Ai ơi chớ thấy nhỏ mà khinh
Châm chích vào ai cũng giật mình.
Trướng rũ màn che vô cũng lọt,
Năm canh to nhỏ biết
bao tình.
Thảo Am
Sốt rét là một trong những
chứng bệnh lan tràn nhất thế giới. Trung bình mỗi phút có hai
con trẻ chết vì nó. Tính ra mỗi năm, trên dưới một triệu người
bị tử thần sốt rét kéo đi. Từ châu Phi qua Nam Mỹ đến châu Á,
hơn 2,2 tỷ người (nghĩa là gần phân nửa nhân loại) luôn bị sốt
rét đe dọa hằng ngày. Tất cả bệnh nhân đều không chết hết nhưng
khoảng 100 triệu người luôn sống vất vưởng, cơ thể kiệt quệ vì
đau lên sốt xuống. Là một trong những chứng bệnh ra đời từ thuở
tạo thiên lập địa, nó thường quấy nhiễu ở những vùng đất đai ẩm
ướt, bùn lầy (palud) hay ở những nơi rừng núi chướng khí (mal
area) cho nên Âu Mỹ có những danh từ paludisme, malaria
để chỉ chứng bệnh. Để trị bệnh sốt rét, năm 1630 Don Francisco Lopez nghĩ tới dùng
vỏ cây quinquina và phải đợi gần 200 năm sau (1820) mới thấy hai
nhà hóa học Pháp, Joseph Pelletier và Joseph Caventou
hoạt chất quinin từ vỏ cây ấy. Tục truyền có bà bá tước tên là
Cinchon đã sắc vỏ cây làm thuốc chữa trị thành công nhiều lần
các cơn sốt, cho nên sau đó người ta mới đặt tên Cinchona
(họ Cà phê Rubiaceae) cho cây, quinquina cho vỏ cây và
quinin cho thuốc. Có ba loại cây : cây đỏ C. succirubra
Pavon chữa sốt, cây vàng C. calisaya Wedd. hay C.
ledgeriana Moens để alcaloid, cây xám C.
officinalis L. dùng chế rượu khai vị. Cùng với quinin, cây
còn chứa nhiều alcaloid (quinidin, cinchonin, cinchonidin,…),
nhiều phytosterol (cinchol, cupreol, quebrachol,…), quinovin là
một glucosic, những quinic, quinotannic acid,…Năm 1880, Alphonse
Laveran, y sĩ quân đội Pháp, lại phát hiện ra huyết trùng gây
bệnh trong hồng huyết cầu, sau nầy mang tên hematozoaire de
Laveran. Từ 50 năm nay, Tổ chức Sức khỏe Quốc tế OMS đặt mạnh
chương trình bài trừ sốt rét trên toàn thế giới, huy động nhiều
lực lượng và phương tiện, nhưng đến nay chưa diệt trừ được chứng
bệnh khủng khiếp kia. Ở các nước ôn đới, bệnh đã thụt lùi rõ
ràng, nhưng nó vẫn còn hoành hành dữ dội ở các xứ nóng ấm, nhiều
nhất là ở các nước thiếu vệ sinh vì điều kiện kinh tế, xã hội
trì trệ. Ở Việt Nam ta, cuộc bài trừ sốt rét đã và đang được đặt
ra, cần thiết, cấp bách. Đối với con người, ký sinh
sinh bệnh có ba loại chính : nhiều nhất là Plasmodium vivax,
nguy hiểm hơn là Plasmodium falciparum, còn Plasmodium
malariae thi tương đối hiếm có. Những ký sinh nầy do muỗi
chuyển qua cơ thể ta khi nó chích đốt vào da thịt. Ký sinh chạy
thẳng vào máu và sinh nở trong nhiều hệ thống, cơ quan, đặt biệt
