Những bài cùng tác giả
Việc khám phá quả bóng đá fullerene C60
vào năm 1985 của Harold Kroto, Robert Curl và
Richard Smalley và việc tái phát hiện ống than nano
của Sumio Iijima vào năm 1991 là hai sự kiện tình cờ
trong khoa học nhưng đã mở màn một kỷ nguyên mới của
nghiên cứu khoa học và công nghệ. Hai loại vật liệu
nano hữu cơ này như một chi lưu quan trọng hòa nhập
vào dòng thác "công nghệ nano" manh nha vào thập
niên 80 của thế kỷ trước. Cùng với sự phát triển
fullerene và ống than nano, các nhà vật liệu học và
hóa học đã tổng hợp và tinh chế các loại hạt nano
kim loại, hạt nano bán dẫn hay hữu cơ với một kích
thước đồng nhất từ 1 đến 100 nanomét. Tổng hợp hạt
nano với một kích thước đồng nhất theo ý muốn phải
nói là một thành tựu nổi bật trong ngành hóa tổng
hợp [1]. Ngoài ra, bề mặt của fullerene, ống than
nano và các loại hạt nano được "trang bị" với các
nhóm chức, polymer có khả năng cảm quang, cảm nhiệt
để chế tạo bộ cảm ứng hóa học, sinh học, sóng điện
từ, dụng cụ điện tử, quang điện tử; hay với phân tử
dược cho việc trị liệu ung thư.
Tháng 12 năm 2010, Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển
trao giải Nobel Vật lý cho công trình nghiên cứu
graphene của hai nhà khoa học người Anh gốc Nga,
Andre Geim và Konstantin Novoselov (Đại học
Manchester, Anh quốc). Graphene là một lớp của than
chì (graphite). Từ lâu, người ta đã biết rõ cấu trúc
lớp (layered structure) của than chì, vì giá rẻ nên
không biết làm gì hơn là dùng làm lõi bút chì. Geim
và Novoselov dùng một thao tác nano đơn giản bằng
cách áp băng keo lên than chì để tách ra một mảng
graphene. Từ đó than chì từ một "phó thường dân"
được thăng hoa trở thành hoàng tử. Việc tách rời
từng lớp graphene từ than chì lần đầu tiên đã cho
ngành vật liệu học một vật liệu nano thuần carbon
hai thứ nguyên với độ dày của một nguyên tử. Tầm
quan trọng trong ứng dụng của graphene và việc mở
rộng chân trời nghiên cứu vật lý lý thuyết có lẽ là
hai nguyên nhân chính trong việc trao giải Nobel cho
Geim và Novoselov, dù rằng hai ông chỉ mới chế tạo
graphene vào năm 2004.
Như
vậy, trong một phần tư thế kỷ qua carbon trở nên một
vật liệu quan trọng với giải Nobel Hóa học (1996)
cho fullerene, giải Nobel Vật lý (2010) cho
graphene, và các loại vật liệu nano kim loại hay bán
dẫn được thiết kế và chế tạo ở mức độ phức tạp đa
năng chưa từng thấy trong lịch sử khoa học. Hệ quả
là đã có hàng ngàn báo cáo khoa học được phát biểu
trên các tạp chí chuyên ngành, hàng ngàn đăng ký
phát minh đã xuất hiện và vẫn tiếp tục gia tăng theo
con số lũy thừa. Việc khám phá graphene với những
tính chất đặc thù của vật liệu nano hai thứ nguyên
càng gia tăng sự hào hứng trong các nỗ lực nghiên
cứu cơ bản lẫn ứng dụng. Trong cái nhìn của các nhà
vật lý, chúng ta đã có đủ toàn bộ vật liệu nano từ
hạt nano (chấm lượng tử) với zero thứ nguyên, ống
than nano một thứ nguyên và graphene hai thứ nguyên
để thực chứng những hiện tượng đã được tiên đoán từ
các lý thuyết vật lý trong nhiều năm qua.
