Trinh nữ thẹn thùng

Vietsciences- Võ Quang Yến       12/10/2007

Những bài cùng tác giả

Sáng nay vô số lá vàng rơi
Người gái trinh kia đã chết rồi !

Nguyễn Bính

 

Ngày xưa có một cô tên Trinh, con nhà nghèo khó, nhưng là một cô gái rất đẹp, vóc người mảnh mai, dáng đi yểu điệu, đặc biệt có đôi mắt đen huyền ẩn sau đôi hàng lông mi vừa dài, vừa rậm. Trong xóm có cậu công tử tên Xinh đem lòng yêu mến cô Trinh. Nhuốm bệnh tương tư, một hôm thừa lúc vô ý, cậu chạy lại nắm tay cô. - Cậu đừng làm vậy mà thất giáo. Tôi đây thà chết chớ không bao giờ để hoen ố… Ông bá hộ, cha của cậu, thấy cậu đã lớn tuổi, tìm nơi môn đăng hộ đối để định gia thất cho con. Sống với người vợ không vừa ý, cậu Xinh vô cùng phn chí, đi tới đi lui như người không hồn. Sau một thời gian đi xa, cậu Xinh trở về làng cũ, thn thờ ra sau vườn gần mé sông, hình ảnh cô Trinh vẫn còn ghi trong tâm trí của cậu. “ Bổng nhiên, từ trong bụi rậm, cô Trinh bước ra. Cậu đứng nhìn, kìa cô Trinh cất giọng hát, giọng trong trẻo, mê ly lạ thường. Chợt thấy cậu, cô Trinh run rẩy, quay người toan chạy trốn. Cậu Xinh vội nắm tay cô rồi ôm vóc ngọc vào lòng. Rõ ràng là đôi mắt đen huyền đang khuất sau hai hàng mi dày rậm. Cậu cúi mặt để hôn. Nhưng hi ôi nàng đã tắt thở. Cậu giật mình, mới biết nãy giờ mình đang cúi xuống đất mà hôn một đóa hoa màu hồng, xung quanh đầy lá nhỏ mịn, thứ lá xếp lại như hàng mi khép khi có hơi gió hoặc hơi thở nào động tới. Hỏi ra mới biết, vì có kẻ tham quan ô lại toan dùng quyền lực cưng bức nên cô Trinh đã tự tử từ hai năm nay. Cho hay, chữ trinh giá đáng nghìn vàng. Dẫu chết xuống âm cảnh, người thiếu nữ vẫn giữ sự trong sạch của tâm hồn mình ” (4).

 

Daphné và Apollon

Chuyện cô Trinh nhắc ta nhớ đến một sự tích trong thần thoại Hy Lạp. Nữ thần Daphné, một tay thiện xạ, muốn sống độc thân như cô trinh nữ Artémis, thần săn bắn. Một hôm, nhân từ chối những lời ngon ngọt của thần Apollon và bị chàng si tình rượt đuổi trong rừng, nàng cầu cứu vua cha, thần sông nước Pénée và được vua cha (hay Thượng đế Zeus) biến hóa ra thành một cây hương mang lá không rụng, có hoa trắng thơm, cây thắng dapné (theo tiếng Hy Lạp), tiếng Pháp gọi laurier, tiếng Anh laurel, tên khoa học Laurus nobilis, thuộc họ Long não Lauraceae. Apollon chỉ còn biết hái lá cây trang trí cho cây đàn lia và chiếc cung của mình, nhưng đồng thời cũng tôn phong là cây thiêng liêng nên sau nầy thi sĩ, tướng tá hay vua chúa thường hay mang vòng lá thắng (couronne de laurier). Đặc biệt những nghệ sĩ hay nhà bác học thường được thưởng một vòng mang quả mọng cây thắng (bacca laurea) nên sau nầy tiếng Pháp có danh từ baccalauréat để chỉ bằng tú tài. 

