạt động ở 71.371 ngôi làng. Trụ sở
chánh của Grameen hiện nay ở Dhaka (thủ đô Bangladesh).
Theo thống kê tháng 3-2005, Grameen có 4,35 triệu khách hàng (phụ nữ chiếm
96%), và 55% gia đình vay tín dụng đã vượt qua ngưỡng nghèo khổ. Tính từ năm
1976, tổng số “taka” cho vay tương đương 4,74 tỷ Mỹ kim; bình quân mỗi tháng
cho vay 39,48 triệu Mỹ kim (thống kê 2004).
Grameen cho vay các khoản cực nhỏ (micro-loans) không đòi thế chấp, không
yêu cầu người bảo lãnh, không buộc người vay ký các giấy tờ ràng buộc pháp
lý vì Yunus không chủ trương kiện những người không hoàn nợ, thế mà tỷ lệ
thu hồi tín dụng là 98,89%. Tính riêng tháng 8-2006, Grameen cho vay 68,71
triệu Mỹ kim, thu hồi nợ trong tháng này là 67,36 triệu Mỹ kim. Theo báo cáo
tài chánh ngày 13-9-2006, tỷ lệ thu hồi tín dụng là 98,85%.
Người cho vay bao giờ cũng muốn “nắm đằng cán”. Cái cán mà Yunus và Grameen
nắm chắc trong 30 năm qua chính là tấm lòng đối với những dân quê nghèo khổ.
Chính vì thế mà Grameen thành công rực rỡ dù đã phải gieo giống trên sỏi đá.
Những gian khó của Grameen được chính giáo sư Yunus tóm tắt như sau, khi tâm
sự với những người Việt Nam đầu tiên sang Bangladesh học hỏi kinh nghiệm của
Grameen: “Nếu lá rừng trên các châu lục có thể biến thành giấy, nếu nước
biển ở khắp các đại dương có thể biến thành mực, thì ngần ấy giấy mực cũng
không thể ghi hết những khó khăn mà ngân hàng Grameen đã phải trải qua.”
Nhà ở và học bổng cho người nghèo
Theo www.cia.gov/cia/publications/factbook, Bangladesh có 147.365.352 dân
(tháng 7-2006), lực lượng lao động nông nghiệp chiếm 63%. Năm 2004, số dân
sống dưới mức nghèo đói (population below poverty line) là 45%. Vì thế,
trong nhiều mục tiêu quan tâm, Yunus chú ý giúp dân nghèo có một mái nhà.
Tín dụng nhà ở (Housing Loan) vì thế đã sớm đi vào hoạt động. Riêng trong
tháng 8-2006, dân nghèo đã vay của Grameen 5,17 triệu Mỹ Kim cho khoản nhà
ở.
Muốn giải quyết tận căn cơ nạn nghèo đói còn phải lo nâng cao dân trí. Yunus
và Grameen vì thế đã lập quỹ cấp học bổng cho người nghèo. Tính từ khi thành
lập quỹ này, Grameen đã cấp 31.164 học bổng trị giá 0,39 triệu Mỹ kim (nữ
chiếm 18.269 người, trị giá 0,23 triệu Mỹ kim). Ngoài ra, học bổng dành cho
bậc đại học và sau đại học đã cấp cho 11.980 sinh viên, trị giá 4,9 triệu Mỹ
kim (nữ chiếm 2.357 người, trị giá 0,93 triệu Mỹ kim).
GS Yunus và mô hình Grameen tại Việt Nam
Năm 1993, Tổng thư kí APDC (Trung tâm phát triển Châu Á - Thái Bình Dương)
đã khuyến khích Việt Nam nên áp dụng đúng mô hình ngân hàng Grameen.
Năm 1995, lần đầu tiên giáo sư Yunus đến Việt Nam. Rời sân bay Nội Bài, ông
liền tới thăm chi nhánh số 1 Quỹ Tình thương tại huyện Sóc Sơn, ngoại thành
Hà Nội, sau đó là nhiều chi nhánh khác của Quỹ này. Sau đó, giáo sư Yunus có
hai lần đến Tp.HCM: tháng 5-2003 và tháng 6-2005.
Quỹ ủy thác của Grameen (Grameen Trust) từng cho Việt Nam vay 21.000 Mỹ kim
với lãi suất nhẹ để thực hiện mô hình Grameen và kèm theo một điều ghi nhớ
rằng: nếu làm thành công thì Grameen Trust sẽ tặng lại số vốn lẫn lãi.
Hai tổ chức ứng dụng phương pháp Grameen lớn của Việt Nam là Quỹ CEP (Quỹ
trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm tại Tp.HCM) và Quỹ Tình thương của
Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ VN). Cả hai lần lượt làm thành viên của hệ
thống Grameen toàn cầu, và cùng với Mạng lưới tài chính vi mô M7, hiện nay
ba tổ chức này đã ứng dụng, nhân rộng phương pháp Grameen tại 16 tỉnh với
130 ngàn hộ gia đình nghèo và rất nghèo từ miền núi phía bắc Sơn La, Điện
Biên Phủ, tới Bà Rịa, Long An…
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences. org
Dũ Lan Lê Anh Dũng
|