Nhưng các ứng dụng thực tiễn và sản phẩm nano thì ra
sao? Sau 25 năm nghiên cứu với tổng kinh phí nghiên
cứu đầu tư trên toàn thế giới vào công nghệ nano có
thể đã vượt qua mốc trăm tỷ đô la, chưa kể chi phí
xây dựng hạ tầng cơ sở cho các viện nghiên cứu, cộng
với một tài sản trí tuệ của hàng ngàn nhà nghiên cứu
từ những khoa học gia tầm cỡ của hành tinh đến các
nghiên cứu sinh bình thường, đã đến lúc người ta đặt
câu hỏi bao giờ thì kho tàng trí tuệ này mới được
đem ra ứng dụng biến chế ra thương phẩm phục vụ con
người và làm giàu cho nền kinh tế quốc gia. Liệu nền
công nghệ nano có phải là con gà đẻ trứng vàng tạo
ra những đợt sóng thần cách mạng công nghệ như các
nhà nghiên cứu và doanh nghiệp đã kỳ vọng? Nếu ta có
một cái nhìn khe khắt hơn thì một phần tư thế kỷ có
lẽ đã đủ dài để biến một phát minh khoa học trong
phòng thí nghiệm thành những sản phẩm trên thương
trường.
Lịch sử khoa học cho thấy việc áp dụng chất bán dẫn
vào transistor chế tạo các dụng cụ điện tử kể cả máy
tính tạo ra cuộc cách mạng tin học, hay việc phát
minh ra sợi nylon tạo ra các loại vải vóc nhân tạo
thay thế tơ tằm, len dạ thiên nhiên làm thay đổi
khái niệm "mặc" của con người, cũng như việc sử dụng
các loại sợi gia cường như sợi carbon (carbon
fibres), sợi Kevlar để chế tạo composite công nghệ
vừa nhẹ vừa bền thay thế kim loại; tất cả những sự
kiện khoa học công nghệ này từ phòng thí nghiệm cho
đến thương trường không quá 30 năm. Tuy nhiên, trong
cùng một thời gian ta phải khách quan nhìn nhận rằng
dù vật liệu nano càng ngày càng đa dạng và tinh vi
nhưng cho đến nay chúng vẫn chưa mang tới cho nhân
loại một sản phẩm đổi đời như transistor, vải vóc
nhân tạo hay composite gia cường đã làm trong quá
khứ.
Tại
các hội nghị khoa học hay trong các bài báo cáo, các
nhà khoa học có thói quen dự phóng, thậm chí cường
điệu những tiềm năng ứng dụng của một phát hiện có
lẽ để kích thích sự lắng nghe của các cơ quan tài
trợ với niềm hy vọng tìm được kinh phí cho tài khóa
tới, sẽ mua thêm được nhiều thiết bị và ban phát
nhiều học bổng cho các nghiên cứu sinh xuất sắc.
Cuối cùng, họ sẽ xuất bản những bài báo trên những
tạp chí có chỉ số ảnh hưởng cao (high impact factor)
và giáo sư chỉ đạo sẽ có nhiều cơ hội tìm thêm kinh
phí mới. Trước những khám phá khoa học, doanh nhân
có một cái nhìn khác, sâu sắc và lạnh lùng hơn vì
mục đích cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận.
Một doanh nhân đã từng tuyên bố: "Một phát minh
cần phải 10 lần tốt hơn và 10 lần rẻ hơn sản phẩm
hiện có thì mới có cơ hội xuất hiện trên thương
trường". Sự sống còn của một doanh nghiệp tùy
vào sự thỏa mãn của khách hàng và lòng hoan hỉ của
các chủ cổ đông. Từ phòng thí nghiệm đến sàn chứng
khoán là con đường dài cho một phát minh và cũng lắm
khi nó buộc phải bị chôn sống giữa đường. Công nghệ
nano cũng không nằm ngoài các quy luật thương mãi.
Thêm vào đó ta có thể tìm thấy sự trì trệ trong việc
thương phẩm hóa của vật liệu nano gây ra từ các
nguyên nhân sau: (1) sự đa dạng của vật liệu nano,
(2) sự đa dạng của các ứng dụng, (3) sự cạnh tranh
về giá cả, hiệu năng và phương pháp sản xuất của vật
liệu "cổ điển" hiện có trên thương trường và (4) vấn
đề an toàn sức khoẻ và độc tính của vật liệu nano.
Ta có thể hình dung nền công nghệ nano như một người
đang đi vào cái tuổi trung niên có cái đầu bách khoa
rất to nhưng tứ chi chậm phát triển, có mầm bệnh lại
thêm cái tính gàn dở muốn làm nhiều việc cùng một
lúc! Nói như thế xem chừng quá ngôn nhưng sự đa dạng
của vật liệu nano với nhiều ứng dụng đa ngành từ vật
lý đến sinh y học, từ điện tử học đến hóa học đã làm
chậm tiến trình thương phẩm hóa. Nền công nghệ nano
trở thành người tù trong sự thông thái của mình.
