Có
2 loại trong hiện tượng lạm phát giả thuyết: Một để tuyên
truyền và 1 vì không nắm vững về phương pháp khảo cứu gọi là
phương pháp luận. Có 2 trường phái rõ rệt. Descartes và
Bacon. Trước khi tìm hiểu 2 trường phái này, chúng tôi sơ
lược những yếu tố cần thiết trong việc lập lý thuyết.
I - Đối thuyết:
Một giả thuyết là một giải thích có hệ thống cho một nhóm dữ
kiện liên hệ. Một đối thuyết là một cách giải thích khác cho
nhóm dữ kiện ấy, kết quả ấy, sự kiện ấy. Thường thường giả
thuyết là một phát biểu nhân quả: dữ kiện cho thấy X gây ra
Y hoặc B xảy ra nếu A hiện diện. Điều quan trọng phải nhớ
rằng trong lãnh vực của giả thuyết và giải thích, dữ kiện tự
nó không nói lên điều gì cả; chúng phải được chuyển dịch
(nôm na là cắt nghĩa). Việc chuyển dịch liên quan đến nhiều
trở ngại, gồm thiên kiến thí nghiệm, sự lẫn lộn nhân quả và
mẫu vật nghiên cứu không được thu thập một cách ngẫu nhiên
(non-random sampling).
Cơ nguy của việc chỉ có một giả thuyết:
Nếu chúng ta tự hạn chế trong một giả thuyết độc nhất, chúng
ta sẽ bỏ sót các dữ liệu không thích đáng nếu nó không chứa
đựng sự giả chân của lý thuyết. Tuy nhiên, những dữ liệu ấy
có thể hàm chứa tính đúng sai nếu ta có thêm một giả thuyết
khác.
1- Vài chứng cớ sẽ bị bỏ rơi. Nếu chúng ta tập trung trong
một lý thuyết độc nhất, chúng ta sẽ bỏ sót bất cứ dữ kiện
nào không liên hệ đến tính xác thực của giả thuyết.
Ví dụ:
Nếu chúng ta cho rằng không có ngôn ngữ Việt Nam mà chỉ có
ngôn ngữ Đông Nam Á, chúng ta sẽ tập trung vào việc thu thập
những chứng cớ giúp thiết lập hay bác bẻ giả thuyết vì chúng
không thích đáng. Do đó chúng ta có lẽ bỏ sót sự kiện không
liên hệ. Mặt khác, một trong những giả thuyết cho rằng ngôn
ngữ Việt Nam và Trung Hoa có những liên hệ mật thiết hơn thì
những khúc chiết khó giải thích trong ngôn ngữ Đông Nam Á sẽ
không bị bỏ sót.
2. Chúng ta có thể tin tưởng một cách mù quáng vào giả
thuyết của chúng ta vì cảm tính. Ý tưởng thương yêu súc vật
không giới hạn trong việc tìm đáp án, dĩ nhiên là thế. Khi
nào nó xảy ra, kẻ thương yêu súc vật bắt đầu tìm kiếm và
chọn lọc chỉ những chứng cớ nâng đỡ giả thuyết của mình, bất
kể hay vô tình gạt bỏ những dữ liệu chống tình yêu súc vật.
Cho thí dụ, đây là một câu chuyện: tôi
nuôi một con chó và sinh lòng yêu thương nó. Để con chó
ngoài sân, đặt một tấm bảng :”Đẩy cửa vào mà ăn cơm”, con
chó biết đường vào nhà ăn. Tôi
làm một thí nghiệm khác. Cũng để con chó ngoài sân nhưng lần
này ta treo tấm bảng bằng Anh ngữ
“Come this way for lunch”, con
chó cũng biết đường vào nhà. Chưa hết, khi
tôi bịt mắt con chó, vì không đọc được chữ, con chó
không vào nhà. Tôi kết luận rằng con
chó thông thạo 2 ngôn ngữ, bất kể rằng chẳng để tấm bảng
nào, nó cũng sục sạo tìm cho được đồ ăn vì trong tiềm thức,
tôi không muốn làm thí nghiệm để tấm
bảng không có chữ. Nó đi ngược với lòng thương yêu con chó
của tôi. Ngoài ra, tôi lờ đi việc con chó không vào nhà vì
khi bịt mắt, nó không nhìn thấy cửa ra vào chứ không phải
không đọc được chữ.
