Nguyên tử lạnh
Dùng một chùm tia sáng hướng xạ bằng tia laser để đục lỗ,
làm nóng chảy, cắt kim loại hay làm khí giới hủy diệt...
không còn làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Ngược lại, dùng tia
laser để làm lạnh vật chất mới lạ kỳ. Ðúng vậy, đó là một
máy làm lạnh đặc biệt chỉ làm lạnh những nguyên tử khí.
Thật vậy, những nhà vật lý đã thành công trong việc dùng
tia laser để làm lạnh những nguyên tử gần không độ tuyệt
đối -chưa tới một phần triệu độ Kelvin- Ở nhiệt độ này, thay
vì chúng dao động mọi hướng như ở môi trường bình thường
chúng ta đang sống. thì chúng bị đông cứng tại chỗ thành một
đám mây tuyết mà ta có thể khảo sát chúng tùy thích trong
những điều kiện không thể tưởng tượng cách đây vài năm. Kỹ
thuật này chắc chắn sẽ tìm ra một ứng dụng như mọi ứng
dụng khác
Làm lạnh là gì?
Tại
sao tia laser lại làm lạnh được nguyên tử?
Ðể hiểu được, chúng ta phải biết thế nào là
nhiệt.. Nếu định nghĩa theo mức độ vi mô (niveau
microscopique) thì đó là do sự lay động điên cuồng
của những hạt nguyên tử. Trong chất rắn, những
nguyên tử dao động xung quanh vị trí mà chúng được
giữ lại do những lực cố kết bên trong (forces de
cohésion interne) .
Trong chất khí, chúng di chuyển hỗn độn khắp mọi
phía với vận tốc đáng kể, từ vài trăm mét đến vài
cây số một giây từ thành này qua thành khác của vật
chứa nó.
Làm giảm nhiệt độ tức là làm giảm độ dao động
nhiệt này. Ở không độ tuyệt đối sẽ là sự bất động
hoàn toàn. Do đó làm lạnh một chất khí có nghĩa là
hãm bớt sự hoạt động thất thường của chúng Áp suất bức xạ
(Pression de radiation)
Áp suất bức xạ là một sức ép thực sự do tác dụng
của ánh sáng trên vật chất.
Tia laser , dưới những điều kiện nào đó, có thể
làm nguyên tử dao động chậm lại nhờ áp suất bức xạ.
Ðể biết khái niệm về áp suất bức xạ, chúng ta quay
về quá khứ thật xa xưa trước khi có tia laser và
chúng ta nhớ lại rằng đầu thế kỷ XII, Kepler đã
nghi ngờ có sự hiện diện của một lực khi ông thấy
cái đuôi của sao chổi luôn luôn nằm vị trí đối diện
với mặt trời. Ông giải nghĩa rằng nó bị áp suất bức
xạ của ánh sáng mặt trời đẩy ra xa. Thật ra hướng
đuôi sao chổi được hình thành do nhiều hiện tượng
phức tạp, nhưng áp suất bức xạ đã gây sự chú ý của
các nhà vật lý hơn bao giờ hết. Ðó là Einstein vào
đầu thế kỷ thứ XX đã giải thích lần đầu tiên khái
niệm này bằng
thuyết Lượng Tử , nghĩa là ánh sáng được cấu tạo
bởi các phần tử gọi là quang tử (photon). Một tấm
đục mờ (hay phản chiếu) nếu được chiếu bởi ánh sáng
đủ mạnh sẽ bị một loạt photon "oanh tạc" đến độ có
thể làm cho tấm đó di động nếu nó khá nhẹ.
Ðẩy và làm chậm dao
động nguyên tử bằng tia laser
Cũng như tấm đục
(paroi opaque) đó, các nguyên tử của chất khí hấp
thu tia laser sẽ chịu một cú "sốc" và nhận một lực
đẩy (xung động, impulsion) theo hướng của ánh sáng
tới. Một nguyên tử đứng yên đặt trước chùm tia
laser sẽ bị đẩy về hướng truyền của chùm tia với một
lực lớn đến nỗi làm cho nguyên tử gia tăng tốc lực
đến 1 cây số 1 giây trong vòng một phần ngàn giây.
Kết quả lạ lùng này không phải do một photon, vì 1
photon sẽ cho nguyên tử một cú sốc rất yếu. Muốn
như trên, phải có sự lập đi lập lại nhiều lần.
Nguyên tử nhận nhiều cú sốc vì nó hấp thu nhiều
photon.
Nhưng nguyên
tử không thể hấp thu vô số photon mãi được.
Thật ra, mỗi lần hấp thu một photon thì nó
lại phát ra trở lại một photon khác, gọi là
photon hùynh quang (fluorescence), giống y
như photon mà nó vừa hấp thu, nhưng nó sẽ
đi ra theo môt hướng nào đó. Mỗi lần phát
ra một photon, nguyên tử lại thụt lùi một
chút, giống như khẩu súng bị giựt thụt lùi
khi bắn ra một viên đạn. Nhưng vì những
photon huỳnh quang văng ra tứ phía không
định hướng nên tổng hợp mọi lực lại sẽ
triệt tiêu.
