Đen như quỷ sứ
Nóng như địa ngục
Trong như thiên thần
Dịu như tình yêu
Talleyrand
Hồi
mới qua Ý lần đầu tiên, khi gọi cà phê, nhà tôi và tôi thấy được
bưng ra hai tách chứa đâu khoảng hai phần ba cà phê và nhất là có
kèm theo hai ly nước lạnh. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn nhau vì chúng
tôi không có gọi nước. Khi uống vào mới hiểu: cà phê Ý vô cùng đậm
và ly nước lạnh không phải chỉ để nhìn. Bên Đức cũng như ở miền
bắc nước Pháp, cà phê trái lại rất loãng, có
thể uống suốt ngày, có khi thêm sữa như trà bên Anh.
Ở các miền khác nước Pháp, cà phê vừa phải, tuy có phần đậm. Trong
các gia đình bình cà phê gồm có ở dưới một ấm đun nước, bên trên
có một cái lọc đựng cà phê bột, hơi nóng phải thông qua lớp bột
cà phê nén, chiết xuất những hóachất trong bột để sau đó đọng lại
ở phần trên. Ngày nay, phần lớn các tiệm đều có máy pha chế cà phê
espresso, cùng nguyên tắc nhưng hoàn hảo hơn, áp lực lớn hơn, sử
dụng loại cà phê arabica (có khi trộn với cà phê robusta ít thơm
và rẻ tiền hơn tuy có người cho mặn nồng hơn nên có nhiều cuộc bàn
tán về tỷ lệ của hai loại), rang một thời gian chỉ định làm sao
để vừa làm mất vị đắng nhưng đừng giảm hương thơm. Nước trong máy
lên đến khoảng 100 độ, thông qua lớp cà phê xay nhuyễn với áp suất
9-10 bar, trong một thời gian dưới một nửa phút để tránh những chất
đắng nhưng rút theo đủ hương vị. Cà phê nầy đậm và ngon hơn các
cà phê pha cách khác, trừ nhữngngười sành uống thì thích một thứ
cà phê còn đặc biệt hơn gọi là cappuccino. Đây là một loại cà phê
espresso thêm vào sữa nóng và sữa sủi bọt, có khi cho rãi lên trên
một lớp ca cao hay bột quế. Hai lớp sữa giữ độ nóng ở dưới được
lâu. Cà phê nầy có thêm độ béo, hương thơm mà lại giảm độ đắng.
Bột rãi lên trên cống hiến thêm một phương diện thẩm mỹ nhờ các
hình nghệ thuật có thể tạo ra khi khuấy. Lẽ tất nhiên cà phê nầy
phải được dọn và uống thật nóng nên thường tách phải được sưởi trước
khi rót cà phê vào.
Ở hai nuớc
Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, người ta có thói pha cà phê không lọc, nghĩa
là trong tách có cả nước lẫn bột, thành thử trước khi uống phải
đợi cho bột lắng xuống đáy tách. Đợi lâu thì cà phê
lạnh ngắt. Quen sử dụng nóng thì chắc người uống sẽ thất vọng khi
qua bên các nước ấy cũng như khi về Việt Nam. Mấy năm về trước,
tôi thấy bên ta còn uống cà phê phin (filtre), mặc dầu tách được
giữ trong nước nóng, cà phê hết còn nóng sau nhiều phút chờ đợi
nước chảy qua màng lọc, không có áp lực. Nhưng cũng chẳng can gì
vì ta còn đặt ra món cà phê đá với một mớ nước đá đập nhỏ cho vào
ly…Thật ra, nếu cà phê chỉ là một cớ để cùng ngồilại với nhau tán
gẫu hay bàn chuyện đại sự thì bất tất nóng lạnh. Nghe nói Sài Gòn
ngày nay là thiên đàng cà phê với hàng ngàn quán. "Cuộc sống khá
hơn, con người đòi hỏi nhu cầu phục vụ và tiện ích tốt hơn. Từ cà
phê bình dân, ghế gỗ thấp, chuyển sang ghế có tựa, rồi phải có nhạc,
có video, máy lạnh,… và tiếp viên phục vụ. Tùy vào
sở thích của khách, người ta trang trí và để nhạc theo từng thể
loại. Thế là một cuộc chạy đua về hình thức, không gian kiến trúc
của cácquán cà phê, nhằm tạo ra những không gian mới hơn, đặc sắc
hơn để bán! Bởi người bán hiểu rằng, nhu cầu của người mua không
phải là cà phê. Họ cần mua một khoảng không gian, theo sở thích
và tâm trạng của họ… Không gian ở đây, không kín, không hở. Không
tối, không sáng. Có cái chung, cái riêng. Bên ngoài, sơn thủy hữu
tình, có những khoảng trời riêng. Bên trong thânthiện, ấm áp. Khách
có thể ngồi cả buổi, với một ly nuớc. Không sao, vì ở đây, người
ta đã tính tiền không gian và thời gian vào trong ly nước rồi..."