II - Luật đề xuất và thử nghiệm giả thuyết.
1. Giả thuyết phải biện minh mọi dữ kiện thích đáng. Một
giải thích chỉ cắt nghĩa một phần dữ kiện hoặc trái ngược
với một sự kiện chủ yếu, thì không phải là một giải thích
thỏa đáng. Nên nhớ, đặc biệt lúc bắt đầu, mọi cắt nghĩa đều
vướng những vấn đề và chứa đựng vài dữ kiện có vẻ đối
nghịch. Sự thực được lọc lựa, và làm sáng tỏ hơn một khi ta
có được những dữ kiện tốt hơn. Vì vậy không nên loại bỏ tất
cả chỉ lưu lại những dữ kiện hoàn hảo. Biết đâu khi ta càng
đào sâu vào công trình nghiên cứu, những dữ kiện có vẻ dư
thừa ấy lại vừa vặn lọt vào trong lý thuyết của ta.
2. Những giải thích đơn giản thường đúng hơn những giải
thích phức tạp. Đây là nguyên tắc của
Occam's Razor. Nguyên
tắc Occam's Razor như sau. Những thực thể không được bội
thừa nếu không cần thiết. Sự cắt nghĩa đòi hỏi những xác
định đơn sơ nhất thường là cái đúng. Nói cách khác, khi 2
hay nhiều cắt nghĩa đáp ứng được tất cả yêu cầu cho một cắt
nghĩa thỏa đáng của cùng nhóm hiện tượng, cái đơn giản nhất
chính là cái đúng. Luật này được William of Occam (~1285-~1348; còn
viết là Ockham) đề ra, một triết gia Anh thế kỷ 14.
Nó không hoàn toàn đúng hẳn nhưng đó là ý tưởng hữu ích.
3. Nhiều giả thuyết thường đúng hơn ít. Nhiều sự việc có thể
xảy ra; nhưng ít sự việc có lẽ xảy ra. Có thể những phi hành
gia thượng cổ xây dựng kim tự tháp Ai Cập nhưng có lẽ người
Ai Cập tạo nên.
4. Kết quả rút ra từ giả thuyết phải phù hợp với chứng cớ.
Nếu bạn lập giả thuyết rằng một quả bom phá hủy một phi cơ
và làm cho nó bị rơi, bạn phải kỳ vọng tìm thấy mảnh vụn quả
bom như là kết quả của giả thuyết. Khi bạn bắt đầu đọc những
sự kiện phù hợp với lý thuyết, có lẽ bạn không ngăn được ý
tưởng :” Tại sao, phải, nó phải như vậy.” Tuy nhiên, khi bạn
bỏ công nghiên cứu (hay ngay cả bỏ thì giờ tự tạo ra một lý
thuyết) một vài đối thuyết – giả thuyết đầu đột nhiên kém
thuyết phục. Giống như nhiều sự việc khác trong đời sống,
khi bạn chỉ có độc nhất một chọn lựa, nó có vẻ là một chọn
lựa đúng; nhưng khi bạn có nhiều chọn lựa, “khẩu vị của bạn
thêm phần tinh tế. Kinh Thánh cũng có đoạn : “Kẻ đầu tiên
trình bày trường hợp của mình có vẻ đúng, cho đến khi người
khác bước ra và nhận xét anh ta” (Proverbs 18:17).
Khi bạn bắt đầu suy tưởng một giả thuyết cho một chuỗi dữ
kiện, hãy tự hỏi: “Có những dữ kiện nào khác liên hệ có thể
biện minh cho kết quả?
Những thủ thuật tìm đáp án.
1. Bỏ thì giờ xem xét và thăm dò vấn đề thật kỹ trước khi
bắt tay vào việc tìm giải pháp. Thông thường, hiểu vấn đề ắt
giải quyết được vấn đề.
2. Chia vấn đề thành những phần nhỏ thường dễ tìm ra giải
pháp hơn. Giải quyết từng vấn đề riêng biệt.