Ðiểm chính yếu
là phải làm cho nguyên tử hấp thu photon. Muốn được
như vậy, phải điều chỉnh làm sao cho tần số của
photon phù hợp với một trong những tần số riêng của
nguyên tử. ( la fréquence des photons soit ajustée
de manière à correspondre à une des propres
fréquences de l'atome). Chính trong những điều kiện
này mà người ta đẩy một nguyên tử một cách hiệu quả.
Nếu bây giờ ta phóng thật nhanh các nguyên tử để gặp
chùm tia laser, ta có thể làm chậm chúng lại, chận đứng hay
ngay cả làm cho chúng quay ngược trở lại. Thí nghiệm làm
chậm nguyên tử này được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985
bởi hai ê kíp người Mỹ
Hiệu ứng Dopler
Hiệu
chính một thí nghiệm như vậy kéo theo thêm một khó
khăn: hiệu ứng Doppler. Ðó là một hiện tượng rất
phổ quát tạo ra cho âm thanh, cho sóng ánh sáng khi
nguồn đang chuyển động so với người quan sát. Chẳng
hạn tiếng còi tàu có vẻ cao hơn khi tàu tiến gần tới
và trầm hơn khi tàu xa dần. Tần số những photon mà
người quan sát (hay nguyên tử) đang chuyển động khác
với tần số mà tia laser phát ra.
Từ sự giảm tốc độ cho
đến sự làm lạnh
Nhưng đến đây thì những thủ tục
trên chỉ làm chậm lại những nguyên tửđang bay nhanh
khủng khiếp trong một tia phóng. Bây giờ làm sao
làm lạnh một hơi nóng mà nơi đó các nguyên tử chạy
tán loạn vô phương hường với tốc độ rất lớn?
Kết hợp nhiều tia laser
Thiết bị thích đáng được đề nghị từ năm 1976 bởi
hai nhà vật lý của đại học Stanford là dùng nhiều
chùm tia laser. Ta có thể hiểu được cách hoạt động
của chúng bằng cách quan sát dọc theo đường thẳng
trên đó người ta phát hai chùm tia laser y hệt nhau,
lan truyền theo hướng ngược nhau. Ðiều chỉnh làm sao
cho tần số các tia laser thấp hơn tần số riêng của
nguyên-tử-đang-chuyển-động một chút Với 6 chùm tia laser, đối nhau
từng cặp một theo 3 hướng trong không gian: áp suất bức xạ
sẽ đi ngược lại với chuyển động của nguyên tử cho dù
chúng có chạy qua bên phải, bên trái hay lên trên, xuống
dưới hoặc ra đằng trước hay đằng sau. Nguyên tử bấy
giờ bị phanh lại rất mạnh mẽ cho dù nó đi đâu đi chăng nữa.
Nó như đang
di chuyển trong một dung dịch rất nhờn mà người ta gọi là
mélasse optique. Mélasse optique làm lắng dịu lại sự sôi
động nhiệt của những nguyên tử và làm chúng đông lạnh hoàn
toàn, tại chỗ. Thí nghiệm lần đầu tiên tại phòng thí
nghiệm AT&TBell tại Hoa Kỳ năm 1985 cho ra những nguyên tử
có nhiệt độ dưới một phần ngàn độ Kelvin, tượng trưng với
vận tốc trung bình vài chục centimét/giây. Và sự hãm vận tốc
này được thực hiện trong phần ngàn giây.
Vài năm sau lần thí nghiệm đầu tiên về mélasse optique,
năm 1990, một ê kíp người Pháp đã đoạt kỷ lục gần không độ
tuyệt đối : 2µK tức là chỉ cao hơn 0K có 2 phần triệu độ!
Sự phát triển lớn trong lãnh vực thực nghiệm kèm theo
những tiến bộ quan trọng về lý thuyết nhờ những ê kíp Mỹ
và Pháp.
Nếu dựa trên căn bản lý luận như trình bày ở trên về cơ
chế làm lạnh, còn gọi là "mélasse Doppler", người ta có thể
tính được nhiệt độ giới hạn mà không thể nào xuống thêm
được. Lực ma sát của mélasse làm các nguyên tử bất động
hoàn toàn, vì bị ngăn trở khi những nguyên tử bị khá lạnh do
sự phát xạ photon huỳnh quang như ta đã nói ở trên. Do sự
thụt lùi mỗi khi phát ra photon fluorescens một cách tình
cờ, và khắp mọi hướng cộng với sự ma sát mà nguyên tử chỉ
còn một sự khuấy động tuy còn sót lại chút ít nhưng nó làm
cho giới hạn nhiệt độ còn 200µ°K
Ngay cả những lần thí nghiệm
đầu tiên, giới hạn đó gần đạt tới, rồi thì giới hạn càng
tiến xa hơn dự tính. Theo những nhà vật lý thì còn những cơ
chế khác đó là hiệu ứng cơ học của ánh sáng, độc lập với áp
suất bức xạ.