Cà phê được
đem qua nước ta từ 1867 nhưng phải đợi đến 1920 mới được đem trồng
lớn trên các vùng cao nguyên.. Từ lúc được biết đến lúc lan tràn
khắp thế giới thật là một đoạn đường dài. Chưa hẳn chắc chắn, cà
phê có thể nguyên gốc xứ Etiôpi, chính xác trong tỉnh Kaffa. Tục
truyền bắt đầu có anh chăn dê tên Kaldi nhận xét hột cà phê làm
tăng sức dê, bèn nói với những thầy cả, họ đem về nấu với nước làm
thức uống. Cũng còn có chuyện cháy rừng ở Abysini (tên cũ của Etiôpi),
hương thơm ngào ngạt tỏa ra nên dân làng đem hột cây về pha nước
uống. Sau đó cà phê được phổ biến qua tên qhawa, có nghĩa là phục
hồi sức mạnh, ở các nước Ẳ rập là những nơi cấm rượu, rồi qhawè
(Thổ), caffè (Ý), từ đó có những tên xưa kawa (Pháp), java (Mỹ).
Những khám phá khảo cổ cho biết cà phê chỉ được thông dụng từ thế
kỷ 15. Tác dụng cà phê khá mảnh liệtbuộc các thấy cả chính thống
và thủ cựu Hồi giáo ra lệnh cấm nhưng cà phê quá được phổ biến,
nhất là trong giới trí thức, nên phải xóa bỏ sắc lệnh. Dần dần cà
phê được nhập cảng vào Ai Cập, Ba Tư, Bắc Phi, Thỗ Nhi Kỳ,…Người
ta kể ở nước nầy, nơi cà phê đầu tiên được phát triển, hồi ấy, một
phụ nữ có quyền đòi ly dị nếu ông chồng không cung cấp đủ cà phê!
Ở La Mecque, ông tổng trấn Khair Bey triệu tâp một cuộc nhóm các
nhà trí thức và luật học để xét xem cà phê có hợp hay không với
kinh Coran đạo Hồi thường cấm chỉ mọi thức ăn uống đầu độc. Ở Âu
châu, bác sĩ người Đức Leonhard Rauwolf đầu tiên đem cà phê từ Cận
Đông về năm 1583, tả là một thức uống đen như mực, chữa được nhiềuchứng
như bệnh bao tử, pha từ hột một cây mang tên bunnu. Bắt đầu từ giữa
thế kỷ 17, những nhà buôn Vénitien đua nhau nhập cảng cà phê. Mặc
dầu bị đức Giáo hoàng cấm đoán, cho là có khả năng phát triển óc
phê phán, cà phê không mấy chốc được uống khắp nơi, ngay cả những
tu sĩ Công giáo vì, cũng như những thấy cả Hồi giáo, họ thấy cà
phê giúp thức khuya, sáng dạ, mặc sức đọc sách. Chính ở nước Ý mà
cà phê trở nên vô cùng thông dụng nên ta không lạ thấy nhiều
danh từ Ý xung quanh tách cà phê: espresso, capucinno, frappucino,
machiato, affogato, cortado, …
Cuối thế
kỷ 17, cà phê vượt trùng dương qua Hoa Kỳ. Cũng vào dạo đó, ngưòi
Anh đem qua trồng bên Tích Lan nhưng cây chóng bị bệnh chết. Đến
lượt người Hoà Lan cho nhập vào quần đảo Nam Dương. Năm 1714, đại
úy người Pháp Gabriel Mathieu de Clieu đánh cắp một một cành giâm
trong số cây Hòa Lan biếu cho vua Louis XIV, đem qua trồng bên các
đảo Saint-Domingue và Martinique. Cà phê phát triển mạnh ở đảo nầy
và qua cả Brazil, nơi mà các đồn điền vận dụng nhiều nhân công nô
lệ. Ngày nay, cà phê được trồng nhiều không những ở Nam Mỹ (Brasil,
Colombie) mà còn cả ở châu Phi (Kenya, Côte d’Ivoire) và châu Á,
đặc biệt ở Việt Nam. Tuy nhiên hảo hạng và đắt tiền là những càphê
trồng ở Hawaï, Jamaique (Blue Mountain), La Réunion (Bourbon pointu).