Đóa hoa màu hồng kia là hoa cây trinh nữ còn gọi là cây thẹn, cây mắc c, cây hỗ ngươi hay hàm tu thảo, ojigi-so bên Nhật, lajwanti bên Ấn Độ, lajjabati bên Bangladesh, tức là cây sensitive của Anh, Pháp, mang tên khoa học Mimosa pudica L. từ hai tiếng La Tinh mimus (điệu bô) và pudicus (trong trắng, tiết hạnh) mà ra. Thuộc họ Trinh nữ Mimosaceae, nó là một cây nhỏ, thường cao 30-40 cm hay cao hơn, cũng có thể bò sát đất, mọc hoang khắp nơi trong nước ta, lóa xóa ở hàng rào, ven đường cái, bải cỏ rộng, thân có gai hình móc. Lá kép chân vịt, cuống lá gầy có nhiều lông, mang bốn nhánh lá chét hình lông chim, phiến lá chét nhỏ gồm 15-20 đôi gần như không cuống, khi ta đụng phải thì là cụp lại. Hoa màu tím đỏ, tụ thành hình đầu trái xoan. Quả đậu có lông cứng ở mép và thu lại giữa các hạt hình trái xoan (1,2) .

Cây cỏ có rễ bám vào đất thì không di chuyển từ chỗ nầy qua nơi khác được nhưng không phải vì vậy mà chúng luôn ở thể tĩnh. Tính nhận cảm của chúng biểu lộ ở mỗi thay đổi khí hậu, ánh sáng, độ ẩm cũng như sự hiện diện những hóa chất trong môi trường xung quanh. Thường cử động của cây cỏ được sắp thành ba loại : loại tính hướng tropism ( cử động hướng theo tác nhân kích thích), loại tính ứng nasty (cử động không có liên lạc với tác nhân kích thích) và loại tính theo taxis ( cử động hướng theo hay không tác nhân kích thích). Cây trinh nữ thuộc loại tính ứng. Như ở nhiều loại cây đậu, đặc biệt ở các loại cây keo Acacia karroo, cây me Oxalis strica, động tác là mở ban ngày, khép ban đêm hay khi bị đụng tới ở cây trinh nữ đã được để ý đến trước cả Công nguyên. Hình như vào thời kỳ Đại đế Alexandre đã thấy có ghi chép hiện tượng nầy. Chuyển động tuần hoàn tương đối chậm (khoảng 24 tiếng đồng hồ) của lá cây gọi là tính ứng đêm nyctinastic, thao diễn như được một chiếc đồng hồ sinh vật học điều khiển.

Thật vậy, khái niệm tính ứng đêm chỉ ra đời sau khi khái niệm đồng hồ sinh vật học được nêu ra. Đầu thế kỷ 18, Du Fay, một nhà hoá học kiêm vật lý học người Pháp, quản đốc ngự uyển, phát giác ra tính ứng đêm (lá mở ngày khép đêm) luôn thao diễn dù ở trong bóng tối. Hiện tượng lạ lùng khó giải thích nầy thúc đẩy các nhà khảo cứu, hóa học, nông học cũng như sinh vật học, kiếm cách tìm hiểu cơ chế không những tinh ứng đêm tức cử động chậm mà còn cả tính ứng tiếp xúc thigmonastic còn gọi tính ứng chấn động seismonastic tức là phản ứng lanh của cây cỏ. Năm 1882, nhà vạn vật học có tiếng Charles Darwin, tác giả cuốn sách độc đáo “ Nguồn gốc chủng loại ”, cùng với con trai Francis rút kinh nghiệm khảo cứu trên hơn một trăm loại cây, cho xuất bản bộ sách quan trọng “ Khả năng vận động của cây cỏ ”  trong ấy tính ứng đêm đã được đề cập đến. Những thí nghiệm khéo léo của hai ông về sự đổi màu ngoài sáng đã đưa đến cuộc phát minh chất auxin là hormon cây cỏ đầu tiên trong số sáu hormon được biết nhiều nhất : auxin ethylen, gibberillin, cytokinin, abscisis acid và brassinolid. Ngày nay, người ta giải thích cử động của lá cây là do các luồng ion, đặc biệt các ion K+, gây ra một cuộc di chuyển nước trong hay quanh những tế bào sắp đặt trên và dưới các tổ chức mạch trung tâm. Những tế bào nầy khi co thắt thì mất ion K+, khi phồng trướng thì lấy lại các ion ấy, gây ra cuộc chuyển động (49).

