Hiện tượng thay đổi khí hậu toàn cầu

Vietsciences- Nguyễn Quang Riệu       14/10/2005

 

 

Ngày 2 tháng 10 năm 2005

Hôm nay Đài Loan và Trung quốc lại bị cơn bão Long Vương đe dọa, hồi đầu tuần trận cuồng  phong Damrey thổi qua vùng Đông Nam Á  đã làm 100 người chết, nặng  nhất là  tại Việt Nam. Trước đó miền Nam Hoa Kỳ cũng liên tiếp bị  bão Katrina và Rita tàn phá. Các sự kiện trên đây đã làm dấy lên trở lại cuộc tranh luận về  giả thuyết cho rằng bão lụt ngày càng dữ dội và thường xuyên hơn vì Trái đất ngày càng bị hâm nóng.

GS Nguyễn Quang Riệu thuộc đài Thiên văn Paris, phân tích thái độ thận trọng của giới nghiên cứu về quan hệ giữa hiện tượng trái đất bị hâm nóng với những nạn bão lụt dữ dội hiện nay, qua cuộc phỏng vấn do ban Việt ngữ đài RFI (Radio France Internationale) thực hiện.

Trọng Nghĩa (RFI) đặt câu hỏi:

 

RFI: RFI hôm nay  lại được hân hạnh tiếp chuyện với GS Nguyễn Quang Riệu. Trong thời gian  gần đây mọi người có cảm giác  là khí hậu  thời tiết đang điên đảo. Thưa GS, nhìn với góc độ khoa học,  bão tố như vậy đã được hình thành như thế nào,  tại châu Á chẳng  hạn?

NQR: Tại Châu Á, có 2 vùng trong đó bão hay có khả năng xuất phát. Một vùng trên Thái Bình Dương có tác động tới Việt Nam và Philippines và một vùng trên  Ấn Độ Dương tác động tới Bangladesh. Trên bề mặt trái đất có tới 75%  là biển , ở những vùng  nhiệt đới như VN,  khi nước biển bị hâm nóng bốc hơi lên và tương tác  với khí quyển thì có khả năng gây ra  bão và lũ lụt ở nơi này, nhưng  hạn  hán ở nơi khác. Lý do là vì khi khí quyển chứa nhiều hơi nước thì  tình trạng thời tiết  không  ổn định.  Những mô hình khí hậu học tiên đoán là sự gia tăng nhiệt độ sẽ gây ra những vụ mưa lớn và những vụ hạn hán lớn. Đây cũng  là những  sự kiện có xu hướng đã xảy ra thực sự ở một số vùng trên toàn cầu. Tuy nhiên các  nhà  khoa học hãy còn rất thận trọng chưa coi đó là những  bằng  chứng  khẳng định là những  mô hình tiên đoán khí hậu là đúng hoàn toàn, bởi vì những  thiên tai xảy ra trong  quá khứ được ghi lại hãy còn  quá ít ỏi, nên những kết luận rút ra từ những quan sát bão lụt không có nhiều ý nghĩa về mặt thống  kê.

 

RFI: Nhìn một cách rộng hơn dưới góc độ khoa học thì do đâu mà khí hậu Trái đất biến đổi thường xuyên, thưa GS?

NQR: Sự thay đổi khí hậu là một hiện tượng đã từng  xảy ra trong quá khứ, nhiệt độ trên Trái đất đã nhiều lần thăng giáng, chuyển từ giá lạnh đến ấm áp. Hiện tượng thay đổi khí hậu  thiên nhiên này, với những thởi kỳ nóng  lạnh kéo dài hàng vạn năm là do sự thay đổi rất tinh tế  của quỹ đạo trái đất, tự quay xung quanh mặt trời và đồng thời lắc  lư, nhưng rất chậm, như một con quay. Khí hậu trên trái đất còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí quyển, nhờ có khí quyển trong đó có những  khí  gây ra hiệu ứng nhà  kính bẫy khí nóng từ Mặt trời chiếu xuống, nên nhiệt độ trên Trái đất mới trở nên vừa phải để sinh vật có thể  sinh sống thoải mái. Từ khi nền  văn  minh khoa học kỹ thuất bắt đầu phát triển cách đây 3 thế kỷ, nhân loại đã khai thác  nguyên liệu và sử dụng ngày càng  nhiều nhiên liệu để đáp ứng  nhu cầu phát triển công  nghiệp. Khí thải công nghiệp, chủ yếu là CO2 , là loại khí gây ra  hiệu ứng nhà kính làm mất sự cân bằng nhiệt thiên nhiên và làm tăng thêm nhiệt độ trái đất. Tìm hiểu diễn biến của khí hậu  là công việc không  đơn giản  chút nào, vì trái đất có rừng, có biển, có tầng khí quyển  bao bọc xung  quanh , tất cả đều có ảnh hưởng đến khí hậu.

 

RFI: Như GS vừa nói thì khí hậu rất là phức  tạp, như vậy giới khoa học đã làm thế nào để nghiên cứu và  dự báo được các thay đổi về thời tiết, thưa GS?

NQR: Các  nhà khí hậu học phải lập ra những mô hình lý thuyết và sử dụng  những  số liệu liên quan đến môi trường đo đạc được trên toàn cầu. Những số liệu được thu thập bằng những thiết bị đặt trên mặt đất và biển và cả trên những vệ tinh.  Các nhà khoa học sử dụng những  số liệu này cùng với những mô hình chạy trên siêu máy tính có khả năng  tính toán lớn để tiên đoán thời tiết và khí hậu

Tuy họ dùng  những phương pháp tính toán phức  tạp như vậy, nhưng họ cũng chỉ dự đoán được những xu hướng diễn biến lâu dài cuả khí hậu trong  khu vực rộng lớn, còn những sự cố xảy ra ở từng địa phương  và ở thời điểm cố định nào đó, như những trận bão và những đợt nắng  nóng vừa mới xẩy ra đây đó, thì chưa có thể dự báo trước lâu được.