3. Manh mối giải quyết vấn đề phải to lớn và ở khắp nơi.
4. Bạn luôn có thể làm được điều gì đó.
5. Một vấn đề không phải là một điều trừng phạt; nó là một
cơ hội gia tăng hạnh phúc nhân loại, một dịp may chứng tỏ
năng lực của bạn.
6. Công thức của một vấn đề khẳng định tầm mức chọn lựa :
câu hỏi của bạn quyết định câu trả lời bạn lãnh nhận.
7. Cẩn thận đừng tìm một đáp án cho đến khi hiểu rõ vấn đề
và cẩn thận đừng chọn một giải pháp cho đến khi bạn có đủ
mọi phương án chọn lựa.
8. Phát biểu sơ khởi của một vấn đề thường phản ảnh một giải
pháp nặng định kiến.
9. Sự chọn lựa càng phong phú (ý tưởng, các giải pháp khả
thí…) cho phép bạn chọn cái tốt nhất, hợp lý nhất vì chọn
một món trong một sự chọn lựa chỉ có một thì không phải là
một chọn lựa.
10. Người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng và giải pháp của họ
tốn công sức hơn người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng, giải
pháp của người khác.
11. Nên nhớ điều quan trọng nhất trong việc khảo cứu, tìm
giải pháp. Một giải pháp tinh xảo, tân kỳ nhưng ngu dại mặt
xã hội không phải là giải pháp tốt. Ví dụ chế ra thuốc trị
bịnh AIDS bằng máu trẻ em chắc không được hoan nghênh.
12. Khi tình trạng chót đã rõ ràng nhưng tình trạng hiện tại
còn mờ mịt, hãy lần dò ngược lại.
13. Kẻ chần chờ là người kết thúc sau chót.
14. Bác bỏ một vấn đề không giải quyết vấn đề đó. Thực ra,
nó làm cho vấn đề đó tồn tại và ngăn trở việc tìm giải pháp.
15. Giải quyết vấn đề thực sự hiện hữu, không phải triệu
chứng của vấn đề, không phải vấn đề bạn đã có đáp án, không
phải vấn đề bạn mong muốn hiện hữu và không phải vấn đề vài
người nào đó tin rằng hiện hữu.
16. Một nhà chế tạo thi hành một kế hoạch; một nhà sáng tạo
sản xuất một kế hoạch.
17. Sự sáng tạo là xây dựng cái mới từ cái cũ bằng nỗ lực và
trí tưởng tượng.
Có 2 phương pháp xây dựng lý thuyết: diễn dịch của
Rene
Descartes và quy nạp của Francis Bacon.
Rene Descartes (1596-1650)
Ta hẳn biết triết lý và toán học hiện đại khởi đầu bằng công
trình của Rene Descartes. Phương pháp phân tích về suy luận
tập trung vào vấn đề nhận thức luận (epistemology, nghĩa là
chúng ta biết như thế nào), vốn là mối ưu tư của các triết
gia từ đó. Descartes đã theo học ở trường nổi tiếng Jesuit
of La Fleche, đã thụ huấn về triết, khoa học và toán. Ông có
một chứng chỉ luật và sau đó tình nguyện gia nhập quân đội
để có phương tiện cũng như cơ hội nới rộng kinh nghiệm. Khi
nghĩa vụ quân sự cho phép, ông tiếp tục nghiên cứu về toán
và khoa học. Rốt cuộc, ông không hài lòng với những phương
pháp không hệ thống dùng bởi các giới chức tiền nhiệm trong
khoa học, bởi ông kết luận: chúng không sản xuất được bất kỳ
điều gì mà không gây tranh cãi và kế tiếp là nghi hoặc,
ngoại trừ trong lãnh vực toán học mà ông tin đã được xây
dựng trên một nền tảng vững chắc. Mặt khác, khoa học thời
Trung Cổ, phần lớn đặt căn bản trên các tín điều của các
khoa học gia trong quá khứ hơn là sự khảo sát trong hiện
tại. Vì thế Descartes quyết định phát động một phương án
nghiên cứu riêng cá nhân. Nhưng theo ông, ngay cả sự quan
sát cá nhân trong cuốn sách Thiên Nhiên cũng không đủ vượt
qua sự nghi hoặc bởi vì sự quan ngại của ông về "sự lừa gạt
của giác quan". Sau khi nhận xét tất cả các phương pháp điều
tra cũ mới hiện có, Descartes quyết định rằng phải có một
phương thức tốt hơn, và trong bài thuyết trình về phương
pháp (Discourse on Method), ông viết:
"Cuối cùng tôi quyết định nghiên cứu tự mình tôi, và chọn
con đường đúng".