Những nước tiêu thụ nhiều nhất nằm ở Bắc Âu (300-400 g), Trung Âu,
Bắc Mỹ (200 g mỗi người mổi ngày). Những nước tiêu thụ ít nhất là
Trung Quốc, Ấn Độ, Syrie, Ai Cập,… và lạ nhất là những nước sản
xuất Kenya, Côte d’Ivoire, Brazyl. Đáng để ý là cà phê cạnh tranh
với trà, những nước nào uống trà nhiều tất nhiên uống cà phê ít,
nhưng nói chung số lượng cafein từ tràhấp thụ vào con người trên
thế giới thấp hơn nhiều caféin do cà phê cống hiến. Ở Hoa Kỳ, thống
kê cho thấy số lượng trà mỗi người tiêu thụ mỗi năm chỉ bằng một
phần tư số lượng cà phê. Ai cũng biết người uống cà phê đi tìm những
cảm giác kích thích. Thật vậy, hột cà phê chứa đựng khoảng 700 hóa
chất, ngoài 30% những chất đường (có những chất không tan hòa trong
nước), 15-20 % chất mỡ, 11% protein (một phần lớn bị hủy sau xử
lý), 6-13% nước (còn lại 6% sau khi rang) và những khoáng chất K,
Ca, Mg, P, đặc biệt một số hoá chất hữu cơ tạo ra mùi thơm (carbonyl,
pyrazin, puran, pyridin, pyreol, puran, quinolin, phenol,…), một
số trong nhóm các alcaloid (betain, cholin, trigonellin,…) mà chất
quan trọng nhất là cafein. Trung bình mỗi tách 150ml chứa mg từ
80 (espresso), 85 (arabica), 95 (bột pha nước) đến 200 (robusta).
Bác sĩ thường khuyên uống trung bình mỗi ngày 350mg và không nên
quá 700mg.
Khi kích
thích một phận chỉ định nào đó của não, cafein khích động khả năng
thụ cảm, ghi nhớ, tập trung. Uống với liều lượng vừa phải, cà phê
cũng giúp ta giữ tỉnh táo vì tránh mệt, giúp tránh đau đầu nhờ giảm
hạ trạng thái căng của sự tuần hoàn mạch não mà không làm rối loạn
nhịp tim, tăng gia mức cholesterol, nguy cơ bệnh tim mạch. Cà phê
còn tác động lên phổi vì làm giản nở cuống phổi tuy bụi bột có thể
gây ra dị ứng, tăng gia sự tiết nước miếng, dịch vị, mật, nên uống
sau bửa ăn thì có tác dụng tiêu hóa, kích thích hoạt động enzym
gan, tăng gia nội tiết tuyến tụy làm dễ vận chuyễn đồ ăn qua ruột,
tác động lên thận gây ra lợi tiểu. Có những người thích uống cà
phê mà sợ tác dụng của cafein (đánh trống ngực, đau dạ dày, hay
mất ngủ, dễ nổi cáu, triệu chứng ở những người thường uống nhiều)
thì có thể uống cà phê khử cafein. Lúc trước muốn thải loại cafein,
người ta dùng một dung dịch hydrocarbua có nhiều chlor nhưng dung
dịch nầy rất độc cho cơ thể và dù rửa sạch nó vẫn còn tồn tại
ít nhiều trong cà phê. Ngày nay dung dịch được thay thế bằng khí
carbon dioxyd dưới áp lực. Cũng có thểcho hấp thu cafein qua than
hoạt hóa hay sử dụng sắc phân khí. Dù sao, những người nghiện cà
phê thì cho cà phê nầy không ngon. Đằng khác, như mọi thức ăn thức
đồ uống khác, người sành phải biết chọn loại cà phê. Cà phê chè