Bên lề cơ chế, những nhà khảo cứu muốn tìm cho ra những  hoạt chất đã kích thích hoạt động của lá cây. Thoạt tiên, được nghĩ đến trước tiên là những amin acid, đặc biệt L-glutamic acid, alfa-alanin hỗn hợp với D,L-serin, hay glutamic acid với bêta-alanin (10), nhưng thực nghiệm không chứng minh được rõ ràng. Sau đó, phương pháp điện sinh lý học dẫn đường đến chất natri glutamat (36). Cùng lúc, những chất như mimosin (17), tubulin (20,32,33), jasmonic acid (27), acetylcholin (25), indol acetic acic (31), hay một enzym, apyrase (48) cũng được đề nghị làm chất điều hòa chuyển động tuần hoàn trong lá. Năm 1983, Schildneckt và Binder ở Viện Đại học Heidelberg bên Đức chiết xuất và xác định được từ nhiều cây, đặc biệt từ cây trinh nữ, các loại cây keo, cây me, những chất turgorin (28,29,34) gồm có trong phân tử nhóm acid SO3H, mà họ cho là một loại mới phytohormon chỉ đạo cuộc chuyển động kia. Sau cùng, Yamamura và Ueda, hai giáo sư ở Viện Đại học Keio tại Yokohama bên Nhật, khám ra một hỗn hợp gồm có ba chất : kali L-malat, magnê t-aconitat và dimethyl ammonium và theo hai ông chính là chất kích thích cây trinh nữ vì lá đã phản ứng với liều lượng 10-3 – 10-9 M. Đằng khác, hai tác giả nầy còn phân biệt : hỗn hợp ba chất kia chịu trách nhiệm tinh ứng lanh, còn cử động chậm tinh ứng đêm thì là do cặp hai chất kali glucopyranosyl gentisat (khép lá ban đêm) và mimopudin (48) (mở lá ban ngày) dao động thăng bằng với nhau mà nhờ thay đổi cách chiết xuất họ đã phân biệt được.

Thật ra, những crocetin glucosid với Benerji (8), phenolic glycosid với Umrath (23), chính xác hơn những dihydroxy benzoic acid – glucorinid (22) hay – glucosid sulfat (21) hay – glucosid disulfat (19) hay glucopyranosyl sulfat gallic acid  (30,39) cũng  đã từng được Chamberland và nhất là Schildneckt nói đến. Song song với cây trinh nữ, khảo cứu trên nhiều cây như loại đơn châu Lespedeza cuneata, vọng giang nam Cassia mimosoides, diệp hạ châu Phyllanthus  urianata, Yamamura và Ueda nhận thấy một trong hai chất của cặp đôi nầy luôn là một glucosid do một enzym là bêta-glucosidase hoạt hóa theo chiếc đồng hồ sinh vật học trong những những điều kiện sinh lý học. Phân biệt được hai tinh ứng, hai ông hy vọng kết thúc một cuộc tranh luận bắt đầu từ hơn 80 năm nay (49) . Bên phần Phòng thí nghiệm Sinh lý Thực vật ở Viện Đại học Poitiers bên Pháp thì khám phá ra được trong những tế bào vận động lá cây, hai protein myosin và actin co bóp như ở các bắp thịt con người (3) . Còn cần phải giải thích quan hệ giữa các protein nầy với các hóa chất kích thích trong một cơ chế phức tạp.

Bên cạnh những chất dính dáng đến động tác của lá, nhiều hóa chất khác cũng đã được tìm ra trong cây trinh nữ. Mimosin được nói đến nhiều nhất là một alcaloid (5,18) đã được nhân tạo tổng hợp (9). Nó cũng được chiết xuất từ cây keo giậu Leucaena leucocephala (còn gọi cây keo, bọ chét, bình linh) (11,26) và rất giống chất leucenol (hay leucenin) chiết xuất từ cây keo đậu L.glauca (còn gọi cây muồng , táo nhân, bồ kết dại) (7).Tổng số alcaloid chiết xuất được trong cây là 0,4 mg/mL (13). Lá và hoa chứa đựng rutin (3,97 và 3,11 %) (41). Trong hột cây có acid, nhiều nhất là những (%) linolenic (0,4), linoleic (51), oleic (31), palmitic (8,7) và stearic acid (8,9) (6). Trong dầu hột cây, những acid nầy cũng được tìm ra với 5,7% behenic acid (15). Ngoài ra cũng đã được phát giác trong cây D-pinitol (14), norepinephrin (12), propyl tetracosanyl phenol trong lá (46), và một số glycosidic flavonoid : mimosid (mimosin glucosid) (11), cardenolid (52), bufadienolid trong hột (51), rhamnosyl –orientin, -isoorientin (38) , hydroxy maysin, cassia occidentalin (55) là những glycosyl flavon trong phần cây ngoài trời. Để xác định selenium trong cây trinh nữ cũng như trong nước, đất, thức ăn, những nhà hóa học Việt Nam sử dụng trioxy azobenzen cho hỗn hợp với Se (45) và tìm ra được selenium (mg/kg) trong thân cây (30,7-104,3), lá (40,5-201,4) và hoa (80,0-153,5) trên những mẫu hái ở bốn vùng khác nhau (24).