Một lý do nữa làm kết quả dự báo thời tiết và khí hậu không chính xác là vì những trạm quan sát để thu số liệu cần thiết hãy còn quá thưa thớt trên toàn cầu, nhất là trên biển.

RFI: Thưa GS, dẫu sao thì tình hình khí hậu trên hành tinh thì có vẻ rất bất thường trong thời điểm hiện nay, cụ thể là những trận bão Rita, Katrina, thổi vào miền Nam nước  Mỹ, Long Vương  thổi vào châu Á . Có người khẳng định đó là do tác động của con người hiệu ứng lồng  kính làm cho khí hậu trái đất nóng lên. Giáo sư đánh giá giả thuyết này như thế nào ?

NQR: Hiện nay chưa có bằng chứng khoa học  nào cho phép chúng ta khẳng định là khi khí hậu nóng lên thì gây ra nhiều cơn bão, tuy những mô hình khí hậu học cho thấy rằng một khi trái đất bị hâm nóng thì cường độ cuả những cơn bão có xu hướng lớn lên. Và gần như hầu hết các nhà khoa học đếu nhất trí cho rằng sự gia tăng  nhiệt độ toàn cầu là đích thực  và khí khải công  nghiệp đã tham gia vào hiệu ứng  nhà  kính hun nóng khí quyển, nhưng hậu quả của hiệu ứng này  không được ước  lượng  một cách chính xác trong tương lai và còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự tăng trưởng dân số toàn cầu và nhu cầu năng lượng  của những thế hệ sau. Nếu không hạn chế sự tiêu thụ năng lượng hoá thạch than và dầu khí  thì, theo những mô hình khí hậu, nhiệt độ trung bình trên trái đất vào cuối thế kỷ này có thể tăng lên từ 2 tới 6 độ C. Một hậu quả của sự gia tăng nhiệt độ là biển giãn nở làm mực nước biển tăng  lên. Mực nước  ở ven biển Đồ Sơn  chẳng  hạn, đã tăng lên khoảng 20 cm trong vòng  một thế kỷ, cũng tương tự như độ tăng mực nước quan sát ở những nơi khác, tức là cao hơn hẳn những  mực nước trong  hàng chục thế kỷ trước. Việt Nam vừa hẹp vừa có bờ biển dài  hàng  nghìn  km,  là một môi trường rất dễ bị tổn thương.

RFI: Hiện tượng khí quyển bị   hâm nóng như vậy là đã có những tác hại rất lớn, trong tình hình đó biện pháp khắc  phục  là gì, thưa GS?

NQR: Một trong những biện pháp ngăn ngừa sự hâm nóng khí quyển  là  hạn chế sự tiêu thụ những nhiên liệu hóa thạch như nghị định thư Kyoto đã ấn định. Biện pháp này đặt ngay ra vấn đề kinh tế  và kỹ thuật tại các nước đang  phát triển. Việt Nam chẳng  hạn, là một nước không thiếu tài nguyên, đặc biệt là than và dầu khí, có thể được dùng để sản xuất năng lượng. Tuy có thêm cả năng lượng thủy điện, với mức  tăng trưởng công nghiệp  như hiện nay, VN cần triển  khai thêm cả những  năng lượng tái tạo không  ô nhiễm để đáp ứng chỉ thị của Nghị định thư Kyoto.

Muốn thực hiện được  mục tiêu này cần  phải có sự cộng tác của các  nước  phát triển sẵn sàng  chuyển  giao kỹ thuật. Tuy nhiên ngay tại các nước phát triển, kỹ thuật sản xuất năng lượng không  ô nhiễm như năng lượng gió, năng  lượng  mặt trời, năng  lượng sinh học cũng chưa được  phổ biến lắm, chỉ có năng lượng  hạt nhân là hiện nay đang được sử dụng thường xuyên ở một số quốc  gia như nước  Pháp, tuy một số quốc gia khác tự hạn chế năng lượng  hạt nhân vì lý do an toàn và vì vấn đề chất thải phóng xạ độc hại.

Trong khi chờ đợi sự triển khai trên  quy mô lớn các năng lượng không  ô nhiễm, nhân  loại không có một biện pháp thần diệu nào để giảm bớt sự gia tăng  nhiệt độ nhằm tránh khỏi những  hậu quả chưa lường được. Chúng ta chỉ có cách hạn chế sự tiêu thụ năng lượng hóa thạch, bởi vì các mô hình khí hậu không tiên đoán được  lâu trước những cơn bão, nên  ta phải dùng biện pháp phòng ngừa, chẳng  hạn như  kế hoạch di dân nhanh chóng  và kế hoạch xây nhà ở vùng duyên hải, nhằm tránh khả năng ngập lụt. 

Ngoài ra chúng ta cũng trông mong vào các nhà lãnh đạo các  quốc  gia toàn cầu có tinh thần công dân, nhiệt tình thi hành những đề nghị của Nghị định thư Kyoto, đã được  phê chuẩn bởi đa số  quốc gia trên thế giới.

 

RFI Việt ngữ xin thành thật cảm ơn Giáo sư Nguyễn Quang Riệu thuộc đài thiên  văn Paris

 

© http://vietsciences.net   và  http://vietsciences.free.fr Nguyễn Quang Riệu