Làm lạnh tốt hơn nhờ đặc tinh
sóng của ánh sáng
Sóng ánh sáng tạo cho nguyên tử một hình
nổi thật sự do những chỗ lồi lõm của nó. Nguyên tử đã bị
chậm lại bởi hiệu ứng mélasse rồi còn phải lên xuống những
chỗ lổi lõm. Người ta còn sắp đặt cho nguyên tử lên nhiều
hơn là xuống để nó mất nhiều năng lượng và bị kẹt trong chỗ
lõm, nơi đó nó ở nhiệt độ rất thấp
Cái bẫy cho những
nguyên tử siêu lạnh
Những mélasse de photons làm
lạnh các nguyên tử ở nhiệt độ rất thấp, nhưng chúng
chưa thực thụ bị giam hãm. Chúng còn đi được vận
tốc vài phân mỗi giây theo đường chữ z (zigzag),
lộn xộn không theo phương hướng nào cả vì mỗi lần nó
gặp một photon là nó đổi hướng. Tuy vậy không gì
ngăn cản nó đi về hướng mép của mélasse (tạo thành
bởi vùng giao nhau của 6 chùm tia laser) để trốn
chạy. Nghĩa là người ta phanh nó lại nhưng không
bẫy nó được.
Ðể giải quyết
vấn đề bất tiện này, những nhà nghiên cứu
Pháp đề nghị hoàn thiện mélasse bằng cách
thêm vào một từ trường cho 6 chùm tia
Ghép đôi
laser-từ trường
Từ trường làm thay đổi cơ
cấu trong nguyên tử và tần số riêng của
chúng Do đó có một sự thay đổi áp suất bức
xạ mà những photon gây trên nó. Với một từ
trường thay đổi chung quanh một tâm điểm,
người ta có thể điều chỉnh được áp suất bức
xạ như thế nào để áp suất đưa các nguyên tử
vô giữa trung tâm trong lúc vẫn tạo được
hiệu ứng mélasse Ðể chất đầy nguyên tử
lạnh vô bẫy , thoạt đầu các nhà nghiên cứu dùng một
tia nguyên tử (jet d'atomes) đã được làm chậm. Nhưng
sau đó họ nhận thấy rằng những nguyên tử đến trung
tâm quá dễ dàng, ngay cả khi tia nguyên tử không
hướng về phía trung tâm. Do đó họ nghĩ rằng họ có
thể chụp bắt được nguyên tử trong những điều kiện
khó khăn hơn Họ liền đặt cái bẫy ở giữa một vật
chứa khí nguyên tử bằng thuỷ tinh, ở nhiệt độ
thường. Bẫy tốt đến nỗi nó bẫy luôn những nguyên tử
gần trung tâm và làm lạnh chúng và giữ chúng ở tình
trạng lơ lửng: sau khoảng một phần mấy giây, nhiều
nguyên tử dính kết lại thành một đám mây nhỏ, sáng
mà tỉ trọng gấp ngàn lần chất khí. Ngoài ra những
nguyên tử này rất lạnh trong lúc nguyên tử chât khí
thì nóng
Thí nghiệm này khởi đầu được
thực hiện với những nguyên tử Césium và tia laser có độ dài
sóng 850nm tương đương với màu đỏ sậm, chỉ thấy vừa phải
không rõ, gần như infrarouge. Ðể nhìn thấy rõ mây (nguyên
tử lạnh), nên dùng caméra infrarouge. Người ta cũng làm
thí nghiệm với những nguyên tử Natri và tia laser màu vàng
với độ dài sóng là 690 nm
Trong hai trường hợp, ta thấy rất rõ mây tạo thành ngay khi mới
vừa cắm máy laser.
Mây chiếu sáng là do các các nguyên tử phát các photon huỳnh
quang ra khắp mọi nơi . Số nguyên tử bị mắc bẫy có khoảng 100 triệu
đến 1 tỉ cho đám mây có đường kính vài milimét
Những nguyên tử lạnh bi mắc bẫy dùng để làm gì?
Những nguyên tử lạnh bị bẫy mở ra những triển vọng mới cho ngành
vật lý dùng nhiệt độ rất thấp. Các nguyên tử rất lạnh này sẽ tự
đông đặc thành mạng đều đặn hay tích tụ dưới những hình thức khác
như trạng thái lạ lùng của vật chất mà Bose và Einstein đã tiên
đoán năm 1925 nhưng chưa bao giờ được quan sát cho đến ngày nay.
Bẫy nguyên tử phóng xạ
Các nhà vật lý đã bẫy những loại nguyên tử khác nhau. Nhiều ê kíp
nghiên cứu chuyện bẫy các nguyên tử phóng xạ đặc biệt những loại
hiếm. Khi chúng bị bẫy, ta có thể bắt chúng đứng yên để quan sát
Bẫy những phản vật chất (antimatière)
Ý tưởng lạ lùng nhất là chứa những phản vật chất trong bẫy.
Thường thì những phản phật chất bị tiêu tan với vật chất cho nên
ta không thể chứa chúng trong đồ đựng bình thường. Bẫy phải được
cấu tạo bởi một hộp phi vật chất (immatériel) trong đó phản vật
chất được chứa một cách an toàn
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Võ Thị Diệu Hằng
|