Trong rễ cây trinh nữ còn có L-djenkolic acid, một amin acid độc nhất không phải là một protein và chứa lưu huỳnh, được một enzym là S-alkyl cystein lyase thủy phân thành pyruvat, ammoniac và nhất là methylen thiol hay carbon disulfid CS2, đặc biệt khi rễ cây bị tổn thương (37), có tính chất diệt nấm, diệt giun, diệt sâu, kìm vi khuẩn (44), có khả năng ngăn cản sự sinh truởng những vi khuẩn trong đất (155ng/mL) (35). Bột rễ cây đem thử lên chuột cái Rattus norvegicus thấy ức chế được hoạt động estrogen, ngăn chận tử cung phồng lớn khi cho tác dụng estradiol monobenzoat (50,57). Phần rễ chiết với nước hay rượu thì ngăn cản được tác dụng của nọc rắn mang bành Naja kaouthia (54). Tính chất khử vi trùng của cây đã được chứng minh trên trùng Vibrio cholerae (40). Nước chiết lá khô có tính chất chống suy nhược trên chuột nên được dùng  để làm thuyên giảm suy sút sinh lực (47) , có thể là nhờ những alcaloid (13). Phần chiết lá với rượu đem thử trên chuột thì có tác dụng làm tăng máu (250mg/kg) (56). Mimosin còn có khả năng ngăn cản tóc mọc (10). Trong k nghệ, cây trinh nữ được dùng trong mỹ phẩm, có tính chất cố định hương thơm, không làm hỏng da lại làm láng tóc nên được trộn với sáp hoa cam và dung dịch hữu cơ thành thuốc phun tóc (43, chữa những chứng ngoài da như bệnh cứng bì (scleroderma), bệnh sẹo lồi (keloid) (53). Phần chiết cây cũng được dùng để phòng ngừa hay chữa những bệnh do vi khuẩn hay độc trùng gây ra ở các giống vật sống dưới nước như tôm hùm (58).

 

Passiflora foetida

Trong Đông y, cây trinh nữ có vị ngọt chát, tính mát, trấn tĩnh an thần. Nó được dùng trong nhân dân chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ. Chữa thần kinh suy nhược, nhức đầu, ù tai, khó ngủ : lá cây trinh nữ, dây lạc tiên Passiflora foetida (còn gọi nhãn lòng, mác mát), củ tóc tiên Ophiopogon japonicus (còn gọi mạch môn, củ cỏ lan, cây lan tiên), hột muồng ngủ Cassia tora (còn gọi muồng muồng, muồng lạc, đậu ma, thảo quyết minh, quyết minh tử), hoài sơn Dioscorea persimilis (còn gọi củ mài, khoai mài, sơn dược), mỗi vị 20g sắc uống. Chữa phong thấp nhức xương : rễ cây trinh nữ sao, bưởi bung Acronychia pedunculata (còn gọi  bái bài, bí bái cái) sao, dây đau xương Tinospora sinensis (còn gọi khoan  cân đằng, tục cân đằng), kê huyết đằng  Sargentodoxa cuneuta (còn gọi đại huyết đằng, dây máu gà), mỗi vị 20g sắc uống hoặc ngâm rượu uống (1,2) .

Acacia seyal Delille.">Viết xong bài báo, tôi muốn tìm chụp một cái hình cây trinh nữ để minh họa. Nó là một cây xứ nóng, rất khó kiếm ở Pháp, nhất là ở Paris. Người ta khuyên tôi nên đi tìm một nhà kính là nơi nhiệt độ luôn giữ được cao. Nhà kính ở Jardin des Plantes không có trồng cây trinh nữ. Người ta hướng tôi về nhà kính Serres d’Auteuil. May quá, ở đây có trồng cây nầy, lại vào đầu hè, hoa nở tím hồng thật xinh. Thấy tôi mê mẩn ngắm cây hoa thời tuổi trẻ ở đồng quê của tôi, cô gái phục vụ kéo tôi đi xem một cây khác, giống hệt cây trinh nữ nhưng lá không ghép lại khi đụng tay vào, hoa lại vô cùng sực sỡ, hình dạng khác thường, hai màu vàng, đỏ nổi bật trên nền lá xanh. Nó được gọi là cây mimosa có gai, mang tên khoa học Acacia seyal Delille. Bất giác tôi thốt ra : “ Qu’elle est belle ! ” (Sao mà đẹp thế ! ) Elle có thể hiểu là hoa cây hay hoa người, làm cô nàng đứng cạnh hoa, trong hướng mắt của tôi, đỏ mặt thẹn thùng. May mắn thay, ở thời buổi nay, bên phương trời tây, còn bắt gặp được một cô gái biết e lệ cúi đầu không khác gì cây trinh nữ ghép lá ẩn mình !

