Người phụ trách
trạm ISS tại Cơ quan vũ trụ và
không gian quốc gia Mỹ đã có một
cuộc họp báo qua điện thoại từ
Houston (Texas), ngay sau khi cơ
quan không gian Nga thông báo,
phi thuyền tiếp theo sẽ chỉ có
thể được phóng lên không gian
vào cuối tháng 10 năm nay. Ngày
29/8/2011, giám đốc Cơ quan vũ
trụ Nga Roskosmos, ông Alexei
Krasnos, đã khắng định điều này.
Như vậy chuyến bay dự kiến đưa
các nhà du hành lên ISS vào ngày
22/9 đã bị hủy bỏ. Hai nhà du
hành Nga Andrei Borissenko và
Alexandre Samokoutiaive, cùng
nhà du hành Mỹ Ronald Garan, sẽ
chưa thể trở về Trái đất vào
ngày 8/9 tới như dự kiến.
Giám đốc Cơ quan
vũ trụ Nga Roskosmos cho biết,
nếu việc đưa phi thuyền lên ISS
vào cuối tháng 10 không được
thực hiện, thì phải tính đến
giải pháp phải sơ tán toàn bộ
các phi hành gia. Ông Mike
Suffredini, phụ trách trạm ISS
tại Nasa, khẳng định, nếu không
có người ở, rất có thể trạm vũ
trụ này sẽ bị mất. Nhiệm vụ của
NASA là bảo vệ trạm vũ trụ ISS,
kết quả của sự đầu tư rất lớn
của nhiều quốc gia.
Được biết trạm
ISS được xây dựng từ năm 1998 và
được hoàn thành vào năm 2010,
tốn khoảng 100 tỷ đô la, mà một
phần lớn trong đó do Hoa Kỳ chi
phí.
Cũng theo
người phụ trách của Cơ quan vũ
trụ quốc tế Mỹ, trạm vũ trụ này
có thể vận hành mà không cần
người điều khiển trực tiếp. Tuy
nhiên, ông cũng nhấn mạnh, tình
trạng không người ở như vậy
không nên để kéo dài quá lâu.
Hiện nay, nhóm
phi hành gia trên ISS bao gồm
sáu thành viên, ba người Nga,
hai người Mỹ và một người Nhật.
Theo lệ thường, cứ sáu tháng một
lần, ê kíp này lại luân chuyển.
Hiện thời, Nasa vẫn lạc quan về
khả năng cơ quan vũ trụ Nga có
thể xác định được các nguyên
nhân đã gây ra vụ phóng hỏng vừa
qua, và tiến hành một đợt phóng
mới kịp thời để đưa ba phi hành
gia khác lên đổi phiên, tránh
khả năng phải sơ tán toàn bộ ê
kíp trên trạm vũ trụ.
Nasa cũng như
cơ quan vũ trụ Nga không muốn
mạo hiểm để các phi hành gia
trên trạm vũ trụ lâu quá sáu
tháng theo qui định, vì quá thời
hạn này, ảnh hưởng của phóng xạ
trong không gian sẽ không tốt
cho những người này. Bên cạnh
đó, hai phi thuyền Soyouz, chở
sáu phi hành gia cũng không thể
gắn liên tục với trạm ISS quá
200 ngày, vì nhiên liệu dùng cho
động cơ của phi thuyền, dưới tác
động của môi trường, sẽ bắt đầu
biến chất. Chỉ có dự trữ thực
phẩm cho các phi hành gia là
không đáng ngại, vì có thể còn
đủ dùng trong một năm.
Việc phi
thuyền Progress bị rớt, tiếp
theo ba vụ phóng hỏng khác từ
tháng 12/2010, là một thất bại
đau đớn đối với Roskosmos, cơ
quan vũ trụ Nga. Hiện tại trạm
vũ trụ ISS phụ thuộc hoàn toàn
vào Nga trong việc vận chuyển
các thiết bị và nhu yếu phẩm, và
đặc biệt là các phi hành gia
(với giá 50 triệu đô la/một
người). Phải đến năm 2015, Hoa
Kỳ mới có khả năng sản xuất được
một phi thuyền thực hiện được
nhiệm vụ này.