Descartes tỏ nguyện vọng tái thiết một hệ thống chân lý mới
đặt nền tảng trên một nguyên lý bất khả phản bác, giống như
điểm tựa của
Archimedes, cho phép ông "dời trái đất ra khỏi
quỹ đạo của nó và đặt nó trong một quỹ đạo khác". Các bạn
còn nhớ câu : "hãy cho tôi một điểm tựa, tôi có thể nâng quả
đất" không? Nguyên lý đầu tiên ông cảm thấy hiển nhiên được
tóm gọn trong phát biểu : Cogito ergo sum (I think therefore
I am). Descartes tin rằng từ đấy, ông ta có thể dùng phương
pháp lý luận mới xây dựng trên nguyên lý đầu tiên này, cuối
cùng dẫn đến sự thống nhất mọi kiến thức.
Phương pháp của
Descartes đặt trên những quy tắc sau :
1- Quy tắc đầu tiên là không bao giờ chấp nhận bất cứ cái gí
là đúng trừ phi tôi nhận ra một cách tỏ tường những điều này
: cẩn thận tránh sự vội vã và tiên kiến (đánh giá quá sớm),
và không kết luận điều gì trừ khi nó tự hiển thị rõ ràng,
minh bạch trong đầu tôi rằng không còn một mảy may ngờ vực
nào nữa.
2- Nguyên lý thứ hai là chia sự khó khăn thành nhiều phần
càng nhỏ càng tốt, và vì nhỏ, đáp án dễ tìm hơn.
3- Thứ ba là suy nghĩ trong một cung cách thứ tự, bắt đầu
với những sự việc dễ và đơn giản nhất và từ từ tiến sâu vào
những nan đề phức tạp hơn, coi như các tài liệu theo thứ tự
không nhất thiết phải thế.
4- Cuối cùng là hoàn chỉnh các liệt kê, tổng quát các ghi
chép sao cho không còn gì bỏ sót.
Tóm lại, phương pháp của ông đòi hỏi:
(1) chấp nhận là đúng
chỉ khi ý tưởng ấy rõ ràng, không thể ngờ vực,
(2)
chia vấn
đề thành nhiều phần nhỏ,
(3)
đúc kết, rút tỉa kết luận từ kết
luận khác và
(4) thực hiện một
tổng hợp có hệ thống của toàn vấn đề.
Descartes đặt toàn
thể phương thức triết lý về khoa học của ông trên phương
pháp lý luận diễn dịch.
Descartes đã rất lạc quan về kế hoạch tái thiết một thực thể
tri thức mới đáng tin cậy. Ông ta còn băn khoăn nếu trong
"mọi sự có thể hiểu được với con người", có thể không là một
ứng dụng thích hợp phương pháp của ông mà "không thể có bất
cứ những mệnh đề quá khó hiểu đến nỗi không thể chứng minh
hoặc quá tối nghĩa mà chúng ta không thể khám phá".
Phạm vi tổng quát rõ rệt của Descartes có thể dẫn đưa đến
kết luận rằng khoa học về nhận thức của ông (epistemology)
đòi hỏi sự bác bỏ mọi thẩm quyền kiến thức, kể cả thánh
kinh. Về dữ kiện, ông tự xem ông là một tín đồ Công giáo và
để tôn trọng "chân lý mặc khải" (truths of revelation), ông
bày tỏ: " Tôi không dám đặt những chân lý này vào những
nhược điểm lý luận của tôi"
Rốt cục vì đức tin tôn giáo mà ông tự giam hãm trong cái vỏ
kén của sự tự xét mình. Tuy nhiên, Descartes đã gieo trồng
những hạt mầm chống đối quan điểm duy thần của thế giới để
cho phép con người lệ thuộc vào chính lý trí mình chứ không
phải lệ thuộc vào thần linh như xưa. Phần còn lại cho những
nhà nhân bản chủ nghĩa theo đuổi để dành một chủ nghĩa duy
lý toàn diện như phương tiện chính thiết lập chân lý.