ở gan. Một, hai tuần sau, nó xâm nhập hồng huyết cầu (lúc ấy
người ta gọi nó là schizont) và tiếp tục sinh nở cho đến lúc
hồng huyết cầu vỡ tan. Chính lúc ấy cơ thể thấy ớn lạnh, lên cơn
sốt, toát mồ hôi. Những ký sinh vừa sinh ra lại xông vào các
huyết cầu khác và cứ mỗi chu kỳ hai, ba ngày, tùy loại ký sinh,
hồng huyết cầu lại bị vỡ và cơn sốt lại nổi dậy. Có khi chu kỳ
kéo dài ra, thấy như bệnh đã thuyên giảm, thật ra nó vẫn còn
tiềm tàng trong cơ thể. Ký sinh trong hồng huyết cầu có thể biến
hóa thành gametocyt dưới hai thể đực và cái, không có tác dụng
gì. Nhưng khi muỗi hút máu, gametocyt từ máu chuyển qua muỗi,
chạy thẳng vào dạ dày, biến thành gamet vừa đực vừa cái, cùng
nhau tạo ra trứng và ký sinh. Bắt đầu từ đây, muỗi có thể truyền
nhiễm.Có khoảng 70 loài muỗi có khả
năng truyền bệnh, trong ấy nguy hiểm nhất là loài muỗi
Anopheles. Trước hết phải kể hai con A. gambiae và
A. funestus bên châu Phi. Ở châu Á, đặc biệt ở Đông Dương,
con A. minimus là một địch thủ vô cùng ghê gớm. Nó rất
yên lặng nhưng đốt thì rất đau. Chỉ có muỗi cái đốt và nó chỉ
đốt ban đêm. Nếu muỗi đực chỉ biết thích hút ngụy hoa, sống
thảnh thơi với vài ba giọt nhựa thì muỗi cái cần có máu sinh vật
vì nó dùng protein máu đùm bọc ấp trứng. Ta có thể độ lượng với
muỗi cái vì nó lo chuyện bảo tồn nòi giống ! Vòi của nó gồm có
hai ống : khi vòi chích vào da thịt thì một ống thảy nước miếng
đầy ký sinh vào cơ thể con người trong khi ống kia hút máu và
hút luôn cả gametocyt nếu nạn nhân đã nhiễm bệnh.
Hồi còn nhỏ tôi được nghe kể sự tích con muỗi. Có một cặp vợ
chồng rất thương yêu nhau nhưng một ngày kia người vợ rủi ro từ
trần. Người chồng đau đớn, đưa thây vợ lên một chiếc đò chèo đi
tìm thầy cúu chữa. Lên một ngọn núi nọ, anh may mắn gặp được Nam
cực tiên ông, thấy anh thật thà ngay thẳng liền cho anh biết
cách cứu sống vợ : về chích đầu ngón tay cho giỏ vào miệng vợ ba
giọt tức thì vợ sẽ sống lại, và cũng có khuyên nếu sau nầy vợ
đối xử tàn tệ với anh thì đòi lại ba giọt máu ấy. Anh về làm
đúng lời tiên ông và vợ anh sống lại. Hai vợ chồng lại vui vẻ
sống với nhau nhưng không được bao lâu thì cô vợ trở nên không
đứng đắn, bội bạc bỏ anh đi theo một ông triệu phú. Một hôm,
không giằng lòng được, anh đến gặp vợ đòi lại ba giọt máu như
tiên ông đã dặn. Cô vợ không còn biết tình nghĩa gì hết, nhanh
nhẩu trả lời : "Tưởng đòi gì chứ chỉ ba giọt máu thì đây này !
" Nói xong cô vợ chích đầu ngón tay cho giỏ ra ba giọt máu, tức
thì nằm xuống chết ngay, biến thành một con muỗi ngày đêm bay
theo anh chồng để lấy lại cho được ba giọt máu kia !