Ta
hãy xem vài tiềm năng ứng dụng của ống than nano.
Ống than nano có cơ tính tuyệt vời, cứng hơn thép 5
lần, bền hơn thép 160 lần nhưng lại nhẹ hơn thép gần
6 lần. Có thể nói ống than nano có cơ tính cao nhất
so với các vật liệu người ta biết từ trước đến nay.
Cần phải nhấn mạnh rằng đây là cơ tính của một ống
than riêng lẻ. Gia cường các loại polymer/epoxy là
một đề tài nghiên cứu quan trọng trong các ứng dụng
công nghiệp từ nhiều thập niên. Việc triển khai
composite giữa polymer/epoxy và ống than nano là một
hướng đi tất nhiên trong lĩnh vực gia cường. Trải
nghiệm hằng ngày cho ta biết những đồ gia dụng
polymer (plastic) rất tiện lợi vì giá rẻ, dễ chế
biến, nhẹ nhưng giòn, dễ gãy nứt. Poly(methylmethacrylate)
(PMMA), một loại plastic gia dụng trong suốt như
kính, chỉ cần 1 % ống than nano cũng đủ làm tăng cơ
tính của polymer nhiều hơn 5 lần. Như thế ta chỉ cần
một lượng rất nhỏ ống than nano để gia cường PMMA mà
vẫn giữ được sự trong suốt của nó. Đây sẽ là một sản
phẩm tuyệt vời. Ngoài ra, người ta có thể chế tạo áo
giáp composite ống than nano có cường độ bảo vệ lớn
hơn nhiều lần so với áo giáp Kevlar hiện nay. Trên thực tế, ống than
nano không hiện hữu từng ống riêng lẻ mà nhiều ống
dính vào nhau thành cụm hay bó (Hình 1). Trong quá
trình sản xuất, sự kết tập của ống thành cụm hay bó
xảy ra một cách tự nhiên vì ống có diện tích bề mặt
rất lớn nên lực van der Waals tạo ra sức hút rất hữu
hiệu giữa các ống. Tiếc rằng, độ cứng (mô-đun Young)
của những cụm này chỉ bằng 1/10 và độ bền lắm lúc
chỉ còn 1/100 trị số của các ống nano tạo thành.
Hình 1:
Sự kết tập của ống
than nano do lực van der Waals (ảnh của tác giả).
Việc gia cường với ống than nano cần phải có những
ống riêng lẻ. Vì vậy, sự thành bại của composite
giữa polymer và ống than nano tùy thuộc vào cách
tinh chế, gỡ rối cụm và bó ống nano và phân tán hiệu
quả từng ống nano trong chất nền. Cho đến ngày hôm
nay (2010), chưa có một phương pháp hữu hiệu nào để
tách các ống than nano hoàn toàn thành những ống
riêng lẻ. Cơ tính tuyệt vời của ống vẫn chưa được
tận dụng và composite được gia cường bằng ống than
nano chưa là sản phẩm trên thương trường.
Một
ứng dụng lớn khác của ống than nano là công nghiệp
điện tử. Những công ty tầm cỡ như IBM (Mỹ), Samsung
(Hàn Quốc), NEC (Nhật Bản) đã đầu tư vào việc nghiên
cứu sử dụng ống than vào các dụng cụ điện tử. Ống
than mang đặc tính dẫn điện đạn đạo (electrical
ballistic conduction), nghĩa là nhờ vào hình dạng
ống electron có thể di chuyển tự do mà không bị va
chạm vào thành ống, nhờ vậy việc phát nhiệt được
giảm thiểu tối đa. Độ dẫn điện của ống có thể điều
chỉnh từ mức bán dẫn đến kim loại. IBM đã tận dụng
những đặc tính này để chế tạo transistor ống nano
[2]. Vật liệu chính của transistor hiện tại là chất
bán dẫn silicon. Cột sống của các dụng cụ điện tử,
máy tính và công nghệ tin học là transistor silicon.
