Việt kiều với sự phát triển công nghệ cao của Việt Nam

Vietsciences- Hoàng Xuân Bình - Hoàng Đông Quang      02/02/2008

 

Hội thảo chuyên gia Việt kiều 2007

Hoàng Xuân Bình

Việt Nam đang trên đường hiện đại hóa nền công nghiệp dựa vào sự phát triển và ứng dụng công nghệ cao. Bài viết đề cập tới một số kinh nghiệm của các nước Đông Âu trong lĩnh vực này để  tham khảo, cũng như  biện pháp phát huy tiềm năng Việt kiều hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hóa nền công nghiệp Việt Nam.

Mục tiêu phấn đấu của Việt Nam đến năm 2010 sẽ thoát nghèo và đến năm 2020 là quốc gia có nền công nghiệp hiện đại.  Từ thực tiễn, Việt Nam  kỳ vọng sẽ có  những đột phá bằng chiến lược phát triển, ứng dụng công nghệ cao - một lĩnh vực có hàm lượng trí thức lớn, tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh trong nền kinh tế trí thức và hội nhập toàn cầu.

 

Kinh nghiệm của các nước Đông Âu.

Cũng như Việt Nam, các nước Đông Âu từ những năm 90 đã có chính sách công nghiệp hóa đất nước dựa vào phát triển nền công nghệ cao. Ban đầu, một mặt tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật cao, mặt khác các công ty trong nước tập trung sản xuất các sản phẩm tận dụng lao động rẻ và đáp ứng nhu cầu đang thiếu và còn thấp của thị trường nội địa. Nhà nước tập trung ưu tiên cho một số ngành công nghiệp trọng điểm. Sau khoảng 10 năm thực hiện, chính sách này không tạo động lực chung để thúc đẩy tất cả các ngành công nghiệp. Nhất là hiện đại hóa công nghệ (nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuất mới), bảo vệ môi trường, phát triển tiềm năng trí thức, đồng thời hạn chế sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp từ các doanh nghiệp nội địa. Ngành công nghiệp cần khắc phục những nhược điểm như: Lạc hậu về kỹ thuật và mức độ sáng tạo thấp. Ít sản phẩm có hàm lượng cao về chất xám. Thiếu nguồn lao động có trình độ cao, khó khăn tiếp nhận thị trường lao động từ ngoài. Các luật pháp, quy chế phức tạp, không rõ ràng, nhiều hạn chế về bộ máy quản lý hành chính. Chưa hoàn thiện các quy chế bảo vệ sở hữu trí tuệ công nghiệp. Ít các cơ sở nghiên cứu, đầu tư, phổ cập xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường v.v

Chuẩn bị cho gia nhập EU, các nước Đông Âu có sự thay đổi chính sách phát triển công nghiệp theo hướng: Tạo cơ chế, điều kiện hỗ trợ chung cho tất cả các ngành công nghiệp, không phân biệt lĩnh vực và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Chính sách hỗ trợ bằng cơ chế tài chính (có thể từ các quỹ của EU) hay các cơ chế phi tài chính bằng cách thay đổi luật pháp, quy định hiện hành cản trở sự phát triển kinh tế. Chính sách chung của chính phủ tập trung cải tiến và hỗ trợ cho các hướng sau:

- Nghiên cứu, phát triển khoa học, sự sáng tạo. Thực chất là gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp. Hỗ trợ các xí nghiệp vay vốn hiện đại hóa công nghệ hay thành lập các cơ sở nghiên cứu sáng chế. Đặc biệt với các dự án tiết kiệm năng lượng, sử dụng vật liệu mới, hạn chế ảnh hưởng môi trường, tăng thêm lao động. Hỗ trợ tài chính cho các cơ sở khoa học nghiên cứu theo yêu cầu của các xí nghiệp. Tăng cường hợp tác khoa học với các cơ sở nước ngoài. Hỗ trợ, khuyến kích các sinh viên, nghiên cứu sinh tham gia hoạt động khoa học để phát triển công nghiêp. Tăng thêm các quỹ đầu tư cho sáng chế, nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ mới v.v.

-  Phát triển kỹ thuật tin hoc và truyền thông.  Hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tin học trong sản xuất và điều hành. Thành lập các trung tâm dịch vụ hiện đại, các trung tâm IT. Xây dựng hệ thống đồng bộ về hạ tầng tin học, thông tin, phục vụ kinh tế, xã hội, chương trình chính phủ điện tử.

