Những người không dám mơ có ngày được  Nobel

Vietsciences-Nguyễn Toàn       07/12/2004

 

Ralph Bunche (Hoà bình, 1950)

 Cha làm nghề hớt tóc, Ralph Bunche sinh 1903,  lúc 7 tuổi làm nghề giao hàng . 11 tuổi cha mẹ mất, làm công cho tiệm bánh mì, và được  bà ngoại -sinh ra làm nô lệ tại Texas- đem về  nuôi: "Đừng bao giờ gây chiến, nhưng  cũng đừng  thụt lùi trước  một cuộc  chiến nếu như con đúng lý"

Cũng đứa cháu người nô lệ đó sẽ được  nổi bật nhờ học xuất sắc và can đảm. Vừa làm vừa học và đậu Master năm 25 tuổi, tiếp theo đậu Tiến sĩ về Giao thiệp quốc tế. Là người da đen đầu tiên đậu tiến sĩ ở Havard. Là người đứng  hàng  đầu trong  cuộc  hòa giải cuộc xung đột ở Palestine và  ký  kết hòa  bình  (1948)

 

Rigoberta Menchu Tum (Nobel hòa bình năm1992).

Biết ơn về  việc  làm vì công  bằng xã hội và văn hoá dân tộc  trên  cơ bản tôn trọng quyền lợi thổ dân, Rigoberta Menchu Tum được  lãnh giải Nobel hòa bình năm1992. Người con gái da đỏ trẻ tuổi thất học, bị  lưu vong đến Mexique để  tránh những  cuộc  hành hạ, đã sinh ra trong  một gia đình nông dân không  đất đai, chỉ sống  lây lất nhờ trồng bắp trên vài mảnh đất nhỏ  trên sườn  núi khô  cằn.. Với năm anh chị em, cô  bé 8 tuổi đã  đi hái cà phê và  làm nghề nông  từ đồn điền  này đến đồn điền  khác.

Bà tặng hết giải thưởng  của mình cho tất cả  những ai đã  hiến cuộc đời của  họ cho Guatamala trở thành  đất nước công bằng. Từ năm 1996 bà là đại sứ tình nguyện cho U.N.E.S.C.O., bà  tranh đấu cho nền  tự do của  những  dân  tộc bản xứ (autochtone)

 

Grazia Deledda (văn chương, 1926)

là con gái trong gia đình mà cha mẹ đều thất học như số đông dân tộc Sardaigne  thời bấy giờ. Vị cha xứ trong làng giúp bà khám phá dụng cụ chữ viết. Văn hóa  và truyền thống xứ Sardaigne là căn bản của  tác  phẩm của bà, được nuôi bằng tuổi thơ và tài quan sát bén  nhạy.

 

 

 

Alva Mirdal (Hoà bình, 1982)

con gái một nhà khai thác nông nghiệp, Alva Mirdal rất ham đọc sách và theo đuổi việc học. Cha mẹ bà từ chối không cho bà  mượn sách thư viện vì sợ thiếu vệ sinh. Vậy là đằng sau tiệm sách của một người bạn, bà tha hồ đọc thỏa thích. Lúc nào cũng đi ngược với ý  kiến của cha mẹ, bà đã giữ chức vụ tuyệt đẹp tại U.N.E.S.C.O. đại sứ rồi bộ trưởng bộ Giải trừ quân bị (1966-1973) trong chính quyền Thụy Điển. Và  bà được giải Nobel hòa bình cho cuộc đấu tranh vĩnh viễn cho sự giải trừ quân bị: Bỏ cuộc không xứng đáng  làm người.

 

 

Wladyslaw Reymont (văn chương, 1924)

 Wladyslaw Stanislaw ReymontReymont kể cho chúng ta nỗi đam mê đọc sách  và viết của ông: Lúc sáu tuổi, (...) tôi khám phá  ra thư viện nhà thờ xứ có những cuốn sách vô cùng  hay. (...) tôi giấu sách dưới áo và đọc  bất cứ chỗ nào tôi có thể (...) Lúc  22 tuổi (...) tôi phải ở nguyên ngày ngoài trời để trông coi thợ thuyền, chiều và tối thì ở trong  căn  phòng  lạnh cóng đến  nỗi tôi phải trùm mền kín để viết và phải hơ hũ  mực  trên ngọn đèn để nó khỏi đông. (1891).

Sau hai năm trong những điều kiện khó khăn như vậy, ông đã in ra 6 quyển sách (1893)... và  cơ quan đường sắt sa thải ông vì họ cần người thợ chớ không  cần  nhà văn. Ông  phải trải qua  môt thời kỳ khốn khổ và  lang thang. Được  báo Le Quotidien  của Varsovie thu nhận để viết về  chuyến hành hương tại Czestochowa (1895), Bài phóng sự của ông gây sự chú  ý của giới phê bình.Cuối cùng nghề văn chương đã mở rộng cửa cho ông. Tác phẩm Les paysans (Những người nông dân) đã làm ông nổi tiếng thế giới.

 

© http://vietsciences.free.fr  Nguyễn toàn