Keywords: nanoparticle, gold,
silver, biophysics, nanomaterials
I. VẬT LIỆU NANO VÀ TÍNH CHẤT ĐẶC BIỆT CỦA NÓ
Khoa học và công nghệ nano là một trong những thuật ngữ được sử dụng rộng
rãi nhất trong khoa học vật liệu ngày nay là do đối tượng của chúng là vật
liệu nano có những tính chất kì lạ khác hẳn với các tính chất của vật liệu
khối mà người ta nghiên cứu trước đó [1]. Sự khác biệt về tính chất của vật
liệu nano so với vật liệu khối bắt nguồn từ hai hiện tượng sau đây:
1.
Hiệu ứng bề mặt
Khi vật liệu có kích thước nhỏ thì tỉ số giữa
số nguyên tử trên bề mặt và tổng số nguyên tử của vật liệu gia tăng. Ví dụ,
xét vật liệu tạo thành từ các hạt nano hình cầu. Nếu gọi ns là số
nguyên tử nằm trên bề mặt, n là tổng số nguyên tử thì mối liên hệ
giữa hai con số trên sẽ là ns = 4n2/3. Tỉ số giữa số nguyên tử
trên bề mặt và tổng số nguyên tử sẽ là f = ns/n =
4/n1/3 = 4r0/r, trong đó r0 là bán kính của nguyên tử và r là
bán kính của hạt nano. Như vậy, nếu kích thước của vật liệu giảm (r
giảm) thì tỉ số f tăng lên. Do nguyên tử trên bề mặt có nhiều tính
chất khác biệt so với tính chất của các nguyên tử ở bên trong lòng vật liệu
nên khi kích thước vật liệu giảm đi thì hiệu ứng có liên quan đến các nguyên
tử bề mặt, hay còn gọi là hiệu ứng bề mặt tăng lên do tỉ số f tăng.
Khi kích thước của vật liệu giảm đến nm thì giá trị f này tăng lên
đáng kể. Sự thay đổi về tính chất có liên quan đến hiệu ứng bề mặt không có
tính đột biến theo sự thay đổi về kích thước vì f tỉ lệ nghịch với
r theo một hàm liên tục. Chúng ta cần lưu ý
đặc điểm này trong nghiên cứu và ứng dụng. Khác với hiệu ứng thứ hai mà ta
sẽ đề cập đến sau, hiệu ứng bề mặt luôn có tác dụng với tất cả các giá trị
của kích thước, hạt càng bé thì hiệu ứng càng lớn và ngược lại. Ở đây không
có giới hạn nào cả, ngay cả vật liệu khối truyền thống cũng có hiệu ứng bề
mặt, chỉ có điều hiệu ứng này nhỏ thường bị bỏ qua. Vì vậy, việc ứng dụng
hiệu ứng bề mặt của vật liệu nano tương đối dễ dàng. Bảng 1 cho biết
một số giá trị điển hình của hạt nano hình cầu. Với một hạt nano có đường
kính 5 nm thì số nguyên tử mà hạt đó chứa là 4.000 nguyên tử, tí số f
là 40 %, năng lượng bề mặt là 8,16×1011 và tỉ số năng lượng bề mặt trên năng
lượng toàn phần là 82,2 %. Tuy nhiên, các giá trị vật lí giảm đi một nửa khi
kích thước của hạt nano tăng gấp hai lần lên 10 nm.
Bảng 1: Số nguyên tử và năng lượng bề mặt của hạt nano hình cầu
Đường kính hạt nano (nm) |
Số nguyên tử |
Tỉ số nguyên tử trên bề
mặt (%) |
Năng lượng bề mặt
(erg/mol) |
Năng lượng bề mặt/Năng
lượng tổng (%) |
10 |
30.000 |
20 |
4,08×1011 |
7,6 |
5 |
4.000 |
40 |
8,16×1011 |
14,3 |
2 |
250 |
80 |
2,04×1012
|
35,3 |
1 |
30 |
90 |
9,23×1012
|
82,2 |
2.