- Đào tạo lao động. Thực hiện chuẩn hóa lao động theo tiêu chuẩn chung của EU. Có chiến lược đào tạo lao động, nâng cao trình độ cho người lao động qua các chương trình học ngắn hạn, dài hạn. Tăng cường chất lượng giáo dục trong nhà truờng ở mọi cấp học. Gắn đào tạo với thực tế, ứng dụng các công nghệ mới trong giáo dục, đào tạo. Tạo thêm cơ hội cho người khuyết tật có chỗ làm việc.

- Bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển công nghiệp bền vững. Đảm bảo lợi ích giữa kinh tế và bảo vệ môi trường. Khuyến khích tiết kiệm và sử dụng các nguồn năng lượng mới. Xây dựng cơ chế quản lý và sử dụng các nguồn vật liệu tự nhiên, tài nguyên môi trường, đặc biệt là nguồn nước. Hình thành các quỹ đầu tư, nguồn tài chính hỗ trợ cho các nghiên cứu ứng dụng công nghệ, vật liệu mới trong công nghiêp thân thiện với môi trường v.v.

- Phát triển thị trường, thúc đẩy đầu tư. Hỗ trợ cho các xí nghiệp tìm kiếm thị trường quốc tế. Giúp tư vấn, đào tạo nhân viên bán hàng ở nước ngoài. Giúp nghiên cứu thị trường nước ngoài, tham gia hội chợ quốc tế, xây dựng hệ thống dịch vụ điện tử phục vụ các doanh nghiệp. Có chính sách thu hút đầu tư trong các ngành công nghiêp cao. Hỗ trợ cho vay vốn đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao v.v.

- Bảo vệ trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp bảo vệ sở hữu công nghiệp, sở hữu bản quyền tác giả, sở hữu thương hiệu sản phẩm trong nước và quốc tế. Kiên quyết chống các hiện tượng vi phạm bản quyền, làm hàng nhái, hàng giả v.v.

- Phổ cập và chỉnh lý hệ thống luật pháp, quy chế. Xác định các văn bản pháp luật đúng đắn là nguyên nhân cơ bản giúp sự phát triển các ngành công nghiệp nội địa và thu hút đầu tư. Các văn bản cần rõ ràng, thực tế, công khai và luôn có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

- Tiệm cận và sử dụng nguồn vốn. Sử dụng được các nguồn vốn sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Thông thường các ngân hàng ít chú trọng cho vay vốn để doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới. Để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư hiện đại hóa công nghệ, ứng dụng khoa học, Nhà nước có các chính sách ưu tiên về thuế, hình thành cơ chế hỗ trợ từ các nguồn vốn ưu đãi, ngân sách nhà nước và các quỹ tư nhân. Ngoài ra các doanh nghiệp còn có thể tận dụng những nguồn tài chính từ các chương trình chung của EU hay các quỹ  của EU (như quỹ đầu tư Châu Âu – Group EBI) giúp doanh nghiệp đầu tư, hiện đại hóa công nghệ và mở rộng thị trường v.v.

 

Công nghệ cao của Việt Nam

Từ thực tiễn của các nước Đông Âu cho thấy, việc xác định chủ trương, biện pháp đúng là nhân tố quan trọng để phát triển công nghệ cao và ứng dụng chúng. Chủ trương này có thể được xây dựng trên một số quan điểm:

- Xây dựng chính sách, cơ chế bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế đựơc hưởng lợi từ những hỗ trợ ưu đãi của Nhà nước trong lĩnh vực công nghệ cao và ứng dụng chúng.

- Phát triển công nghiệp hiện đại trên nền tảng công nghệ cao vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu chung của mọi người.

- Cần phát huy tiềm năng nội lực của dân tộc, trên cơ sở đảm bảo những tiêu chuẩn chung của quá trình hội nhập kinh tế, hội nhập khu vực.

Thông thường để phát triển công nghệ cao, cần tập trung vào 3 khâu quan trọng:

- Thu hút đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao.

- Nghiên cứu khoa học, đào tạo các chuyên gia, công nhân kỹ thuật trong lĩnh vực công nghệ cao.

- Ứng dụng công nghệ cao trong các hoạt động kinh doanh, sản xuất, quản lý xã hội và đời sống.

Các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao mong muốn có các điều kiện hạ tầng tốt, khả năng cung cấp lao động theo yêu cầu và cơ chế chính sách ưu đãi, phù hợp. Đồng thời còn tính đến khả năng cung ứng các phụ kiện, vật liệu để sản xuất sản phẩm cạnh tranh và tiềm năng tiêu thụ trong thị trường nội địa hay khu vực.

Hiện nay Việt Nam đang hình thành 2 khu công nghệ cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cần có sự phối hợp và định hướng các lĩnh vực đầu tư để phát huy được tiềm năng của mỗi địa phương, tránh sự dàn trải, lãng phí và cạnh tranh nội địa. Hơn nữa nên có quy hoach tổng thể, nhất là cụm các khu công nghiệp vệ tinh phụ trợ cho mỗi khu công nghệ cao để hình thành khu công nghiệp liên hoàn nhằm tiết kiệm cho sản xuất, thuận lợi nghiên cứu, đào tạo nhân lực.

