Đỗ Quyên hoa thắm

Vietsciences-  Võ Quang Yến                  01/12/2009

 

Những bài cùng tác giả

Quân vương tuyệt tận ở Giang Đông
Tiện thiếp làm sao nhập Hán phòng.
Máu xanh hóa có bên sông lạnh,
Như đóa đỗ quyên nở cánh hồng.
 

Ngu Mỹ Nhân - Hứa Thị, Văn Phạm dịch
 

      

Rhododendron indicum  (ảnh Võ Quang Yến) 

"… Thuở ấy, có hai vợ chồng trẻ sống dưới động Truồi. Họ rất yêu nhau. Thế rồi tự nhiên chàng trai trở bệnh, thuốc thang không khỏi mà ngày càng nặng thêm. Có người mách bảo lên động Bạch Mã tìm loại cây thuốc giống như cây kim giao toàn thân màu trắng, uống vào sẽ cải tử hoàn sinh. Người vợ đã lên đường tìm linh dược cho chồng nhưng qua mấy ngày lặn lội trong rừng, cô chẳng tìm ra thuốc. Đói lạnh làm cô kiệt sức, cô ngã xuống bên một dòng suối, đầu va vào tảng đá. Máu cô hòa vào dòng suối, chảy đến đâu liền xuất hiện đến đó một loài cây cỏ thân gầy guộc, có màu hoa đỏ như máu gọi là đỗ quyên… Loại hoa nầy chỉ sống trọn vẹn trong mùa xuân, vươn mình lên kẽ đá và soi mình đỏ rực xuống dòng suối…" (1)

Thật ra, hoa đỗ quyên Rhododendron, còn có tên đỗ quyên ấn, hồng thụ ấn (*), thạch nam (**), thuộc họ cùng tên Đỗ quyên Ericaceae, ngày nay với kỹ thuật hợp lai phổ biến rộng rãi, không chỉ toàn một màu đỏ thắm mà tùy nơi còn mang nhiều sắc trắng, tím, tía, son qua hồng nhiệt, đỏ thẫm, đỏ gạch, đỏ hồng, đỏ xanh, đỏ cam, đỏ vàng,… Nguồn gốc núi cao châu Á nhiệt đới (Nhật Bản, Myanmar, Nepal) ngày nay nó mọc hoang và được trồng khắp nơi, ở châu Á (Nhật Bản, Myanmar, Nepal), cũng như ở châu Âu, châu Mỹ. Là một cây trang trí rất được ưa thích, nó đã được pha giống thành hằng trăm loại đủ cở lớn, nhỏ, đủ màu sắc lộng lẫy. Hoa R. simsii  Planch. (tức R. indicum Sweet var. simsii Maxim, hay var. ignescens Sweet, hay Azalea indica Sims. non Linn) màu đỏ hồng,  R. kaempferi Planch. màu đỏ cam tươi, R. obtusum Planch. màu trắng, đỏ gạch, đỏ tía, đều thuộc chủng của R. indicum Sweet (*).

Môn phân tích hóa học giúp ta biết được nguyên do màu đỏ ở hoa đỗ quyên là các chất sắc anthocyanin. Hai chất chính cyanidin glucosid và cyanidin diglucosid thường gặp bên cạnh peonidin diglucosid. Hoa màu tía chứa đựng malvidin diglucosid, màu tím là do myricetin methyl ether mà ra, còn quercetin, azaleatin, methoxy kaempferol chuyển màu đỏ xanh. Lượng các cyanidin hay flavonol, mà nhiều nhất là azaleatin rhamnosyl gucosid, làm thay đổi màu hoa từ đỏ thẫm, đỏ xanh qua hồng nhiệt, đỏ cam, đỏ vàng. Càng ít cyanidin glucosid, màu đỏ càng chuyển qua xanh. Cyanidin còn hiện ra dưới các thể galactosid, arabinosid, galactosid glucosid, araginosid. Trong số các flavon khác, đã xác định được những pelargonidin, delphinidin, petunidin, còn flavonol glycosid thì có quercetin galactosid, rhamnosid, azaleatin galactosid, malvidin glucosid, delphinidin glucosid. Hai chất sau nầy nhuộm hoa màu tía (3), còn caroten hiến màu vàng trong hoa R. japonicum f. flavum (21).

Song song với hoa, thân, lá , rễ cây đỗ quyên R. simsii cũng được khảo cứu. Rễ cây chứa đựng những flavon như quercetin, kaempferol, hyperin cùng sitosterol. Bên cạnh amin acid, những kim loại Zn, Fe, Cu, Co, Se, Mn và Cr đã được xác định (mg/100g) trong thân cây : 7,09, 21,37, 1,14, 0,31, 0,03, 6,62, 0,02  và trong rễ cây : 7,42, 28,69, 1,29, 0,32, 0,01, 0,99, 0,02. Trong lá cây, cùng với triterpen, flavonon glycosid và chất phản oxy hóa "matteucinol", những flavonoid aglycon như quercetin, kaempferol đã được trích chiết làm rượu thuốc Jinjuan (2).