Hiệu ứng kích thước
Khác với hiệu ứng bề mặt, hiệu ứng kích thước
của vật liệu nano đã làm cho vật liệu này trở nên kì lạ hơn nhiều so với các
vật liệu truyền thống. Đối với một vật liệu, mỗi một tính chất của vật liệu
này đều có một độ dài đặc trưng. Độ dài đặc trưng của rất nhiều các tính
chất của vật liệu đều rơi vào kích thước nm. Chính điều này đã làm nên cái
tên "vật liệu nano" mà ta thường nghe đến ngày nay. Ở vật liệu khối,
kích thước vật liệu lớn hơn nhiều lần độ dài đặc trưng này dẫn đến các tính
chất vật lí đã biết. Nhưng khi kích thước của vật liệu có thể so sánh được
với độ dài đặc trưng đó thì tính chất có liên quan đến độ dài đặc trưng bị
thay đổi đột ngột, khác hẳn so với tính chất đã biết trước đó. Ở đây không
có sự chuyển tiếp một cách liên tục về tính chất khi đi từ vật liệu khối đến
vật liệu nano. Chính vì vậy, khi nói đến vật liệu nano, chúng ta phải nhắc
đến tính chất đi kèm của vật liệu đó. Cùng một vật liệu, cùng một kích
thước, khi xem xét tính chất này thì thấy khác lạ sơ với vật liệu khối nhưng
cũng có thể xem xét tính chất khác thì lại không có gì khác biệt cả. Tuy
nhiên, chúng ta cũng may mắn là hiệu ứng bề mặt luôn luôn thể hiện dù ở bất
cứ kích thước nào. Ví dụ, đối với kim loại, quãng đường tự do trung bình của
điện tử có giá trị vài chục nm. Khi chúng ta cho dòng điện chạy qua một dây
dẫn kim loại, nếu kích thước của dây rất lớn so với quãng đường tự do trung
bình của điện tử trong kim loại này thì chúng ta sẽ có định luật Ohm cho dây
dẫn. Định luật cho thấy sự tỉ lệ tuyến tính của dòng và thế đặt ở hai đầu
sợi dây. Bây giờ chúng ta thu nhỏ kích thước của sợi dây cho đến khi nhỏ hơn
độ dài quãng đường tự do trung bình của điện tử trong kim loại thì sự tỉ lệ
liên tục giữa dòng và thế không còn nữa mà tỉ lệ gián đoạn với một lượng tử
độ dẫn là e2/ħ, trong đó e là điện tích của điện tử, ħ là hằng đó Planck.
Lúc này hiệu ứng lượng tử xuất hiện. Có rất nhiều tính chất bị thay đổi
giống như độ dẫn, tức là bị lượng tử hóa do kích thước giảm đi. Hiện tượng
này được gọi là hiệu ứng chuyển tiếp cổ điển-lượng tử trong các vật liệu
nano do việc giam hãm các vật thể trong một không gian hẹp mang lại (giam
hãm lượng tử). Bảng 2 cho thấy giá trị độ dài đặc trưng của một số tính chất
của vật liệu [2].
Bảng 2: Độ dài đặc trưng của một số tính chất của vật liệu
Tính chất |
Thông số |
Độ dài đặc trưng (nm) |
Điện |
Bước sóng của điện tử
Quãng đường tự do trung
bình không đàn hồi
Hiệu ứng đường ngầm
|
10-100
1-100
1-10
|
Từ |
Vách đô men,
tương tác trao đổi
Quãng đường
tán xạ spin
Giới hạn
siêu thuận từ |
10-100
1-100
5-100 |
Quang |
Hố lượng tử
(bán kính Bohr)
Độ dài suy
giảm
Độ sâu bề
mặt kim loại
Hấp thụ
Plasmon bề mặt |
1-100
10-100
10-100
10-500 |
Siêu dẫn |
Độ dài liên
kết cặp Cooper
Độ thẩm thấu
Meisner
|
0.1-100
1-100
|
Cơ |
Tương tác
bất định xứ
Biên hạt
Bán kính
khởi động đứt vỡ
Sai hỏng mầm
Độ nhăn bề
mặt
|
1-1000
1-10
1-100
0.1-10
1-10
|
Xúc tác |
Hình học
topo bề mặt
|
1-10
|
Siêu phân tử |
Độ dài Kuhn
Cấu trúc nhị
cấp
Cấu trúc tam
cấp
|
1-100
1-10
10-1000
|
Miễn dịch |
Nhận biết
phân tử
|
1-10
|
II. PHÂN LOẠI VẬT LIỆU NANO
Có rất nhiều cách phân loại vật liệu nano, mỗi cách phân loại cho ra rất
nhiều loại nhỏ nên thường hay làm lẫn lộn các khái niệm. Sau đây là một vài
cách phân loại thường dùng.
1.