Do đặc thù của mình, hàm lượng chất xám trong các sản phẩm công nghệ cao hay ứng dụng chúng sẽ là yếu tố quyết định chất lượng, giá thành của sản phẩm. Vì vậy mỗi đơn vị nghiên cứu, đào tạo, mỗi doanh nghiệp cần chủ động liên kết, hợp tác và cùng hưởng lợi từ kết quả sáng tạo ra các sản phẩm của mình.

Để có nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển lĩnh vực công nghệ cao, ngoài nguồn vốn từ ngoài (như ODA), ngân sách nhà nước, đặc biệt tập trung huy động vốn nội địa. Có chính sách thu hút vốn của các doanh nghiệp, người dân đầu tư cho sản xuất (không nên để đọng vốn cho đầu cơ về bất động sản), xây dựng thị trường chứng khoán phát triển bền vững, lành mạnh.

Có thể đề xuất một số biện pháp thúc đẩy phát triển công nghệ cao của Việt Nam:

- Họach định chính sách chung của Nhà nước về chiến lược phát triển công nghệ cao và lộ trình thực hiện. Công bố chính sách để mọi thành phần kinh tế, người dân tham gia góp ý.

- Quy họach tổng thể phát triển hạ tầng cơ sở cho ngành tin học, viễn thông, truyền hình. Huy động các thành phần kinh tế cùng đầu tư xây dựng hạ tầng này để mọi doanh nghiệp, đơn vị khoa học và người dân đều được hưởng lợi và nâng cao dân trí.

- Hình thành cơ chế liên kết khoa học với doanh nghiệp. Đảm bảo quyền tự quyết, tự hạch toán và quyền lợi của các bên cũng như sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu.

- Tuyên truyền rộng rãi để mỗi người dân hiểu biết về công nghệ cao, phát huy ý thức dân tộc, khuyến kích sáng tạo, giúp định hướng nghề nghiệp, tự đào tạo mình.

- Thành lập các trung tâm giới thiệu sáng kiến, công nghệ, các trung tâm triển lãm, môi giới chuyển giao công nghệ, đào tạo, cung cấp chuyên gia.

- Huy động tài chính, phân bổ ngân sách nhà nước, các quỹ đầu tư, ngân hàng hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao và ứng dụng công nghệ mới.

 

Việt kiều với sự phát triển công nghệ cao của Việt Nam.

Việt kiều  có thể đóng góp được gì cho sự phát triển công nghệ cao Việt Nam dựa trên những tiềm năng của mình? Tiềm năng đó là vốn đầu tư, tri thức, khoa học kỹ thuật và cầu nối quốc tế.

Đa số Việt kiều sống và làm việc tại nước ngoài, một số ít doanh nghiệp hay trí thức Việt kiều có điều kiện trực tiếp về đầu tư hay làm việc trong nước. Khai thác tiềm năng vốn, trí thức của Việt kiều nên dựa vào khả năng huy động từ xa làm gốc. Việt kiều hiểu rõ về ưu thế và lợi nhuận khi đầu tư vào các công ty, xí nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao hay ứng dụng chúng, nên có thể đầu tư trực tiếp hay gián tiếp (qua thị trường chứng khoán) vào các công ty này. Mặt khác cần quảng bá những công ty Việt kiều, công ty liên doanh nước ngoài đang đầu tư tại Việt Nam trong lĩnh vức công nghệ cao, để có thể huy động vốn của Việt kiều tại nước ngoài ”*”.

Một lợi thế quan trong của Việt kiều là tiềm năng về trí thức trong lĩnh vực công nghệ cao. Sớm hình thành cơ chế và điều kiện để huy động các trí thức Việt kiều, các doanh nhân trí thức hợp tác với các cơ sở khoa học trong nước. Giúp đào tạo, nghiên cứu khoa học, hỗ trợ chuyển giao công nghệ mới. Giúp các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hay quảng bá giới thiệu và tiêu thụ các sản phẩm của Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Tạo điều kiện và phương tiện để các trí thức Việt kiều (nhất là các trí thức về hưu) có điều kiện tiếp tục làm việc ngắn hạn hay lâu dài tại Việt Nam.