Trong vòng 40 năm cho đến ngày nay, transistor
silicon đã được thu nhỏ vài chục triệu lần và giá cả
chế tạo một transistor giảm đi một triệu lần. Nếu
giá chiếc xe hơi có độ giảm giá giống như transistor
thì ngày hôm nay ta có thể mua một chiếc xe hơi với
giá vài xu! Hiện nay, transistor "Penryn" do hãng
Intel chế tạo từ nguyên tố silicon và hafnium có
kích thước 45 nanomét là transistor nhỏ nhất trên
thương trường. Transistor này nhỏ đến mức người ta
có thể xếp 2000 transistor trong một khoảng không
gian dày bằng đường kính sợi tóc. Kỹ thuật sản xuất
chip vi tính hiện nay đã phát triển đến mức 1
tỷ transistor trong một chip chỉ to vài cm2.
Theo luồng chế biến này, người ta dự đoán rằng
transistor silicon với kích cỡ 16 nanomét sẽ được
tung trên thương trường vào năm 2018.
Khi
transistor càng nhỏ, ta có thể gia tăng số
transistor làm dụng cụ càng linh hoạt, chức năng
càng cao, ứng đáp càng nhanh chóng, kích thước càng
mỏng, nhỏ và gọn gàng. Từ những ưu điểm này, sự đòi
hỏi thu nhỏ kích thước transistor càng lúc càng mãnh
liệt. Tuy nhiên, sự thu nhỏ của transistor silicon
không thể vượt mức nhỏ hơn 10 nanomét. Nhưng các
công trình nghiên cứu của IBM và các nhóm nghiên cứu
khác trong 15 năm qua cho thấy transitor ống than
nano có thể vượt qua mốc 10 nanomét. Gần đây,
graphene nhập cuộc. Năm 2008, nhóm Manchester của
Geim và Novoselov đã chế tạo transistor graphene ở
kích cỡ 1 nanomét. Có thể đây là kích cỡ nhỏ tận
cùng của một transistor. Rõ ràng là một đột phá
nhưng chỉ mang tính hàn lâm. Sẽ còn rất lâu
transistor ống nano hay graphene mới có thể thay thế
transistor silicon vì vấn đề kỹ thuật và giá cả.
Chướng ngại kỹ thuật thứ nhất là sự đồng nhất tuyệt
đối của vật liệu sử dụng. Ống than nano dùng cho
transistor cần phải có kích thước đồng nhất ở cấp
nanomét và độ dẫn điện giống nhau. Yêu cầu này đã
thúc đẩy việc sản xuất ống than nano chất lượng cao
(Bảng 1) nhưng vẫn chưa đạt được yêu cầu của
transistor [3]. Chướng ngại thứ hai là các nhà khoa
học chưa triển khai được quá trình chế tạo siêu vi
mạch tạo ra chip chứa hàng trăm triệu
transistor ống nano hay graphene như chip
transistor silicon hiện tại.
Ứng
dụng trong gia cường và transistor của ống than nano
là hai ứng dụng có tiềm năng tạo nên một cuộc cách
mạng công nghệ trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, viễn ảnh
thành công vẫn còn mờ mịt. Bảng 1 cho thấy hiện
trạng ứng dụng và hướng phát triển của của ống than
nano phần lớn vẫn còn trong thời kỳ nghiên cứu hay
triển khai sản phẩm.
Bảng
1: Nghiên cứu và triển khai của các
sản phẩm ống than nano [4]
Công ty
|
Sản phẩm
|
Giai đoạn
|
Ống than nano
chất lượng cao cho các ứng dụng điện tử
|
CarboLex (Mỹ) |
Chế tạo bằng
hồ quang hay CVD* |
Sản xuất
|
Carbon
Nanotechnologies (Mỹ) |
Chế tạo bằng
CVD |
Sản xuất
|
Carbon
Solutions (Mỹ) |
Chế tạo bằng
hồ quang |
Sản xuất
|
SouthWest
NanoTechnologies (Mỹ) |
Ống than nano
đặc biệt từ CVD |
Sản xuất
|
Thomas Swan
(Anh) |
Ống than nano
sản xuất đại trà từ CVD |
Sản xuất
|
Phim trong
suốt
|
Battelle
Memorial Institute (Mỹ) |
Lớp phủ trong
suốt |
Nghiên cứu |
Eikos (Mỹ) |
Mực in dẫn
điện |
Triển khai sản
phẩm |
Eastman Kodak
(Mỹ) |
Lớp phủ quang
học trong suốt |
Nghiên cứu,
mẫu thử (prototype) |
Unidym (Mỹ) |