Francis Bacon (1561-1626)
Francis Bacon được gọi là vị tiên tri chính của cuộc cách
mạng khoa học. Mới 12 tuổi, Francis Bacon theo học ở trường
đại học Ba Ngôi (Trinity College, Cambridge), sau đó tốt
nghiệp luật và cuối cùng được phép vào các tiệm bán rượu
(1582, như thế, ông thành tài trước 21 tuổi). Ra trường, ông
hoạt động chính trị với hy vọng nó giúp ông thực hiện những
ý tưởng về sự tiến bộ khoa học. Khoảng thời gian ấy, ông
được bầu làm dân biểu, phong chức hiệp sĩ (một đẳng cấp quý
phái trong xã hội hơn là một chức vị), nắm giữ chưởng lý và
tước vị Baron Verulam, Viscount St. Albans. Ông nổi tiếng là
phát ngôn viên cho quốc hội Anh và như một chuyên gia luật
Anh quốc cho vài vụ án nổi tiếng thời đó. Với tư cách một
triết gia xuất chúng, Bacon động viên chính mình viết về
những lĩnh vực sâu xa như khoa học và luật dân sự trong cuộc
tranh đấu chống lại những lề luật xưa cũ của kinh điển chủ
nghĩa (scholasticism) với sự lệ thuộc một cách nô dịch vào
những điều nhà chức trách chấp nhận.
Ông biện hộ cho quan điểm rằng: "Bất kỳ điều gì trí tuệ nhận
thức và tin tưởng với mãn nguyện xưa nay đều được đánh giá
là khả nghi". Sự đam mê vào viễn ảnh sự tiến bộ của triết lý
thiên nhiên mọc rễ trong niềm tin của ông rằng khoa học lệ
thuộc vào tiến bộ kỹ thuật và cũng là nhân tố chính của tiến
bộ kỹ thuật. Hầu hết công trình triết lý của ông được áp
dụng vào the Novum Organum, cuốn sách nói về suy luận theo
phương pháp quy nạp dùng cắt nghĩa thiên nhiên.
Bacon phê phán rất gay gắt những kẻ kinh điển chủ nghĩa chỉ
muốn nhảy từ một vài khảo sát tiểu tiết sang những định lý
xa vời, rồi thì loại suy những định lý ấy qua chứng minh tam
đoạn luận. (Nói dễ hiểu hơn là chỉ cần quan sát sơ sơ rồi
hấp tấp kết luận). Ông cũng bày tỏ mối bi quan của những
người thuộc học phái kinh nghiệm chủ nghĩa, lầm lạc với
những thí nghiệm bất cần tham khảo những hiện tượng liên hệ,
vì chúng đã bị coi như vô lý trong sự tổng hợp của họ.
Theo Bacon, có 4
phạm trù (nôm na thể loại) về tri thức sai, hay "ngẫu
tượng"(Idols), gọi theo cách của ông, đã chiếm ngự trong đầu
óc con người thời đó.
4 ngẫu tượng đó là :
- Ngẫu tượng bộ tộc (Idols of the tribe):
Là niềm tin sai
lầm trong đầu óc con người. Chúng ta có khuynh hướng phóng
đại, xuyên tạc và thiên vị. Khi chúng ta nhìn ngắm bầu trời,
chúng ta không dừng lại ở chỗ ghi nhận trung thực cái gì đã
mục kích. Chúng ta đem ý kiến riêng, thêm thắt vô số những
bản chất tưởng tượng vào các thiên thể. Lâu dần những tưởng
tượng này trở nên có uy tín và lẫn lộn với các sự kiện khoa
học cho đến khi thực giả quyện thành một khối không thể tách
rời. Gọi là bộ tộc vì chúng nằm sâu trong bản chất con
người. Ví dụ thuyết địa cầu là trung tâm vũ trụ phát sinh từ
những hạn chế của hiểu biết nhân loại. Vì tất cả nhận thức
chúng ta, cả cảm giác và trí tuệ là những phản ảnh con
người, không phải vũ trụ, ngẫu tượng bộ tộc bắt rễ trong sự
bất toàn thiên bẩm của con người.