Từ những tiềm năng trên có thể đề xuất một số biện pháp cụ thể:

- Xây dựng hệ thống dữ liệu về Việt kiều. Trước hết cần thành lập danh sách các trí thức, doanh nhân trí thức, các doanh nhân thành đạt của Việt kiều tại mỗi nước. Danh sách này phân theo các chuyên ngành, lĩnh vực hoạt động để dễ liên lạc với nhau, với các đơn vị trong nước. Hình thành bộ phận điều phối chung tại Việt Nam (như Câu lac bộ trí thức Việt kiều, Hội doanh nghiệp, Phòng thương Mại Việt Nam, Ủy ban về nguời Việt Nam ở nước ngoài). Các dự án, chương trình nghiên cứu,  góp ý, phản biện, các lĩnh vực kinh doanh cần sự phối hợp, hợp tác của Việt kiều sẽ đươc ban điều phối kết nối và giúp đỡ thực hiện.  

- Huy động vốn. Nên thành lập trang Web của các dự án, các đề tài cần sự đầu tư hay liên kết, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao. Qua đó giúp Việt kiều trực tiếp hay gián tiếp tìm kiếm đối tác để đầu tư. Đối với các dự án lớn (như dự án quy họach, xây dựng hệ thống hạ tầng tin học, viễn thông của Việt Nam, đặc biệt tại các vùng nông thôn, miền núi), nên trực tiếp giới thiệu cho Việt kiều và hợp tác cùng thực hiện. Sớm hình thành cơ chế liên kết, đại lý của các quỹ đầu tư Việt Nam, đại lý của các công ty chứng khoán Việt Nam tại nước ngoài. Khi đó Việt kiều dễ dàng tham gia đầu tư thông qua thị trường chứng khoán của Việt Nam. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt kiều trong cùng lĩnh vực kinh doanh liên kết để thực hiện các dự án đầu tư chung tại Việt Nam.

- Huy động tiềm năng trí thức, khoa học. Đối với các trí thức đã về hưu nên có chính sách và tạo điều kiện để họ tiếp tục tham gia làm việc, nghiên cứu khoa học, đào tạo tại Việt Nam. Với các trí thức khác cần động viên họ tham gia các chương trình đào tạo ngắn hạn, nghiên cứu, góp ý, phản biện cho các dự án, quy hoạch, đề tài khoa học tại Việt Nam. Cần hình thành  trung tâm giao lưu khoa học và đào tạo ngắn hạn tại Việt Nam để các trí thức Việt kiều, các nhà khoa học quốc tế thuận lợi khi tới làm việc tại Việt Nam. Sớm thực hiện dự án xây dựng làng trí thức Việt kiều “**”.

- Vai trò cầu nối quốc tế. Vai trò cầu nối quốc tế của Việt kiều bao gồm cả việc giới thiệu các dự án, giúp tìm kiếm các các nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao hay nghiên cứu khoa học. Mặt khác hợp tác với  các doanh nghiệp trong nước để tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp Việt Nam ra thị trường nước ngoài. Thông qua Việt kiều tìm kiếm các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, tài chính hỗ trợ đào tạo chuyên gia tại Việt Nam, giúp các sinh viên, nghiên cứu sinh, nhà khoa học sang học tập, nghiên cứu tại các nước. Nên hình thành các phòng thương mại song phương giữa Việt Nam với các nước, trong đó có sự tham gia của các doanh nghiệp Việt kiều. Thành lập các trung tâm môi giới, chuyển giao công nghệ và các dự án sáng tạo có sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của các doanh nghiệp, trí thức Việt kiều để thu hút đầu tư hay xuât khẩu sản phẩm trí tuệ.

Phát triển nền công nghiệp hiện đại trên nền tảng phát triển, ứng dụng công nghệ cao là con đường tối ưu để Việt Nam trở thành nước công nghiêp. Để thành công cần có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, của mọi người dân. Hy vọng với những tiềm năng của mình, Việt kiều góp phần tích cực cho sự phát triển lĩnh vực công nghệ cao, vì sự phồn vinh của đất nước.

Vác sa va 14-12-2007.

Tài liệu tham khảo:

“ * “: Việt kiều với sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Tham luận  Hội thảo doanh nghiệp Việt kiều tại Đà Năng 20/09/2006 – TS. Hoàng Xuân Bình, Ths, Hoàng Đông Quang (Cộng hòa Ba Lan).

“ ** “: Dự án xây dựng Trung tâm đào tạo và giao lưu khoa học quốc tế “ Gặp gỡ Việt Nam”-  02/2006. GS. Trần Thanh Vân ( Cộng Hòa Pháp); TS. Hoàng Xuân Bình ( Cộng hòa Ba Lan).

 

TS. Hoàng Xuân Bình – Chủ tịch Business & Investment Group ASEANEU ( Ba Lan)

Ths. Hoàng Đông Quang – Chủ tịch quỹ quảng bá các thành phố ( Ba Lan)

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org