 

 

 

Nghiên cứu và Phát triển 4-5 (52-53) (2005) 71

 

Tài liệu

            Đại cương

         

1- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 790-1

2- Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông nghiệp, Hà Nội (1997) 913-4

3- Jean-Michel Le Corfec, Le langage du corps du pudique mimosa, Sciences et Avenir 2(1998) 54

4- Sơn Nam – Tô Nguyệt Đình, Cây mắc cở trong Chuyện xưa tích cũ, nxb Phụ nữ, Hà Nội – Tp Hồ Chí Minh (2001) 6-8

 

            Khảo cứu

5- J. Renz, Mimosin, Z. physiol. Chem. 244 (1936) 153-8

6- J.S. Aggarwal, D. Karimullah, Chemical examination of the seeds of Mimosa pudica Linn. I- Analysis of fatty oil, J. Sci. Ind. Res. (India) 4 (1945) 80-2

7- J.P. Wibaut, The structure of leucenol (leucenine) from Leucaena glauca Benth., Helv. Chim. Acta, 29 (1946) 1669-75

8- B. Banerji, G. Bhattacharya, D.M. Bose, Chemical nature of the substances which are (1) effective in the transmission of excitation in Mimosa pudica and (2) active in the contraction of its pulvinus, Trans. Bose Res. Inst. Calcutta 16 (1944-1946) 155-76

9- I.D. Spenser, A.D. Notation, A  synthesis of mimosine, Can. J. Chem. 40 (1962) 1374-9

10- R.G. Crounse, J.D. Maxwell, H. Blank, Inhibition of growth of hair by mimosine, Nature 194 (1962) 694-5

11- I. Murakoshi, S. Ohmiya, J. Haginiwa, Mimoside. Glucosidic metabolite of mimosine in Mimosa pudica anh Leucaena leucocephala, Chem. Pharm. Bull. 19(12) (1971) 2655-7

12- P.B. Applewhite, Serotonin and norepinephrine in plant tissues, Phytochem. 12(1) (1973) 191-2

13- Q. Abdul, M. Khondaker, H. Quamrul, Study of the actions of the total alkaloid extract  of Mimosa pudica Linn. (Lajjabati) and atropine sulfate on the isolated duodenum of rabbits, Bangladesh Veter. J. 8(1-4) (1974) 27-32

14- H. Schildknecht, D.S.P. Iyengar,  Biological chemistry of Mimosaceae. I- D-Pinitol from Mimosa pudica, Naturwissens. 62(1) (1975) 533-4

15- R.C. Badami, K.B. Patil, S.C. Shivamurthy, Minor seed oils. XIII- Examination of seed oils rich in linoleic acid, J. Food Sci. Techn. 14(3) (1977) 126-8

16- H. Schildknecht, B. Tauscher, M. Pesh-Imam, W. Beltle, P. Kunzelmann, D. Schneider, Plant defense substances. X- The biological chemistry of Mimosaceae. II- Amino acids as « leaf movement factors », Naturwissens. 65(3) (1978) 125-9

17- S.I. Baskin, G.S. Cooper, Mechanisms of movement in Mimosa pudica - a pharmacological approach, Gen. Pharm. 11(1) (1980) 135-9

18- B. Tangendjaja, R.B.H. Wills, Analysis of mimosine and 3-hydroxy-4(1H)-pyrolidone by high-performance liquid chromatography, J. Chrom. 202(2) (1980) 317-8

19- H. Schildknecht, K. Schumacher, Plant protection agents. XVII- Biochemistry of Mimosaceae. VIII- An additional leaf movement factor from Acacia karroo, Chem. Z. 106(12) (1982) 421-4