arabica chiết xuất từ hột cây Coffea arabica, nguyên gốc
Etiôpi, chiếm 75% sản xuất toàn cầu, mọc giữa 600m và 2000m, cống
hiến mỗi cây mỗi năm 400g - 2kg cà phê, chứa đựng 1-1,5 cafein,
thường là loại được ưa thích nhất. Cà phê vối robusta chiết xuất
từ hột cây Coffea canephora var. robusta được khám
phá ở nước Congo thuộc Bỉ (tức là Zaire ngày nay), hiện được trồng
nhiều ở Việt Nam là một trong những nước sản xuất lớn nhất thế giới,
chịu đựng được miền thấp độ, dưới 600m, ít bị sâu bọ phá hoại, lại
sản xuất lớn (mỗi cây mỗi năm 600g – 2,2kg) nên rất có lợi về mặt
kinh tế.Đằng khác, nó chứa đựng 1,6-2,7 % cafein, tác động tăng
sức mạnh, thường được dùng để chế tạo cà phê bột tan trong nước
(café soluble) hay đông khô lạnh (café lyophilisé). Còn có những
loại ít được biết vì ít ngon hơn là liberica từ hột cây Coffea
liberica, cà phê mít exelxa gần giống robusta. Nói chung, cà
phê ít thích lạnh nên chỉ mọc ở vùng 13-26 độ, đất ẩm nhưng nước
mưa cần phải được tháo dần, nơi giàu đất mùn, bụi núi lửa và những
hoá chất hữu cơ, cần phải tránh gió. Thường cũng phải 4-6 năm mới
bắt đầu có trái, sau đó cây sống nhiều chục năm, và mỗI năm phải
khoảng 8-10 tháng trái mới chín.
Chất lượng
cà phê còn rất cần yếu ở phương cách pha chế. Lúc đầu, người ta
sắc cà phê uống, sau dần dần mới nghỉ cách chế biến. Trước tiên
là giai đoạn sấy hột để loại vỏ ngoài và lớp thịt. Có hai
phương pháp: - sấy khô trong khí trời, sau nhiều tuần hột
còn ẩm 12%, năng suất 50%: - sấy ẩm là cho ngâm hột trong nước,
tách cơm ra khỏi, cho hột lên men (có khi sử dụng enzym) rồi để
sấy khô ngoài trời, hột còn ẩm 10-15%, năng suất 20%. Giai đoạn
thứ nhì rất quan trọng là rang hột trong nồi 200-250 độ, hột phồng
lớn, thay màu, mất 15-20% trọng lượng, biến thành caffeol hay cafeon
mang toàn thể hương vị của cà phê: những chất đường đã được biến
hoá thành caramel. Vào sau cuối, khi carbon oxyd tiết ra bao phủ
không chocaffeol bốc hơi, đấy là lúc phải cho dừng cuộc chế biến
cà phê rang vì rang lâu hơn thì có mùi cháy, trái lại rang ít hơn
thì cà phê có hương vị rau, cải. Không những thời gian rang, nhiệt
độ rang cũng ảnh hưởng nhiều lên chất lượng cà phê. Như vậy vai
trò của người rang rất là quan trọng, phải có lỗ mũi rất thính,
đồng thời thông thạo kỹ thuật chế biến. Trước đây, trước khi rang
thường người ta cho trộn nhiều loại cà phê nhưng càng ngày người
uống thích tự mình chọn loại và tự trộn lấy. Ở Paris có quán bán
bột cà phê còn hỏi khách muốn xay hột ra bột với kích tất nào. Sau
khi chịu khó tìm mua cà phê ngon, khách còn phải biết lưu trữ nó
vì ai cũng biết hương vị là từ những hoá chất dễ bốc hơi mà lại.