Phân loại theo hình dáng của vật liệu:
người ta đặt tên số chiều không bị giới hạn ở kích thước nano
·
Vật liệu nano không chiều
(cả ba chiều đều có kích thước nano), ví dụ đám nano, hạt nano
·
Vật liệu nano một chiều
là vật liệu trong đó một chiều có kích thước nano, ví dụ dây nano, ống nano
·
Vật liệu nano hai chiều
là vật liệu trong đó hai chiều có kích thước nano, ví dụ màng mỏng
·
Ngoài ra còn có vật liệu có cấu trúc
nano hay nanocomposite trong đó chỉ có một phần của vật liệu có
kích thước nm, hoặc cấu trúc của nó có nano không chiều, một chiều, hai
chiều đan xen lẫn nhau.
Cũng
theo cách phân loại theo hình dáng của vật liệu, một số người đặt tên số
chiều bị giới hạn ở kích thước nano. Nếu như thế thì hạt nano là vật liệu
nano 3 chiều, dây nano là vật liệu nano 2 chiều và màng mỏng là vật liệu
nano 1 chiều. Cách này ít phổ biến hơn cách ban đầu.
2.
Phân loại theo tính chất vật liệu thể
hiện sự khác biệt ở kích thước nano:
·
Vật liệu nano kim loại
·
Vật liệu nano bán dẫn
·
Vật liệu nano từ tính
·
Vật liệu nano sinh học
·
vân vân
Nhiều khi người ta phối hợp hai
cách phân loại với nhau, hoặc phối hợp hai khái niệm nhỏ để tạo ra các khái
niệm mới. Ví dụ, đối tượng chính của chúng ta sau đây là "hạt nano kim loại"
trong đó "hạt" được phân loại theo hình dáng, "kim loại" được phân loại theo
tính chất hoặc "vật liệu nano từ tính sinh học" trong đó cả "từ tính" và
"sinh học" đều là khái niệm có được khi phân loại theo tính chất.
III. HẠT NANO KIM LOẠI
Hạt nano kim loại là một khái niệm để chỉ các hạt có kích thước nano được
tạo thành từ các kim loại. Người ta biết rằng hạt nano kim loại như hạt nano
vàng, nano bạc được sử dụng từ hàng ngìn năm nay. Nổi tiếng nhất có thể là
chiếc cốc Lycurgus được người La Mã chế tạo vào khoảng thế kỉ thứ tư trước
Công nguyên và hiện nay được trưng bày ở Bảo tàng Anh [3]. Chiếc cốc đó đổi
màu tùy thuộc vào cách người ta nhìn nó. Nó có màu xanh lục khi nhìn ánh
sáng phản xạ trên cốc và có màu đỏ khi nhìn ánh sáng đi từ trong cốc và
xuyên qua thành cốc. Các phép phân tích ngày nay cho thấy trong chiếc cốc đó
có các hạt nano vàng và bạc có kích thước 70 nm và với tỉ phần mol là 14:1.
Tuy nhiên, phải đến năm 1857, khi Michael Faraday nghiên cứu một cách hệ
thống các hạt nano vàng thì các nghiên cứu về phương pháp chế tạo, tính chất
và ứng dụng của các hạt nano kim loại mới thực sự được bắt đầu. Khi nghiên
cứu, các nhà khoa học đã thiết lập các phương pháp chế tạo và hiểu được các
tính chất thú vị của hạt nano. Một trong những tính chất đó là màu sắc của
hạt nano phụ thuộc rất nhiều vào kích thước và hình dạng của chúng. Ví dụ,
ánh sáng phản xạ lên bề mặt vàng ở dạng khối có màu vàng. Tuy nhiên, ánh
sáng truyền qua lại có màu xanh nước biển hoặc chuyển sang màu da cam khi
kích thước của hạt thay đổi. Hiện tượng thay đổi màu sắc như vậy là do một
hiệu ứng gọi là cộng hưởng plasmon bề mặt. Chỉ có các hạt nano kim loại,
trong đó các điện tử tự do mới có hấp thụ ở vùng ánh sáng khả kiến làm cho
chúng có hiện tượng quang học thú vị như trên. Ngoài tính chất trên, các hạt
nano bạc còn được biết có khả năng diệt khuẩn. Hàng ngàn năm trước người ta
thấy sữa để trong các bình bạc thì để được lâu hơn. Ngày nay người ta biết
đó là do bạc đã tác động lên enzym liên quan đến quá trình hô hấp của các
sinh vật đơn bào.