- Ngẫu tượng hang động (Idols of the cave):
Cắt nghĩa chủ
quan vì bịa đặt cá nhân hay khuynh hướng cá nhân. Ví dụ khái
niệm Thế giới quan từ trường của Gilbert. Ông cho rằng từ
lực là linh hồn của trái đất.Xin tìm Gilbert's "magnetic
world view." trong
http://chem.ch.huji.ac.il/~eugeniik/history/gilbert.html
để đọc thêm. Trí tuệ con người giống như một hang động. Tư
tưởng của mỗi cá nhân lần mò trong hang thẳm và được sửa đổi
bởi tính khí, giáo dục, thói quen, môi trường và may rủi. Vì
vậy, một người dốc tâm nghiên cứu vấn đề nào đó nô lệ vào
chính sự quan tâm của ông ta và chuyển dịch mọi hiểu biết
khác theo công trình nghiên cứu của mình. Nhà hóa học cho
rằng hóa học là chủ chốt mọi sự, nhà vật lý cho rằng vật
chất là tất cả.
- Ngẫu tượng mậu dịch (Idols of the market-place):
Trở ngại
ngôn ngữ và sự lẫn lộn giữa ngôn từ và thuật ngữ. Ví dụ vấn
đề định nghĩa các từ lại lệ thuộc vào chính các từ. Ta
không thể định nghĩa chữ bằng cách dùng chữ cũng như không
thể lấy thước đo sự chính xác của thước khác hay dùng một
quả cân để nghiệm nặng nhẹ quả cân khác. Con người uốn nắn
tư tưởng thành ngôn ngữ để tiện trao đổi nhưng ngôn ngữ
thường thay thế tư tưởng và con người nghĩ rằng họ thắng thế
trong một tranh luận vì họ nói hay nói giỏi hơn đối phương.
Ảnh hưởng của sự vận dụng ngôn ngữ rất cần lưu ý đến ý nghĩa
xác thực của nó, chỉ bóp méo sự hiểu biết và nảy sinh sai
lạc. Ngôn ngữ thường phản bội mục đích của nó, làm lu mờ tư
tưởng nó được dùng để diễn tả.
- Ngẫu tượng sân khấu (Idols of the theatre) :
Những giáo
điều triết lý được nhận thức từ những quy luật chứng minh
sai. Nó liên quan đến kết quả phương pháp lý luận tam đoạn
luận của Aristote. Chúng rất nguy hiểm vì tính hoang đường
và hoàn toàn không thể kiểm chứng. Chúng gồm ngụy biện, duy
nghiệm và mê tín dị đoan trong lãnh vực lý thuyết, triết lý
và khoa học.Khi triết lý sai lầm được khai thác và đạt được
uy tín trong thế giới của các nhà trí thức, con người sẽ
không dám ngờ vực nữa. Vì triết lý trực tiếp kế thừa một
tiến trình cá biệt và con đường của đời sống và cả 2 thành
phần này được lãnh hội qua học hỏi, không phải bẩm sinh. Vì
thế, ngẫu tượng sân khấu dùng để chỉ sự việc không thể lý
luận, không thể hiểu thấu. The Phaedo của Plato là một thí
dụ. Đề mục là vấn đề linh hồn sau khi chết. Vì không ai chết
đi, sống lại để kể lại cuộc du hành của linh hồn, Plato bắt
đầu cắt nghĩa bằng nhận thức của mình. Tuy nhiên, sự hiểu
thấu và lý luận của ông bị giới hạn rằng cho đến lúc ông ta
kể câu chuyện của ông, ông chưa hề chết. Vì vậy the Phaedo
là một ngẫu tượng sân khấu vì cái được diễn giải là hoang
đường và đòi hỏi một niềm tin mãnh liệt để có thể tin được.
Trái với những ngẫu tượng trên (tôn trọng những tên gọi của
ông, xin hiểu ngẫu tượng là nhược điểm trong suy luận con
người) Bacon nói rằng một khoa học đích thực tiến hóa trong
những bậc thang đi lên và bằng những nấc thang kế nhau không
gián đoạn hay hư gẫy, chúng ta tiến từ những hiện tượng
riêng biệt đến những định lý sơ khởi và rồi những định lý
trung gian, cái này bao gồm những cái trước, và cuối cùng
hình thành cái định luật quán triệt tất cả.