20- J. Mukherjee, S. Biswas, Tubulin from Mimosa pudica and its involvement in leaf movement, Phytochem. 21(8) (1982) 1881-4

21- H. Schildknecht, W. Bender, Plant protection agents. XVIII- Biochemistry of Mimosaceae. IX- Chemonastically active leaf movement factors from Mimosa pudica L., Chem. Z. 107(4) (1983) 111-4

22- H. Schildknecht, W. Bender, Plant protection agents. XIX- A new phytohormone M-LMF 5 from Mimosa pudica L., Angew. Chem. 95(8) (1983) 634-5

23- W. Bielenberg, H. Esterbauer, M. Hayn, K. Umrath, The excitatory substance of the Mimosaceae, Phyton (Horn, Austria) 24(1) (1984) 1-10

24- Dang Hong Thuy, Dam Trung Bao, Study of selenium content in Mimosa pudica L., Rev. Pharm.  (Hanoi, Vietnam) (1984) 12-7

25- S. Suda, Is acetylcholine involved in the movement of Mimosa pudica ? Shokubutsu no Kagaku Chosetsu 19(2) (1984) 116-22

26- A. Mathews, P.V. Rai, Mimosine content of Leucaena leucocephala and the sensitivity of Rhizobium to mimosine, J. Plant Physiol. 117(4) (1985) 377-82

27- S. Tsurumi, Y. Asahi, Identification of jasmonic acid in Mimosa pudica and its inhibitory effect on auxin- and light-induced opening of the pulvinules, Physiol. Plantarum 64(2) (1985) 207-11

28- Y. Shizuri, E. Miyoshi, S. Nishiyama, H. Toshima, K. Nagasawa, S. Yamamura, Some stimulating substances to leaf movement of Mimosa pudica and related plants, Tennen Yuki Kagobutsu Toronkai Koen Yoshishu  27th (1985) 664-71

29- H. Schildknecht, A chemical power of movement in higher plants, Nat. Prod. Chem., Int. Symp. Pak.-U.S. Binatl, Workshop, 1st (1986) (Meeting Date 1984) 358-82

30- H. Schildknecht, R. Milde, From radioactive coniferin to labeled turgorin, Carb. Res. 164 (1987) 23-31

31- M. Rody, P.S. Basu, Production of 3-indoleacetic acid by a Rhizobium sp. from Mimosa pudica, Folia Microbiol. (Prague, Czech Republic) 34(2) (1989) 120-6

32- M. Pal, A. Roychaudhury, A. Pal, S. Biswas, A novel tubulin from Mimosa pudica. Purification and characterization, Eur. J. Biochem. 192(2) (1990) 329-35

33- A. Roychaudhury, S. Biswas, Sulfhydryl groups of Mimosa pudica tubulin implicated in colchichine binding and polymerization in vitro, Arch. Biochem. Biophys. 294(2) (1992) 353-60

34- G. Schaller, H. Schildknecht, A new separation process for isolating turgorins, J. Prak. Chem./ Chem. Z. 334(4) (1992) 358-60

35- P.G. Hartel, B.L. Haines, Effects of potential plant CS2 emissions on bacterial growth in the rhisosphere, Soil Biol. Biochem. 24(3) (1992) 219-24

36- S. Nakajima, C. Aoki, M. Okamoto, N. Baba, J. Iwasa, Electrical pulse generation from Mimosa pudica by administering other plant extract, Biosc.Biotech. Biochem. 57(11) (1993) 1976-7

37- P.G. Hartel, R.E. Reeder, Effects of drought and root injury on plant-generated carbon disulfide emissions in soil, Plant Soil 148(2) (1993) 271-6

38- J. Englert, Y. Jiang, P. Cabalion, A. Oulad, R. Anton, C-glycosylflavones from aerial parts of Mimosa pudica, Planta Med. 60(2) (1994) 194

39- H. Chamberland, J. Lafontaine, F. Marsolais, M. Richard, L. Varin, Characterization of tissue-specific, sulfotransferase-like protein in Mimosa pudica, Colloques INRA (1995) 69 (Polyphenols 94) 347-8

40- K.A. Akinsinde, D.K. Olukoya, Vibriocidal activities of some local herbs, J. Diarrhoeal Diseases Res. 13(2) (1995) 127-9

41- G. Toker, S. Turkoz, B. Sener, The determination of rutin in some plants by ultra violet spectroscopy,  Fac. Phar. Gazi Univ. (Ankara, Turk) 14(1) (1997) 51-4

42- R. Ghosh, S. Biswas, S. Roy, An apyrase from Mimosa pudica contains N5,N10-methenyl tetrahydrofolate and is stimulated by light, Eur. J. Biochem. 258(3) (1998) 1009-13

43- T. Kripp, B. Krause, G. Lang, W. Maurer, I. Toeche-Mittler, Cosmetic compositions containing flowwer wax, Ger.Offen. DE 19641992 A1 19980416 (1998) 10 tr.