IV. CHẾ TẠO HẠT NANO KIM LOẠI
Có hai phương pháp để tạo vật liệu nano, phương pháp từ dưới lên và
phương pháp từ trên xuống. Phương pháp từ dưới lên là tạo hạt nano từ các
ion hoặc các nguyên tử kết hợp lại với nhau. Phương pháp từ trên xuống là
phương pháp tạo vật liệu nano từ vật liệu khối ban đầu. Đối với hạt nano kim
loại như hạt nano vàng, bạc, bạch kim,... thì phương pháp thường được áp
dụng là phương pháp từ dưới lên. Nguyên tắc là khử các ion kim loại như Ag+,
Au+ để tạo thành các nguyên tử Ag và Au. Các nguyên tử sẽ liên kết với nhau
tạo ra hạt nano. Các phương pháp từ trên xuống ít được dùng hơn nhưng thời
gian gần đây đã có những bước tiến trong việc nghiên cứu theo phương pháp
này.
1.
Phương pháp ăn mòn laser
Đây là phương pháp từ trên xuống [4]. Vật liệu ban đầu là một tấm bạc được
đặt trong một dung dịch có chứa một chất hoạt hóa bề mặt. Một chùm Laser
xung có bước sóng 532 nm, độ rộng xung là 10 ns, tần số 10 Hz, năng lượng
mỗi xung là 90 mJ, đường kính vùng kim loại bị tác dụng từ 1-3 mm. Dưới tác
dụng của chùm laser xung, các hạt nano có kích thước khoảng 10 nm được hình
thành và được bao phủ bởi chất hoạt hóa bề mặt CnH2n+1SO4Na với n = 8, 10,
12, 14 với nồng độ từ 0,001 đến 0,1 M.
2.
Phương pháp khử hóa học
Phương pháp khử hóa học là dùng các tác nhân hóa học để khử ion kim loại
thành kim loại. Thông thường các tác nhân hóa học ở dạng dung dịch lỏng nên
còn gọi là phương pháp hóa ướt. Đây là phương pháp từ dưới lên. Dung dịch
ban đầu có chứa các muối của các kim loại như HAuCl4, H2PtCl6, AgNO3. Tác
nhân khử ion kim loại Ag+, Au+ thành Ag0, Au0 ở đây là các chất hóa học như
Citric acid, vitamin C, Sodium Borohydride NaBH4, Ethanol (cồn), Ethylene
Glycol [5] (phương pháp sử dụng các nhóm rượu đa chức như thế này còn có một
cái tên khác là phương pháp polyol). Để các hạt phân tán tốt trong dung môi
mà không bị kết tụ thành đám, người ta sử dụng phương pháp tĩnh điện để làm
cho bề mặt các hạt nano có cùng điện tích và đẩy nhau hoặc dùng phương pháp
bao bọc chất hoạt hóa bề mặt. Phương pháp tĩnh điện đơn giản nhưng bị giới
hạn bởi một số chất khử. Phương pháp bao phủ phức tạp nhưng vạn năng hơn,
hơn nữa phương pháp này có thể làm cho bề mặt hạt nano có các tính chất cần
thiết cho các ứng dụng. Các hạt nano Ag, Au, Pt, Pd, Rh với kích thước từ 10
đến 100 nm có thể được chế tạo từ phương pháp này.
3.
Phương pháp khử vật lí
Phương khử vật lí dùng các tác nhân vật lí như điện tử [6], sóng điện từ
năng lượng cao như tia gamma [7], tia tử ngoại [8], tia laser [9] khử ion
kim loại thành kim loại. Dưới tác dụng của các tác nhân vật lí, có nhiều quá
trình biến đổi của dung môi và các phụ gia trong dung môi để sinh ra các gốc
hóa học có tác dụng khử ion thành kim loại. Ví dụ, người ta dùng chùm laser
xung có bước sóng 500 nm, độ dài xung 6ns, tần số 10 Hz, công suất 12-14 mJ
[9] chiếu vào dung dịch có chứa AgNO3 như là nguồn ion kim loại và Sodium
Dodecyl Sulfate (SDS) như là chất hoạt hóa bề mặt để thu được hạt nano bạc.
4.
Phương pháp khử hóa lí
Đây là phương pháp trung gian giữa hóa học và vật lí. Nguyên lí là dùng
phương pháp điện phân kết hợp với siêu âm để tạo hạt nano. Phương pháp điện
phân thông thường chỉ có thể tạo được màng mỏng kim loại. Trước khi xảy ra
sự hình thành màng, các nguyên tử kim loại sau khi được điện hóa sẽ tạo các
hạt nano bàm lên điện cực âm. Lúc này người ta tác dụng một xung siêu âm
đồng bộ với xung điện phân thì hạt nano kim loại sẽ rời khỏi điện cực và đi
vào dung dịch [10].