Về ý nghĩa của
trạm vũ trụ ISS đối với các
nghiên cứu khoa học vũ trụ và ý
nghĩa của sự có mặt trực tiếp
của con người trên không gian,
trong các nghiên cứu vũ trụ. Sau
đây mời quý vị theo dõi phần
giải thích của nhà thiên văn
Nguyễn Quang Riệu từ Paris.
RFI
:
Như
giới thiệu về các hoạt động của
Cơ quan Không gian Châu Âu, các
chuyến bay lên vũ trụ có chở
người, và các hoạt động của các
nhà du hành tại trạm Không gian
Quốc tế là một trong các mục
tiêu chính của tổ chức này. Vậy
Giáo sư có thể cho biết ý nghĩa
của các hoạt động này đối với
ngành thiên văn học và các khoa
học láng giềng ?
Nguyễn
Quang Riệu
: Không gian giữa những ngôi
sao và giữa những hành tinh
là một môi trường rộng mêmh
mông chủ yếu là ở dạng khí
rất loãng và phi trọng lực,
tức là không có trường hấp
dẫn. Trái đất là một hành
tinh có tầng khí quyển bao
bọc xung quanh và có trường
hấp dẫn tương đối mạnh.
Muốn nghiên cứu những hiện
tượng thiên nhiên thì các
nhà khoa học có thể dùng
những trạm quan sát phóng
lên không gian để thoát ra
khỏi màn khí quyển nhằm
quan sát được rõ ràng các
thiên thể và không bị chi
phối bởi trường hấp dẫn.
Để đạt được yêu cầu, các
nhà khoa học đã xây trạm ISS
ở độ cao khoảng 300 – 450 km
. Trạm ISS được xây từ năm
1998 và dự kiến được hoàn
thành vào năm 2012.
Trạm ISS là
một phòng thí nghiệm quốc
tế chủ yếu là để các phi
hành gia thực hiện những
cuộc thí nghiệm trong điều
kiện phi trọng lực.
Trên trái
đất trường hấp dẫn có ảnh
hưởng rất lớn trong quá
trình chế biến hợp kim từ
những kim loại khác nhau.
Những cuộc thí nghiệm trong
môi trường phi trọng lực trên
trạm ISS cung cấp những thông
tin quý giá cho sự tạo
thành những hợp kim trong
các lò luyện kim trên trái
đất. Những cuộc thí nghiệm
sinh học được thực hiện để
nghiên cứu quá trình tiến
hóa và phát triển cuả thực
vật và sinh vật.
Trong lĩnh
vực thiên văn, ISS là nơi để
quan sát những bức xạ vũ
trụ, chủ yếu là những tia
vũ trụ phát ra từ mặt trời
và các thiên thể trong dải
Ngân hà và trong vũ trụ.
Quan sát những tia vũ trụ
từ trên cao khi chúng chưa
tương tác với khí quyển và
vẫn giữ được nguyên vẹn
tính chất nguyên thủy như ở
thời điểm vừa mới xuất
phát thì có thể cung cấp
cho các nhà vật lý thiên văn
những thông tin bổ sung cho
những kết quả quan sát từ
mặt đất về bản chất cuả
những hạt vật chất trong vũ
trụ.
Quan sát
trái đất từ trạm ISS và từ
các vệ tinh cũng có mục
tiêu phục vụ ngành khí
tượng. Theo dõi và tiên đoán
quỹ đạo cuả những cơn bão
lớn như cơn bão Irène đổ bộ
tuần vừa qua trên vùng biển
phía đông nước Mỹ đã giúp
dân chúng đề phòng kịp thời
và giảm tối thiểu những tai
hoạ cuả cơn bão.