Về mặt ứng dụng, lá cây đỗ quyên chứa đựng vitamin C. Lượng sinh tố có nhiều về mùa hè so với mùa đông, có nhiều ở chỗ nóng so với trong bóng râm, tăng lên trước khi mặt trời mọc rồi giảm dần (7,8). Phần chiết chứa đựng nhiều flavonoid ở liều lưọng 300 mg/kg chữa bệnh viêm phế quản mạn tính rất hiệu nghiệm (4). Nước chiết từ cây cống hiến một chất thuốc có khả năng ức chế trùng VSH-II (6). Những flavon glucosid ở lá cây R. anthopogonoid, cấu chất của anthorhododendrin, có tác dụng long đờm trên chuột. Đằng khác, nó gây co thắt các mạch máu ở chân ếch và tai thỏ đồng thời làm duỗi khí quản heo cùng các bắp thịt cánh chậu trơn nhẵn. Nó rất hiệu nghiệm trong cuộc trị liệu viêm phế quản nhưng nên ghi nhận LD50 ở chuột là 0,40 g/kg (12). Phần chiết nhiều cây đỗ quyên khác cũng có tính chất long đờm (5) nhờ những chất farrerol, astragalin, kaempferol, scopoletin, hay ngừa ho nhờ hyperin và quercetin (13). Chất quercetin nầy còn có khả năng ức chế những hoại tử khối u ở đại thực bào (20). Dầu lá cây  R. dauricum  chứa đựng flavon được dùng chữa ho hen và bệnh suyễn (15). Dùng methanol chiết lá thì được một chất thuốc làm giảm đau, hiệu nghiệm 40% với 50 mg/kg nhưng cũng trở nên độc trên 150 mg/kg (14). Chiết với ethanol 95%, cây R. cephaluntum  cống hiến một chất chromen có khả năng ức chế hoạt động của 5-lipoxygenase và được dùng chống viêm, dị ứng, hen suyễn (19).

Ở vùng  núi miền Hắc hải bên Turkey cũng như ở Nhật Bản, Nepal, Brazyl, và ngay ở châu Âu và châu Mỹ, các loại hoa đỗ quyên R. ponticum, R.luteum chứa một chất độc, grayantoxin, được ong hút về cùng nhựa hoa làm mật, ăn vào có thể bị nôn mửa,  hôn mê, vú nứt (22) hay huyết áp giảm xuống, nhịp chim chậm lại (11,16,17). Chất độc nầy tác động lên cuộc gián phân bạch huyết bào con người (18). Mang tên andromedotoxin, được phát hiện ở R. hunnewellianum (9) hay acetylandromedol (11)R. chrysanthum, R. campylocarpum và các hoa đỗ quyên khác cùng họ Đỗ quyên Ericaceae, đồng thời tác dụng lên tim, nó còn kích thích da cùng các màng nhầy (10). Trong Đông y, đỗ quyên vị đắng tính bình, hơi độc vào can thận, có tác dụng dưỡng thận khí, bổ thận khu phong, trị âm suy liệt dương, chân yếu lưng mỏi, di tinh, phối hợp với các vị khác. Chữa tiết tinh, lạnh tinh, liệt dương : lá thạch nam, ba kích, nhục thung dung, tỏa dương , sơn thù, mỗi vị 12-20g, sắc uống, hòa thêm 10 g cao ban long càng tốt. Chữa can thận hư, phong hàn thấp, chân tê yếu : thạch nam, tật lê, hà thủ ô, ba kích, ngũ gia bì, thỏ ty tử (quả hạt tơ hồng), uy linh tiên, mỗi vị 12-20 g, sắc uống (**).

 

Khóm đỗ quyên trên sườn đồi núi Alpes (ảnh Võ Quang Yến) 

Tôi đã có dịp lên Bạch Mã nhưng không may mắn gặp được mùa đỗ quyên trỗ hoa. Nghe nói đẹp lắm. "Khi mặt trời rọi những tia nắng ấm xuống Bạch Mã, dòng suối đã mang hết nước về xuôi, hoa đỗ quyên rực rỡ một vùng.  Sắc đỗ quyên đỏ thắm như máu, nồng nàn như mời gọi mà không rực rỡ, xót xa như phượng vĩ…" (1)  Tuy nhiên, tôi lại được đi dạo ở miền núi Alpes bên Pháp, một chiều đầu hè, mặt trời tuy cao nhưng hết còn nóng, gió nhẹ thổi vương chút nắng tàn, hoa đỗ quyên cũng đỏ thắm huy hoàng cả một triền núi xanh thấp thoáng dưới bầu trời lửng lơ mây trắng.. Tôi cảm thấy khoan khoái, dễ chịu do khí trời mát mẻ, không khí trong sạch đã đành, mà cũng có lẽ vì nhẹ bước giữa những khóm đỏ quyên tươi thắm như hân hoan đón rước kẻ đi dạo rừng. Khó mà so sánh với Bạch Mã, tuy ở đây cũng có chim nhưng không phải chim đỗ quyên, cũng có thác nhưng không phải thác Đỗ Quyên. Thôi thì tạm vui nơi phong cảnh xứ người, có khi may mắn được nghe giọng hát ví von của ca sĩ Đỗ Quyên khuây khỏa thời gian chờ đợi về tắm ao ta.