Thường cà phê xay rồi được giữ trong hộp đóng kín, có khi phải tích
trong tủ lạnh hay tủ đông lạnh. Tốt hơn là giữ cà phê hột rồi chỉ
xay ngay trước khi dùng. Trung bình mỗi cây cà phê mỗi năm cung
cấp2,5kg hột, sau khi xử lý còn lại 500g hột xanh, từ đấy đem lại
400g hột rang. Nếu tính phải 9g bột cà phê mới pha được một tách
cà phê ngon thì phải 60 hột mới có đuợc tách ấy.
Hai tính
chất thường được đưa ra để đánh giá cà phê là mức axit và sức đắng
của nó. Những nhà thiện nghệ còn nói tới sáu điểm khi thưởng thức
hương vị cà phê. Ngoài mức axit (cảm thấy trên đầu luỡi như chanh),
sức đắng (sau khi hột được rang, tương tự như bưởi, hoa bông) đã
thấy, còn có sức mạnh (còn được gọi là chiều dày, dính vào lưỡi),
độ thơm (nhờ những hoá chất dễ bốc hơi), mùi hương (qua những cơ
quan khứu giác sau mũi, đặc biệt với arabica), tính tròn trặn (tổng
kết những đức tính kia làm thành một tách cà phê chững chạc, thăng
bằng). Nói tóm lại, uống xong mùi vị cà phê luôn còn phải được giữ
trong miệng, dễ chịu, khoan khoái, đặc điểm của một tách espresso
hay capucinno. Nhữngnăm gần đây, người nghiện còn có một dịp nữa
để thưởng thức một loại cà phê có mùi vị quyến rũ vô cùng hấp dẫn,
ít đắng hơn, lại có thêm hương vị đường thắng hay sôcôla, mấy ai
may mắn được uống vì hiếm và rất đắt tiền: cà phê chồn hay cà phê
cứt chồn. Có tên như vậy là vì thịt (pulpe) và vỏ quả ngoài (exocarpe)
những hột cà phê được con chồn ăn, nội nhũ (endosperme) không tiêu
hóa trong dạ dày bị thải ra ngoài nguyên vẹn. Nói nguyên vẹn là
nhìn bên ngoài, thật ra có gì thay đổi bên trong vì hương vị khác
hẳn cà phê thường . Ở cao nguyên miền Trung loại cà phê nầy được
gọi là cà phêTây Nguyên. Lâu lắm người ta tưởng là một huyền thoại,
nhưng chuyện có thật, không chỉ có bên ta: ở quần đảo Nam Dương
(Sumatra, Java, Borneo, Sulawesi) cà phê nầy được gọi là Kopi Luwak,
Kopi Muncak, Kopi Muntjak, ở Philippines Kape Alamid, ở Đông Timor
Kafé-laku. Ở vùng Tây Nguyên con chồn nầy mang tên cầy vòi đốm,
tiếng Ê Đê là Mijia, kích thước cở con mèo, có ba vệt đen chạy dọc
trên lưng, đứt khoảng về phía đuôi tạo nên những vết đốm đen. Người
Ấn Độ ở Kerala gọi nó marapatti, người Tích Lan ugudawa hay kalawedda,
một con vật ít được ưa thích vì kêu gào ầm ĩ trong đêm lại sinh
đẻ và bài tiết trên nóc nhà…
Tên
khoa học của nó là Paradoxurus hermaphroditus thuộc họ Cầy
Viverridae. Bên châu Phi thì gọi nó Civettictis civetta.