5.
Phương pháp khử sinh học
Dùng vi khuẩn là tác nhân khử ion kim loại [11]. Người ta cấy vi khuẩn MKY3
vào trong dung dịch có chứa ion bạc để thu được hạt nano bạc. Phương pháp
này đơn giản, thân thiện với môi trường và có thể tạo hạt với số lượng lớn.
V. TÍNH CHẤT CỦA HẠT NANO KIM LOẠI
Như phần đầu đã nói, hạt nano kim loại có hai
tính chất khác biệt so với vật liệu khối đó là hiệu ứng bề mặt và hiệu ứng
kích thước. Tuy nhiên, do đặc điểm các hạt nano có tính kim loại, tức là có
mật độ điện tử tự do lớn thì các tính chất thể hiện có những đặc trưng riêng
khác với các hạt không có mật độ điện tử tự do cao.
1.
Tính chất quang học
Như trên đã nói, tính chất quang học của hạt
nano vàng, bạc trộn trong thủy tinh làm cho các sản phẩm từ thủy tinh có các
màu sắc khác nhau đã được người La Mã sử dụng từ hàng ngàn năm trước. Các
hiện tượng đó bắt nguồn từ hiện tượng cộng hưởng Plasmon bề mặt (surface
plasmon resonance) do điện tử tự do trong hạt nano hấp thụ ánh sáng chiếu
vào. Kim loại có nhiều điện tử tự do, các điện tử tự do này sẽ dao động dưới
tác dụng của điện từ trường bên ngoài như ánh sáng. Thông thường các dao
động bị dập tắt nhanh chóng bởi các sai hỏng mạng hay bởi chính các nút mạng
tinh thể trong kim loại khi quãng đường tự do trung bình của điện tử nhỏ hơn
kích thước. Nhưng khi kích thước của kim loại nhỏ hơn quãng đường tự do
trung bình thì hiện tượng dập tắt không còn nữa mà điện tử sẽ dao động cộng
hưởng với ánh sáng kích thích. Do vậy, tính chất quang của hạt nano được có
được do sự dao động tập thể của các điện tử dẫn đến từ quá trình tương tác
với bức xạ sóng điện từ. Khi dao động như vậy, các điện tử sẽ phân bố lại
trong hạt nano làm cho hạt nano bị phân cực điện tạo thành một lưỡng cực
điện. Do vậy xuất hiện một tần số cộng hưởng phụ thuộc vào nhiều yếu tố
nhưng các yếu tố về hình dáng, độ lớn của hạt nano và môi trường xung quanh
là các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất. Ngoài ra, mật độ hạt nano cũng ảnh hưởng
đến tính chất quang. Nếu mật độ loãng thì có thể coi như gần đúng hạt tự do,
nếu nồng độ cao thì phải tính đến ảnh hưởng của quá trình tương tác giữa các
hạt.
2.
Tính chất điện
Tính dẫn điện của kim loại rất tốt, hay điện
trở của kim loại nhỏ nhờ vào mật độ điện tử tự do cao trong đó. Đối với vật
liệu khối, các lí luận về độ dẫn dựa trên cấu trúc vùng năng lượng của chất
rắn. Điện trở của kim loại đến từ sự tán xạ của điện tử lên các sai hỏng
trong mạng tinh thể và tán xạ với dao động nhiệt của nút mạng (phonon). Tập
thể các điện tử chuyển động trong kim loại (dòng điện I) dưới tác
dụng của điện trường (U) có liên hệ với nhau thông qua định luật Ohm:
U = IR, trong đó R là điện trở của kim loại. Định luật
Ohm cho thấy đường I-U là một đường tuyến tính. Khi kích thước của
vật liệu giảm dần, hiệu ứng lượng tử do giam hãm làm rời rạc hóa cấu trúc
vùng năng lượng. Hệ quả của quá trình lượng tử hóa này đối với hạt nano là
I-U không còn tuyến tính nữa mà xuất hiện một hiệu ứng gọi là hiệu
ứng chắn Coulomb (Coulomb blockade) làm cho đường I-U bị nhảy bậc với
giá trị mỗi bậc sai khác nhau một lượng e/2C cho U và e/RC cho
I, với e là điện tích của điện tử, C và R là điện dung
và điện trở khoảng nối hạt nano với điện cực.
3.