 

Nghiên cứu và Phát triển 2(45) (2004) 68-72 có bổ túc

 

(*) Trần Hợp, Cây cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, TPHồChíMinh (1993) 342

(**) Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội (1997) 1097

 

Tham khảo

1- Nguyễn Hương, Bạch Mã, mùa hoa đỗ quyên nở, Nhớ Huế - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TPHồChíMinh (2000) 42-45 Rhododendron simsii, R. indicum, Azalea indica

2- R. De Loose, Qualitative investigation on the flower pigments of Belgian hybrids of Rhododendron simsii, Meded. Vlaam. Chem. Ver. 30(4) (1968) 99-123

3- R. De Loose, Azalea indica flower color as related to the parameters pH, anthocyanins and flavonol co-pigments, Sci. Hortic. (Amsterdam) 9(3) (1978) 285-90

4- Y.F. Zhang, J.X. Tan, Y.F. Zhou, Change of action potentials in vagus nerve (efferent) of chronic bronchitic rats and the effect of treatment with flavonols of Rhododendron simsii, Yao Hsueh Tung Pao 16(5) (1981) 4-6

5- J. Xie, L. Wang, C. Liu, D. Ge, Synthesis of expectorant principle of natural flavanone, «matteucinol», Zhongguo Yixue Kexueyuan Xuebao 8(2) (1986) 84-7

6- M.S. Zheng, An experimental study of the anti-HSV-II action of 500 herbal drugs, J. Trad. Chin. Med. 9(2) (1989) 113-6  Rhododendron spp

7- R. Wasicky, Vitamin C cycle in the plant, Anais fac.farm.e odontol.univ.,Sao Paulo 15 (1958) 87-109

8- R. Wasicky, Extraction of vitamin C from the above ground portions of plants by the rain, Sci. Pharm. Brazyl 26 (1958) 100-3

9- H.P. Chu, G.K. How, The toxic principle (andromedotoxin) from Nao-Yang-Hua, Rhododendron hunnewellianum. I. The effect on circulation and respiration, Chinese J. Physiol. 5 (1962) 115-24

10- H. Schindler, Acetylandromedol (andromedotoxin) in various Ericaceae species, especially in Rhododendron, and ist approximate determination, Planta Med. 10 (1962) 232-7

11- F. Zymalkpwski, P. Pachaly, S. Auf dem Keller, Determination of acetylandromedol (grayanotoxin I) in Rhododendron ponticum extracts, Planta Med. 17(1) (1969) 8-13

12- Lanchow Med. Coll., Pharmacologic action and toxicity of anthorhododendrin, Chung-Hua Hsueh Tsa Chih 54(5) (1974) 279-83

13- Lab. Med. Plants, Correlation between phylogeny, chemical constituents and pharmaceutical aspects of plants and their applications in drug research, Chih Wu Hsueh Pao 19(4) (1977) 257-62

14- H. Tamura, H. Kuwahara, T. Inui, S. Terada, M. Yokota, A. Hasebe, Use of Rhododendron. I. Drugs and perfumes, Shizuoka-ken Kogyo Gijutsu Senta Kenkyu Hokoku (33) (1988) 61-5

15- F. Cong, F. Xiao, Z. Jiang, H. Yan, L. Meng, L. Cheng, Rhododendron dauricum leaf extracts containing flavones for treatment of cough and asthma, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 86108317 (1988) 4 tr.

16- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Site of action of grayanotoxins in mad honey in rats, J. Appl. Toxic. 11(3) (1991) 199-201

17- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Mad honey poisoning in man and rat, Rev. Envir. Healt 9(1) (1991) 3-9

18- M. Ascioglu, N. Cucer, A. Ekecik, Effect of grayanotoxin II on in vitro mitotic activity of human lymphocytes, J. Inter. Med. Res. 26(3) (1998) 140-3

19- A. Tokuta, T. Kawanabe, K. Tokuta, Y. Toue, A. Satoshi, The new chromene derivatives as 5-lipoxygenase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10251246 (1998) 5 tr.

20- K.R. Manjeet, B. Ghosh, Quercetin inhibits LPS-induced nitric oxide and tumor necrosis factor-alpha production in murine macrophages, Int. J. Immunopharm. 21(7) (1999) 435-43

21- I. Miyajima, K. Ureshino, N. Kobayashi, M. Akabane, Flower color and pigments of intersubgeneric hybrid between white-flowered evergreen and yellow-flowered deciduous azaleas, J. Jap. Soc. Hort. Sci. 69(3) (2000) 280-282

22- B. Puschner, D.M. Holstege, N. Lamberski, T. Le, Grayanotoxin poisoning in the three goats, J. Amer. Vet. Med. Ass. 219(4) (2001) 573-5

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Võ Quang Yến