Nó sống trong những cánh rừng cạnh cây có trái, đặc biệt những trái
có nhựa khi lên men thì thành rượu có mùi vị ngọt. Chân có vuốt
nhọn, nó dễ trèo lên ăn trái chín trên cây. Ơ Dak Lak có người cho
nó chỉ thích cà phê arabica, vào mùa thu lúc trái tròn, mọng và
bổ dưỡng, cũng là vào thời gian giao phối của chồn. Không rõ hột
cà phê nằm trong bao tử hay nội nhũ lướt qua bộ phận tiêu hóa của
chồn bao lâu trước khi được thải ra ngoài. Có người tin là chỉ trong
một đêm, chịu khó đợi dưới chân cây là lượm được của quý. Thậm chí
cũng có người cho chồn chỉ nuốt hột rồi mửa ra … Dù sao, một điều
chắc chắn là nội nhũ cà phê không được chồn ăn và nội nhũ sau khi
thông qua bộ phận tiêu hóa của chồn, có tính chất khác nhau. Có
người cho những hạch xạ hương quanh vùng hậu môn chồn đã tác động
lên chất lượng cà phê. Có kẻ tin những amin axit trong cơ thể chồn
tương tác với vỏ nội nhũ tạo ra những thay đổi ở hương vị cơ bản
hột cà phê. Phần lớn các bài đăng trên báo hay đưa lên mạng đều
đưa ra một thủ phạm: những enzym có nhiệm vụ xúc tác các phản ứng
biến hóa cấu tạo cà phê. Enzym là chất tìm ra được trước tiên trong
bột chua (bột men), từ đấy theo gốc Hy Lạp en: trong, zume: bột
chua. Cái khó là làm sao biết enzym nào. Từ khi lọt vào lổ miệng
đến khi bị thải ra ngoài ở hậu môn, đồ ăntiếp xúc với một loạt enzym
có nhiệm vụ tiêu hóa nó. Trước tiên trong miệng, nước bọt (nước
dãi, nước miếng) phát tiết lysozym có khả năng tiêu hủy vi khuẩn
nhưng nó không được liệt vào các enzym tiêu hoá, và ptyalin là một
alpha-amylase bẻ gảy tinh bột thành những phân tử đường lớn rồi
những mảnh đườngnhỏ tan hòa. Qua dạ dày (bao tử), dịch vị phát tiết
pepsin bẻ gãy những protein ra peptid. Đến lượt tuyến tụy phát tiết
lại một lần nữa amylase như ở nước bọt, lipase bẻ gãy lipid ra axit
mỡ cùng glycogen và trypsin bẻ gãy peptid ra amin axit. Sau cùng,
ruột hồi (hồi tràng) phát tiết sucrase bẻ gãy sucrose ra glucose
và fructose.
Trong số
các phòng thí nghiệm trên thế giới khảo cứu về cà phê và chồn, đến
nay chỉ thấy có Gs Massimo F. Marcone ở Phân khoa Khoa học Thức
ăn, viện Canh nông Ontario tại Guelph bên Canada lần đầu tiên đặc
biệt chăm chú đến cấu tạo và tính chất nội nhũ cà phê Kopi Luwak
rồi đem so sánh với nội nhũ cà phê chồn Etiôpi. Chính bản thân giáo
sư đã lại tại chỗ lượm các hột và nội nhũ cà phê, không quên rửa
sạch để loại thải mọi rác rưới có thể làm sai cuộc đo lường. Đặc
điểm thứ nhất là vỏ nội nhũ tức vỏ quả trong (endocarpe) cả hai
loại cà phê chồn có sắc thái rất đỏ và có phần đậm hơn ở những vỏ
hột cà phê thường. Khảo sát tường tận thì thấy trên mặt vỏ nội nhũ
cà phê chồn, trở nên cứng và giòn, có những lỗ hiển vi (thấy rõ
khi phóng đại 10.000 lần) do tác dụng dịch vị (vốn là axit mạnh)
và những enzym tiêu hóa gây ra. Đằng kia, nội nhũ cà phê chồn chứa
đựng ít protein hơn nội nhũ cà phê thường. Tác động lên protein
còn có lactic axit của những vi khuẩn mà giáo sư ngạc nhiên tìm
ra trong nội nhũ, tồn tại sau khi thông qua suốt bộ phận tiêu hóa
của chồn là một thành tích. Những nhận xét nầy đưa đến kết luận
dịch vị đã xuyên quả vỏ nội nhũ và enzym tiêu hóa tác động ắt phải
là loại phân giải protein. Mỗi khi vào bên trong nội nhũ rồi, tất
nhiên những enzym bẻ gãy những protein như trong một cuộc sẩy ẩm
lên men.