Cơ thể cuả
chúng ta đã được tạo thành
để chống lại lực hấp dẫn.
Trái tim cuả chúng ta hoạt
động để thắng được lực hấp
dẫn nhằm bơm máu lên não và
để dòng máu lưu thông khắp
cơ thể. Nếu không có lực
hấp dẫn trên trái đất thì
quá trình chuyển động cuả
máu sẽ bị đảo lộn. Các phi
hành gia thường ở hàng
tháng trong không gian chật
hẹp trên ISS. Mối quan hệ và
cách đối xử với nhau và
sức khỏe cuả họ trong môi
trường phi trọng lực được
theo dõi để rút kinh nghiệm
cho công việc tổ chức những
cuộc hành trình trong tương
lai đến những hành tinh xa
như hành tinh Hỏa.
RFI
:
Trong quá khứ, việc các nhà du
hành làm việc trong không gian
là chuyện bình thường. Tuy nhiên
gần đây, có nhiều ý kiến đặt lại
ý nghĩa của hoạt động con người
trên trạm vũ trụ, trong bối cảnh
các vụ phóng phi thuyền do Nga
phụ trách liên tục bị hỏng. Việc
đưa con người lên trạm quỹ đạo
hay lên không gian rất tốn kém
và dường như không giúp ích gì
thêm cho việc nghiên cứu, mà
thực ra mang tính « chính trị »
nhiều hơn. Xin giáo sư cho biết
ý kiến về quan điểm này ?
Nguyễn
Quang Riệu
: Đã có ý kiến cho rằng sự
đóng góp về mặt khoa học
cuả trạm ISS chưa được coi
là đáng kể mà lại cần
nhiều kinh phí để hoạt
động. Tuy nhiên, ISS là một
công trình xây dựng quốc tế
lớn nhất được thực hiện
lần đầu tiên trên không gian,
nên ISS là một công trình
tiêu biểu cho sự hợp tác
giữa các nhà khoa học trên
thế giới, nhằm tìm hiểu
những hiện tượng thiên nhiên.
Xây dựng trạm ISS chỉ là
bước đầu trong công việc
nghiên cứu không gian vũ trụ
gần trái đất.
Đề án thám
hiểm trực tiếp những hành
tinh trong hệ mặt trời bằng
cách cho phi hành gia đổ bộ
lên hành tinh đang được nghiên
cứu. Hành tinh Hỏa là một
mục tiêu tiềm năng cho sự
thám hiểm, bởi vì nước đã
được phát hiện trên hành
tinh Hỏa và nước ở thể
lỏng là dung môi có khả năng
hòa tan các nguyên tố hữu cơ
nguyên thủy để tạo ra tế
bào sinh vật. Sự phát hiện
ra sinh vật ở bên ngoài trái
đất, dù dưới dạng vi sinh
vật, cũng sẽ là một sự
kiện có ý nghĩa. Về phương
diện khoa học, hành tinh Hỏa
có những đặc điểm tương
đồng với trái đất, nên sự
quan sát hành tinh Hỏa có
thể mang lại những thông tin
bổ ích về sự hình thành
cuả sự sống trên trái đất.
Các nhà thiên văn đã quan
sát hàng trăm hệ sao và
phát hiện được những hành
tinh quay xung quanh. Trong vũ
trụ hẳn phải có vô số hành
tinh trong đó có những hành
tinh có vỏ rắn như trái đất
có khả năng chứa được sự
sống. Sự phát hiện ra sự
sống ngoài trái đất cũng
sẽ là một sự kiện quan
trọng về mặt triết học. Từ
thời xa xưa, nhân loại vẫn
đặt câu hỏi liệu có sinh
vật trên các hành tinh như
trên trái đất hay không ?