Phim cho màn
hình chạm (touch screen), pin mặt trời,
diode phát quang |
Triển khai sản
phẩm |
Linh kiện
|
DuPont (Mỹ) |
Linh kiện điện
tử trong suốt |
Nghiên cứu |
IBM (Mỹ) |
Transistor
nano cho vi tính |
Nghiên cứu |
Intel (Mỹ) |
Liên mạng vi
mạch (interconnect) |
Nghiên cứu |
Motorola (Mỹ) |
Bộ cảm ứng hóa
và sinh học |
Mẫu thử |
Nanomix (Mỹ) |
Bộ cảm ứng hóa
và sinh học |
Triển khai sản
phẩm |
Nantero (Mỹ) |
Công nghệ bộ
nhớ |
Mẫu thử |
Samsung (Hàn
Quốc) |
Màn hình
|
Nghiên cứu |
* CVD
(chemical vapour deposition): kết tủa hóa
học từ pha hơi |
Mặt
khác, ứng dụng sinh y học của hạt nano tạo ra những
dược liệu trị liệu và chẩn đoán ung thư [5]. Nhân
loại đang chờ đợi một cuộc cách mạng hóa trị và xạ
trị ung thư. Đã có nhiều báo cáo về việc tổng hợp
các loại hạt nano "thông minh" có thể cảm nhận được
tế bào ung thư, có khả năng tải thuốc và nhả thuốc
tấn công vào các tế bào này. Hạt nano tải thuốc phải
tương thích với cơ thể con người và tự phân hủy khi
hoàn thành nhiệm vụ mà không sinh ra độc tố. Đây là
hai yếu tố tiên quyết cho việc chấp nhận là dược
phẩm trị liệu. Bảng 2 cho thấy "Cục quản lý thực
phẩm và dược liệu" (Food and Drug Administration,
FDA) của chính phủ Mỹ cho đến nay chỉ chấp nhận cho
phổ biến hạt nano liposome và albumin, vốn là phân
tử sinh học tương thích với cơ thể và có thể tự đào
thải ra ngoài.
Bảng 2:
Các dược liệu nano trị ung thư [6]
Loại hạt
nano
|
Giai đoạn
phát triển
|
Tên thuốc
|
Liposome |
Được FDA* chấp
nhận |
DaunoXome,
Doxil |
Albumin |
Được FDA* chấp
nhận |
Abraxane |
Mixen polymer |
Thử nghiệm lâm
sàng |
- |
Liên hợp
polymer/thuốc |
Thử nghiệm lâm
sàng |
- |
Liposome định
hướng** |
Thử nghiệm lâm
sàng |
- |
Hạt polymer
định hướng** |
Thử nghiệm lâm
sàng |
- |
Ống than nano,
hạt silica, hạt nano vàng |
Thử nghiệm lâm
sàng |
- |
* FDA: Food
and Drug Administration. "Cục quản lý thực
phẩm và dược liệu" cuả chính phủ Mỹ.
** Có chức
năng tìm tế bào ung thư. |
Vấn
đề an toàn sức khỏe và độc tính của vật liệu nano
đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính phủ
và các doanh nghiệp đang đầu tư vào công nghệ nano.
Nó như một luồng nước ngầm nguy hiểm đang cuồn cuộn
chảy dưới một dòng sông êm đềm lấp lánh ánh hào
quang. Khả năng gây ung thư của ống than nano và sự
kiện về hạt nano titanum dioxide trong kem chống
nắng có thể phá hỏng não bộ của chuột đã phần nào
làm lu mờ ánh hào quang và gây sự quan ngại trong
cộng đồng nghiên cứu khoa học. Đây là một vấn đề rất
lớn liên quan đến an toàn sức khỏe của công nhân
hằng ngày tiếp xúc với vật liệu nano và người tiêu
dùng sử dụng thành phẩm nano [7]. Các chính phủ tại
Bắc Mỹ, châu Âu, Úc và Nhật Bản đã ban hành những
quy định liên quan đến sự an toàn, cách xử lý và chế
ngự trong các quy trình sản xuất và sử dụng vật liệu
nano [8-10]. Những công trình nghiên cứu về tác động
và cơ cấu xâm nhập vào tế bào sinh vật của vật liệu
nano càng lúc càng gia tăng [11-14]. Vật liệu nano
lành hay dữ? Hiện tại chúng ta chưa có câu trả lời
dứt khoát.
Hiện trạng nghiên cứu của công nghệ nano là hai mặt
mâu thuẫn. Một mặt là nghiên cứu cơ bản mang tính
hàn lâm, các phát hiện mới về đặc tính điện tử,
quang điện tử và lượng tử của vật liệu nano vẫn
không suy giảm dù thời gian đã kéo dài 25 năm.