Khi
đem rang, những chất đường sẵn có trong nội nhũ tác động lên những
protein đã được bẻ gãy (phản ứng hóa học nầy mang tên phản ứng Maillard)
cống hiến những hương vị khác nhau ngay cả khi so sánh hương vị
hai loại cà phê chồn thí nghiệm. Để phân biệt rõ ràng những hương
vị nấy, người ta đã "ngửi" với "lỗ mũi điện tử". Một áp dụng thật
tế là "lỗ mũi điện tử" có thể dùng để phân biệt cà phê chốn
chính cống và cà phê chồn giả hiệu: ai cũng đoán biết là vì giá
bán vô cùng đắt cà phê chồn (trung bình 3000 đô la một ki lô, sản
xuất thế giới mỗi năm 200-300 kg), biết bao người đã dùng enzym
cho nhân tạo tác dụng lên nhân cà phê để đánh lầm người mua. Lương
thiện hơn là trên Tây Nguyên, có vườn trồng cà phê nuôi luôn cả
chồn để khỏi chạy quanh thu nhặt…Và còn bao lâu nữa nếu các vườn
cà phê bị phá hủy để khai thát mỏ bô xit?
Cà phê chồn
là một trong những thức ăn của ta được thú vật giúp làm. Người giàu
thường có khả năng lấy tổ yến xây từ bọt chim để nấu cháo, nấu chè.
Người ít giàu cũng có dịp nếm mùi mật do ong hút nhụy hoa rồi cho
enzym tác dụng lên mà tạo ra. Trên nguyên tắc cà phê chồn, người
Maroc lượm hột cây argan – arganier được dê ăn rồi thải ra để ép
làm dầu. Trong sách vở xưa còn có chuyện trảm mã trà là trà cho
vào lên men trong ruột ngựa một thời gian rồi chặt cổ ngựa lấy trà
ra dùng. Những người thưởng thức loại trà nầy chắc không cùng chung
sống với những người quen đi cà phê "cóc" hay cà phê "bệt". "Cà
phê cóc gần như là linh hồn của mảnh đất này. Không phủ nhận TpHCM
có rất nhiều kiểu cà phê, trang trí đẹp và hoành tráng, nhưng mang
tính đặc trưng dường như chỉ có cà phê cóc. Cà phê cóc ở khắp mọi
nơi, mọi nẻo đường ngõ xóm, từ nhà, ra phố, vào hẻm… đi đâu cũng
gặp cà phê cóc". Đằng kia cà phê bệt cũng không kém phần hấp dẫn.
"Khách ở đây, đủ mọi thành phần. Quán không có bàn ghế, khách uống
cà phê cứ việc ngồi bệt trên vê cỏ, sẽ có người đến hỏi: Uống gì?
Chỗ pha chế cà phê, nước giải khát ở đâu? Không thấy. Chỉ thấy người
phục vụ từ đâu mang tới, rối tính tiền. Ly uống bằng nhựa, uống
xong cứ việc bỏ lại, không mất! Đúng là quán bán không gian,
của trời. Tuyệt đẹp! Mà không cần kiến trúc sư thiết kế". Thì ra
cà phê có cả một nền văn hóa của nó.
Viết tại Xô thành
Võ Quang Yến
Tham
khảo
Cà phê chồn, www.y5cafe.info
Massimo Marconi, Exotic foods from home and afar,
www.culinaryhistorians.ca
Damien Galtier, Coeur et café, Cœur et santé 150 (8-9).2005
Massimo. F. Marconi, Composition and properties of Indonesian
palm civet coffee (Kopi Luwak) and Ethiopian civet coffee, Food
Research International (2004) 37 (9) 901-912; (2005) 38 (3) 233
Nguyễn Thượng Chánh, Cà phê cứt chồn,
khoahoc@doisong 30.10.2008
Nguyễn Trường Lưu, Không gian cà phê, văn hóa cà phê,
www.sgtt.com.vn 08.01.2009
Kopi Luwak, un café nommé désir, Vietnam New Agency
25.01.2009
Sài gòn, muôn
mặt…cà phê, www.sggp.org.vn/vanhoavannghe
22.03.2009
Emily Brady, 36 giờ "hối hả" ở Tp Hồ Chí Minh,
www.baodatviet.vn 04.08.2009
Ảnh chồn và cứt chồn trích từ các trang
y5cafe.info và havi
Nghiên cứu và Phát triển 5 (76) (2009) 66-73 (có bổ túc)
|