Tóm lại, phương
pháp của ông yêu cầu :
(1) Tích trữ những quan sát riêng biệt (những hiện tượng đơn
lẻ thuộc kinh nghiệm).
(2) Bằng quy nạp, suy ra những định lý sơ khởi.
(3) Cuối cùng đề xuất những ý tưởng quán triệt nhất, theo
từng bước tiệm tiến.
Nếu chúng ta đọc ý nghĩa hiện đại thành ngôn ngữ Bacon dùng,
chúng ta có thể thấy một điềm báo của ý tưởng một giả thuyết
trong từ "định lý sơ khởi". Định lý sơ khởi chính là giả
thuyết vậy. Xin đừng trách Bacon, thời đó chữ nghĩa cầu kỳ
khó hiểu lắm. Sự kiện này giúp phương pháp của ông thích
hợp với khái niệm đã trưởng thành của khoa học ngày nay, tuy
nhiên, ngữ cảnh (context) chỉ rõ rằng ý tưởng của ông vẫn
chưa được phát triển toàn diện. Bacon cũng lý giải rằng
phương pháp quy nạp này "phải được áp dụng không những trong
việc khám phá các định lý mà còn ngay cả trong việc đúc kết
thành định luật cuối cùng nữa", có lẽ phù hợp với khái niệm
của một hệ khuôn thước, nhưng một lần nữa, nó có thể văn bản
hóa. Trong cả 2 trường hợp, rõ ràng quan điểm của Bacon về
phương pháp khoa học là tiệm tiến và tích trữ dữ kiện khảo
sát.
Sự chấp hành táo bạo kinh nghiệm chủ nghĩa của Bacon có thể
ám chỉ trong vài trường hợp ông không chấp nhận bất kỳ kiến
thức nào không được nhận ra từ sự quan sát cá nhân. Điều này
là một sự hiểu lầm hẹp hòi quan điểm triết lý thiên nhiên
của Bacon, lĩnh vực ông cho rằng là một nô tỳ trung thành
nhất của tôn giáo.
Bacon thực sự thấy phương pháp mới của ông về lãnh hội kiến
thức là một thể hiện sự linh ứng lời tiên tri trong Thánh
Kinh về ngày tận thế " Sẽ có nhiều người đến và đi và kiến
thức sẽ tăng thêm". Thêm vào đó, ông thấy sự tiến bộ khoa
học kỹ thuật chính là sự phục hồi sứ mệnh thống trị. Ông
viết :"Loài người ngã xuống từ sự vô tội cùng một lượt với
sự thống trị của mình trước đấng sáng tạo. Cả hai sự mất mát
này có thể được sửa chữa một phần trong cõi tạm; sự sạch tội
thì bằng tôn giáo và đức tin, sự thống trị thế giới bằng
nghệ thuật và khoa học". Tuy thế, có lý do tin rằng quan
điểm của Bacon sẽ gây quan ngại cho các nhà nhân loại bản
chủ nghĩa, vì ông tin rằng phương pháp quy nạp "sẽ đẩy lùi
cái hạn chế của quyền năng và sự vĩ đại của con người", và
một ngày nào đó sẽ "nắm tất cả". Với những người
ủng hộ quan điểm thế giới khoa học, sự dự đoán này được công
bố là đã linh nghiệm.
Dị đồng trong phương pháp luận của Descartes và Bacon.
Sự khác biệt giữa Descartes và Bacon rất nhiều và sâu xa,
nhưng cũng có nhiều điểm giống nhau. Mỗi vị tiền phong này
rao truyền sự phế bỏ mọi phương pháp cổ truyền và mọi kết
quả của các công trình nghiên cứu trước. Cả hai đòi hỏi một
tiêu chuẩn chính xác mới vì có quá nhiều thí dụ về lý luận
tuỳ tiện và quan sát chủ quan trên con đường khoa học trong
quá khứ.