Graphene lại bùng ra một cao trào mới. Sau khi được
giải Nobel, Novoselov cao hứng tuyên bố:
"Graphene là một mỏ vàng nghiên cứu. Nó sẽ kéo dài
mãi như bất tận". Mặt kia là các vướng mắc kỹ
thuật như đã đề cập ở trên, làm trì hoãn các dự án
sản xuất đại trà sản phẩm nano khiến cho nền công
nghệ nano hiện tại nhấp nhô như những gợn sóng lăn
tăn trên mặt hồ thu hơn là những ngọn sóng thần đại
dương làm khuynh đảo thế giới.
Trong một nước đang phát triển như Việt Nam và trước
sự đa dạng và phức tạp của công nghệ nano, trên bình
diện đối nội, chính phủ cần có một nhận thức khách
quan về tiềm năng và rủi ro của nền công nghệ này để
định hướng và xác lập các lĩnh vực nghiên cứu ưu
tiên nhằm đưa ra chính sách cung cấp kinh phí cho
việc tuyển chọn các đề án nghiên cứu thực tế phù hợp
với sinh hoạt người dân và làm giàu cho nền kinh tế
quốc gia. Đồng thời tạo ra nội lực trong các lĩnh
vực nghiên cứu ưu tiên. Như trình bày ở trên, chúng
ta đang có một kho tàng tri thức nano công khai gần
như miễn phí được tích tụ trong một phần tư thế kỷ
lại được hỗ trợ bằng những lý thuyết vật lý tuyệt
vời đang chờ đợi những cái đầu kinh thương khoa học
biến thành sản phẩm. Việt Nam có nhiều lý thuyết gia
lỗi lạc nhưng hầu như thiếu vắng những nhà nghiên
cứu tinh thông trong chế tác (manufacturing). Nền
công nghệ nano đang cần những đầu óc và bàn tay chế
tạo các sản phẩm nano. Trên bình diện đối ngoại, để
bắt kịp thế giới việc hợp tác và gởi nghiên cứu sinh
làm việc tại các viện công nghệ nano quốc tế, đặc
biệt cơ quan nghiên cứu R&D của các công ty danh
tiếng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Có lẽ chính
phủ ta cũng nên đầu tư tạo mối liên hệ với các giáo
sư tầm cỡ hay giám đốc công ty R&D đã nghĩ hưu qua
các hoạt động tư vấn. Ngoài kiến thức chuyên môn,
sau lưng các vị này là một mạng lưới dày đặc những
quan hệ mà ta cần để khắc phục khó khăn trong việc
phát triển khoa học và công nghệ.
Trương Văn Tân
Melbourne, tháng Giêng
2011.
Tài Liệu Tham Khảo
-
J. Kim, J. E. Lee,
J. Lee, Y. Jang, S.-W. Kim, K. An, J. H. Yu and
T. Hyeon, Agnew. Chem., 118
(2006), 4907. Agnew. Chem. Int. Ed.,
45 (2006) 4789.
-
P. Avouris, Z.
Chen and V. Perebeinos, Nature Nanotechnology,
2 (2007) 605.
-
J. Appenzeller,
Proceedings of the IEEE, 96 (2008)
201.
-
G. Gunner,
Scientific American, May 2007, 76.
-
"Nanofunctional
Materials in Cancer Research",
MRS Bulletin, 34 (June 2009).
-
J. R. Heath, M. E.
Davis and L. Hood, Scientific American,
February 2009, 44.
-
P. Gould, Nano
Today, 1 (May 2006), 34.
-
"Engineered
Nanomaterials: A Review of the Toxicology and
Health Hazards",
Safe Work Australia, November 2009.
-
"Engineered
Nanomaterials: Evidence on the Effectiveness of
Workplace Controls to Prevent Exposure",
Safe Work Australia, November 2009.
-
"Approach to Safe
Nanotechnology",
NIOSH, March 2009.
-
A. D. Maynard,
Nano Today, 1 (May 2006) 22.
-
N. Lewinski, V.
Colvin and R. Drezek, Small, 4
(2008) 26.
-
S. M. Hussain et
al, Adv. Mater. 21 (2009), 1549.
-
Y. Lee and K. E.
Geckeler, Adv. Mater. 22 (2010),
4076
Đã đăng trên Diễn Đàn
|