Tính chất từ
Các kim loại quý như vàng, bạc,... có tính
nghịch từ ở trạng thái khối do sự bù trừ cặp điện tử. Khi vật liệu thu nhỏ
kích thước thì sự bù trừ trên sẽ không toàn diện nữa và vật liệu có từ tính
tương đối mạnh. Các kim loại có tính sắt từ ở trang thái khối như các kim
loại chuyển tiếp sắt, cô ban, ni ken thì khi kích thước nhỏ sẽ phá vỡ trật
tự sắt từ làm cho chúng chuyển sang trạng thái siêu thuận từ. Vật liệu ở
trạng thái siêu thuận từ có từ tính mạnh khi có từ trường và không có từ
tính khi từ trường bị ngắt đi, tức là từ dư và lực kháng từ hoàn toàn bằng
không.
4.
Tính chất nhiệt
Nhiệt độ nóng chảy Tm của vật liệu phụ
thuộc vào mức độ liên kết giữa các nguyên tử trong mạng tinh thể. Trong tinh
thể, mỗi một nguyên tử có một số các nguyên tử lân cận có liên kết mạnh gọi
là số phối vị. Các nguyên tử trên bề mặt vật liệu sẽ có số phối vị nhỏ hơn
số phối vị của các nguyên tử ở bên trong nên chúng có thể dễ dàng tái sắp
xếp để có thể ở trạng thái khác hơn. Như vậy, nếu kích thước của hạt nano
giảm, nhiệt độ nóng chảy sẽ giảm. Ví dụ, hạt vàng 2 nm có Tm =
500°C, kích thước 6 nm có Tm = 950°C [12].
VI. ỨNG DỤNG CỦA HẠT NANO KIM
LOẠI
Các
ứng dụng đều liên quan đến những tính chất khác biệt của hạt nano. Những ứng
dụng đầu tiên như chúng ta đã biết là liên quan đến tính chất quang của
chúng. Người ta trộn hạt nano vàng, bạc vào thủy tinh để chúng có các màu
sắc khác nhau. Gần đây người ta đã phát hiện ra rất nhiều ứng dụng khả dĩ
của hạt nano vàng để tiêu diệt tế bào ung thư [13]. Trong đó, hạt nano vàng
được kích thích bằng ánh sáng laser xung, do hiện tượng hấp thụ cộng hưởng
Plasmon mà hạt nano dao động trở nên nóng bỏng, có khi lên đến nhiệt độ cao
hơn nhiệt độ nóng chảy của vàng. Quá trình tăng nhiệt này gây ra một sóng
xung kích (shock wave) tiêu diệt tế bào ung thư trong đường kính hàng
mm.
Hạt nano vàng bọc bởi các nguyên tử Gd (có mô men từ nguyên tử lớn nhất) còn
được dùng để làm tăng độ tương phản trong cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) [14].
Rất gần đây, người ta còn tạo ra nguyên tử nhân tạo từ hai hạt nano vàng mở
ra khả năng ứng dụng lớn trong tương lai [15].
Nguyễn Hoàng Hải (Dạ Trạch)
Trung tâm Khoa học Vật liệu
Khoa Vật lí, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên
Đại học Quốc gia Hà Nội
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Tài liệu tham khảo
[1] L. M. Liz-Marzán, Materials Today (2004) 26.
[2] Murday, J. S., AMPTIAC Newsletter 6 (2002) 5.
[3]
http://www.thebritishmuseum.ac.uk/science/text/lycurgus/sr-lycurgus-p1-t.html
[4] F. Mafune et. al., J. Phys. Chem. 14 (2000) 8333.
[5] D. Kim et. al., Nanotechnology 17 (2006) 4019.
[6] K. A. Bogle et. al., Nanotechnology 17 (2006) 3024.
[7] H. S. Shin et. al., J. Colloid. Interface Sci. 274 (2004) 89.
[8] H. H. Huang et. al., Langmuir 12 (1996) 909.
[9] J. P. Abid et. al., Chem Commun. (2002) 792.
[10] J. Zhu et. al., Langmuire 16 (2000) 6396.
[11] M. Kowshik et. al., Nanotechnology 14 (2003) 95.
[12] K. J. Klabunde, Nanoscale
Materials in Chemistry, Wiley (2001), p. 23.
[13] R. R. Letfullin et. al.,
Nanomedicine 1 (2006) 473.
[14] J.-P. Debouttiere, et. al.,
Adv. Func. Mater. 16 (2006) 2330.
[15] G. A. DeVries, et. al.,
Science 315 (2007) 358.