Cũng có một niềm tin chung giữa 2 vị là mối hoài nghi về "sự
dối gạt của giác quan". Thêm vào đó, họ tin vào sự lược giảm
những vấn đề thành những thành phần nhỏ nhất, đơn giản nhất
như một nguyên tắc tổng quát. Descartes và Bacon mỗi người
tự thấy mình chủ yếu trong vai trò hiển dương khoa học và do
đó họ đóng góp rất ít vào bất cứ lãnh vực riêng biệt nào đó
trong khoa học thực nghiệm. Cuối cùng, cả hai đều là những
thiên tài thăng tiến các lãnh vực của khoa học mà sau đó trở
nên điều kiện phải có để tiến bộ.
Khác biệt rõ ràng nhất trong phương pháp luận của Descartes
và Bacon liên hệ đến quá trình lý luận. Descartes bắt đầu
với những nguyên lý rút ra bằng trực giác làm tiền đề trong
phương pháp luận diễn dịch chuẩn, nhưng Bacon bắt đầu bằng
quan sát duy nghiệm, áp dụng quy nạp pháp suy luận ra những
định lý cao hơn. Phương pháp của Descartes là phương thức từ
trên đi xuống, còn Bacon là từ dưới đi ngược lên. Sự khác
biệt này rõ rệt đến nỗi có những lúc Bacon chỉ trích nặng nề
phương pháp của Descartes là thí dụ điển hình cho những gì
sai lầm trong khoa học. (Hehehe dĩ nhiên Bacon không tố cáo
Descartes phản cuốc, phản xẻng như Việt Cộng). Một khác biệt
cốt yếu trong học trình của 2 người là Descartes am hiểu một
cách quán triệt về toán học và Bacon thì không chuyên về
toán. Descartes được ghi nhận về những thành công trong đại
số và hình học và Bacon thì ít đề cập về toán vì ông chuyên
môn về luật.
Học trình có thể giải thích những tương tự trong phương pháp
của Descartes luôn song song với chứng minh toán học. Riêng
Bacon, sự quan sát duy nghiệm trong khoa học có thể tương
ứng với "nhân chứng" cần có để chuẩn bị cho một vụ án vì ông
là một luật gia. Dựa vào học trình của Descartes, nó có vẻ
rõ rệt rằng cái méo mó nghề nghiệp của ông có thể thấy trong
các nhà toán học, ông nói :"các toán học gia đã có thể tìm
ra vài chứng minh, vài vài lý do chắc chắn và minh bạch", vì
vậy, ông quyết định "bắt đầu với những gì họ đã làm". Dù sự
nghiệp xuất chúng của Bacon, ông ta đã thực sự rất thực dụng
chủ nghĩa trong việc theo đuổi một mẫu mã tìm thấy trong cơ
khí học. Nghệ thuật cơ học đặt nền tảng trên thiên nhiên và
ánh sáng của kinh nghiệm.
Vì sự quan sát này ông đã bị ấn tượng sâu xa về sự khám phá
ngành in ấn, thuốc súng và từ lực. Trong quan điểm "không đế
quốc, giáo phái hay thiên thể nào có vẻ áp đặt quyền lực và
ảnh hưởng trong công việc của con người hơn những khám phá
cơ học này". Một lưu ý quan trọng là dù phương pháp của
Bacon và Descartes khác nhau, khi các mẫu mã của họ được
tổng hợp thành một, chúng ta có một sự đoán trước về toán
học thực nghiệm hiện đại. Hiện nay, ta có thể thấy khi gộp
chúng lại với nhau, phương pháp của
Rene Descartes và Francis Bacon là phôi thai của phương pháp
khoa học hiện đại.
Kết luận.
Tóm lại, có 2 nguyên do dẫn đưa đến việc đề xuất và gieo rắc
những lý thuyết sai lạc: tuyên truyền phục vụ cho một ý đồ
nào đó và nghiên cứu thiếu cơ sở luận lý, không nắm vững
phương pháp luận. Cả 2 nguyên do đều né tránh những sự kiện
bất lợi cho lý thuyết của mình và cả hai cùng có hại đến tri
thức con người.
Về mặt thiếu chuyên môn cũng thế. Phải cẩn thận trong mọi đề
tài nghiên cứu. Phải hiểu kỹ vấn đề và làm việc theo một quy
trình có phương pháp khoa học. Chúng tôi mong mỏi mai sau,
chúng ta không bị mang tiếng là nhà bảo sanh của nạn lạm
phát lý thuyết.