Tuy nhiên,
phóng người đổ bộ lên hành
tinh Hỏa rất tốn kém, kinh
phí được ước tính là vài
chục tỷ đôla mỗi lần. Hiện
nay, công nghệ làm động cơ
đẩy phi thuyền chưa đủ cao
nên cuộc hành trình khứ hồi
tới hành tinh Hỏa cũng phải
mất khoảng 12 tháng, chưa kể
thời gian ở lại trên hành
tinh. Còn nếu muốn thám
hiểm những hành tinh ở rìa
hệ mặt trời thì cuộc hành
trình phải kéo dài tới vài
chục năm. Trong khi chờ đợi
công nghệ tiên tiến hơn để
chế tạo được động cơ đẩy
tàu nhanh hơn thì giải pháp
thích hợp nhất hiện nay là
thả những trạm tự động
không có người lái để thăm
dò bề mặt những hành tinh
và phát hiện dấu vết của
sự sống, dù dưới dạng hóa
thạch. Đồng thời phóng vệ
tinh để quan sát khí quyển
cuả hành tinh nhằm phát
hiện những loại khí như trên
trái đất có khả năng nuôi
dưỡng sự sống.
RFI
:
Như giáo sư đã cho biết, trong
câu trả lời đầu tiên, trở lại
vấn đề trạm vũ trụ quốc tế, các
điều kiện quan sát các bức xạ vũ
trụ thuận lợi hơn trên mặt đất,
vậy giáo sư có thể cho biết cụ
thể là : trong những trường hợp
nào thì quan sát/nghiên cứu vũ
trụ bắt đầu từ mặt đất thì tốt
hơn, và trong những trường hợp
nào bắt đầu từ trạm vũ trụ thì
tốt hơn ?
Nguyễn
Quang Riệu
: Quan sát những hành tinh
trong hệ mặt trời bằng phi
thuyền chỉ là quan sát một
không gian nhỏ ở mức vi mô so
với kích thước cuả dải Ngân
hà và cuả toàn thể vũ
trụ. Các nhà thiên văn phải
sử dụng những kính thiên văn
đặt trên mặt đất và phóng
lên không gian để quan sát
những thiên thể xa xôi.
Trạm ISS
chật hẹp nên không phải là
nơi để đặt kính thiên văn.
Những kính thiên văn vũ trụ
như kính Hubble đã được
phóng ra ngoài màn khí
quyển trái đất để quan sát
được sắc nét các thiên thể.
Tuy nhiên, những kính thiên
văn vũ trụ thường là loại
nhỏ bởi vì trọng tải phóng
lên không gian bị hạn chế.
Kính thiên văn càng lớn thì
càng hứng được nhiều photon
và quan sát được những thiên
thể càng ở xa trong vũ trụ.
Những kính thiên văn lớn
hiện đại được đặt tại các
đài thiên văn có gương lớn
từ 8 đến 10 m và có khả
năng hoạt động tương tác với
nhau theo phương thức giao thoa
để có độ phân giải rất cao,
tức là có khả năng phân
biệt được những chi tiết
rất nhỏ.
Hiện nay,
những hệ kính thiên văn lớn
đặt trên mặt đất được xây
bằng kỹ thuật tinh xảo và
có khả năng loại trừ được
nhiễu do màn khí quyển gây
ra. Kính thiên văn thế hệ sau
sẽ có kích thước lớn
khoảng 50 m và sẽ được xây
với sự tham gia cuả nhiều
quốc gia trên thế giới. Các
nhà khoa học sử dụng những
kính ngày càng lớn để quan
sát được thật sâu trong vũ
trụ và sẽ được chứng kiến
những khám phá thú vị,
không những trong lĩnh vực
thiên văn mà cả trong lĩnh
vực vật lý cơ bản, bởi vì
vũ trụ là một phòng thí
nghiệm thiên nhiên vĩ đại.
RFI
: Xin chân thành cảm ơn giáo
sư Nguyễn Quang Riệu.