44- J. Piluk, P.G. Hartel, B.L. Haines, Production of carbon disulfide (CS2) from L- djenkolic acid in th roots of Mimosa pudica L., Plant Soil  200(1) (1998) 27-32

45- Thu Lam Ngoc, Tan Le Van, The complex formation of Se(VI) with trioxyazobenzene and its application, Proc. Nat. Cent. Sci. Tech. Vietnam 10(2) (1998) 51-5

46- B. Josewin, M. Ramachandrapai, M.S. Suseelan, A new phenolic ketone from the leaves of Mimosa pudica Linn., Indian J. Chem. Org. Chem. Med. Chem. 38B(2) (1999) 251-3

47- M. Molina, C.M. Contreras, P. Tellez-Alcantara, Mimosa pudica may possess antidepressant actions in the rat, Phytomed. 6(5) (1999) 319-23

48- M. Ueda, S. Yamamura, Leaf-opening substance of Mimosa pudica L. ; chemical studies on the other leaf movement of mimosa, Tetr. Lett. 40(2) (1999) 353-6

49- Hai giáo sư Shosuke Yamamura, Minoru Ueda và cộng tác viên, ngoài những bản báo cáo khảo cứu, còn có cho đăng  một loạt bài tổng kiểm lần lượt trình bày kết quả chung của đề tài. Sau đây chỉ xin dẫn ba bài tiêu biểu  nhất : The chemistry of leaf-movement in Mimosa pudica L., Tetrahedron 55(36) (1999) 10937-48 ; The diversity of chemical substances controlling the nyctinastic leaf-movement in plants, Phytochem. 53(1) (2000) 39-44 ; Chemistry and biology of plant leaf movement, Angew. Chem. Int. Ed. 39(8) (2000) 1400-14

50- S.V. Alsala, Estrogenic and anti-estrogenic activities of Mimosa pudica on Rattus norvegicus, J. Ecotox. Envir. Monitoring 10(1) (2000) 25-9

51- R.N. Yadava, S. Saroj, A novel bufadienolide from the seeds of Mimosa pudica Linn., Asian J. Chem. 13(3) (2001) 1157-60

52- R.N. Yadava, S. Yadav, A new cardenolide from seeds of Mimosa pudica Linn., J. Inst. Chem. (India) 73(5) (2001) 182-4

53- J. Anderson, L. Declercq, D.F. Collins, T. Mammone, H.A.L. Corstjens, Compositions containing mimosa phenolic compounds USXXAM US 6290993 B1 20010918 (2001) 4 tr. ; PCT Int. Appl. PIXXD2 WO 0107008 A1 20010201 (2001) 13 tr.

54- M. Mahanta, A.K. Mukherjee, Neutralisation of lethality, myotoxicity and toxic enzymes of Naja kaouthia venom by Mimosa pudica root extracts, J. Ethnopharm. 75(1) (2001) 55-60

55- A. Lobstein, B. Weniger, B.H. Um, M. Steinmetz, L. Declercq, R. Anton, 4’’-Hydroxymaysin and cassiaoccidentalin B, two unsual C-glycosylflavones from Mimosa pudica (Mimosaceae), Biochem. Syst. Ecol. 30(4) (2002) 375-7

56- T. Amalraj, S. Ignacimuthu, Hyperglycemic effect of leaves of Mimosa pudica Linn., Fitoter. 73(4) (2002) 351-2

57- S. Valsala, P.R. Karpagaganapathy, Effect of Mimosa pudica root powder on oestrous cycle and ovulation in cycling female albino rat, Rattus norvegicus, Phytother. Res. 16(2) (2002) 190-2

58- U.M. Desai, C.T. Achuthankutty, R.A. Sreepada, Composition for treating wssv infected tiger shrimp, PCT Int. Appl. PIXXD2 WO 0272121 A1 20020919 (2002)

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.org  Võ Quang Yến