Nếu người chồng kia chỉ bị một con muỗi độc nhất bay theo,
thường muỗi tấn công từng đoàn và việc làm cần thiết trước tiên
là phải kiếm cách diệt trừ chúng. Trong thập niên 50, chất diệt
trùng DDT (dichloro diphenyl trichloroethan) vừa mới được tìm
ra, đem lại cho nhân loại một mối hy vọng tràn trề. Người ta
phun thuốc lên rừng núi, ao hồ, ngay cả vào nhà cửa, vườn tược,
làm ô nhiễm đất đai, ruộng nương không ít. Nhưng cũng nhờ vậy
nhiều triệu người đã được cứu vớt. Tuy nhiên khó khăn vẫn tồn
tại : muỗi khôn ngoan biết ngẫu biến để kháng cự lại chất thuốc
diệt trùng. Mặt khác, muốn tiêu diệt được nhiều muỗi cần phải
huy động nhiều nguồn lực, tốn kém ngân quỷ lớn mà như đã thấy,
bệnh phát triển ở các xứ nghèo đói, thêm vào giặc giã, thiên tai
thì lại càng thiếu phương tiện chống đỡ.
Qua những năm 70, lại xuất hiện một chướng ngại khác như thể ông
trời muốn thách thử con người : những ký sinh, P. falciparum,
P. vivax, P. malariae, P. ovale đều kháng cự lại
được các thuốc thường được dùng nhiều nhất, loại 4-amino
quinolein, đứng hàng đầu là chloroquin (tên thương mãi :
Nivaquine). Thuốc nầy chỉ còn hiệu nghiệm chống những ký sinh ở
Bắc Phi, Trung Mỹ nhưng hoàn toàn vô hiệu ở châu Phi, châu Á,
Nam Mỹ (17). Ở những vùng muỗi chỉ kháng cự ít
chloroquin thì có thể dùng amodiaquin hay hỗn hợp
sulfadoxin-pyrimethamin, không thì phải bước qua các thuốc thế
hệ hai như halofantrin hay mefloquin (tên thương mãi Lariam).
Được bắt đầu dùng từ 1984, đắt tiền, liệu thuốc còn hiệu nghiệm
được bao lâu nữa ? Rút cuộc, còn lại môn thuốc cổ điển thời
xưa : quinin. Nó luôn vẫn còn là một vị thuốc mầu nhiệm, thường
được dành cho những trường hợp bệnh nặng. Nhưng quinin cần phải
được tiêm vào tĩnh mạch ở bệnh viện, mà đường sá xa xôi, lắm khi
không có thì giờ chuyên chở bệnh nhân đến nơi. Đó là tình trạng
ở các nước thế giới thứ ba. Vào những năm 1988-1989, bệnh sốt
rét phát triển cực độ. Hoảng hốt trước tình thế nghiêm trọng,
OMS triệu tập cấp tốc hai hội thảo năm 1991 ở Dakar và New
Delhi, một cuộc gặp gỡ tháng tư năm sau ở Brazyl, và gần đây ở
Amsterdam để cùng nhau phát họa một chương trình rộng lớn, hầu
mong giới hạn phá phách của sốt rét, bảo vệ sức khỏe của hàng
triệu nhân sinh.
Chuyên gia các nước đồng ý với
nhau rằng song song với cuộc tìm kiếm thuốc men mới, cần phải tổ
chức những hệ thống giám sát để kê khai những loại bệnh, xác
định cơn dịch ngay từ lúc đầu. Ở mỗi một địa điểm cần yếu phải
có dụng cụ đặc biệt để chẩn đoán (xem xét hình thể schizont,
người ta có thể phân biệt được loại sốt rét) trước khi quyết
định một cuộc trị liệu cấp tốc và thích ứng. Một điều đáng chú ý
là phải chẩn đoán trước khi cho uống bất cứ thuốc gì vì thuốc
tạm thời có thể làm biến mất schizont thì hết còn chẩn đoán
được. Ở các nước có gió mùa, cơn dịch thường bắt đầu vào mùa
mưa, vậy phải phòng ngừa dân cư vùng đó đúng lúc. Ở những nơi mà
bệnh có thể xảy ra thường xuyên, cần phải ngủ trong mùng, nếu có
thể cho tẩm thuốc diệt muỗi như pyrethre, một hoá chất không độc
cho người. Bên Trung Quốc, nhờ kỹ luật khắt khe, số bệnh nhân từ
ba triệu người những năm 80 đã xuống dần 117.000 năm 1990, mặc
dầu một khó khăn khác lại xuất hiện : mùng không thể ngăn chận
được loài Anopheles culcifae hoành hành vào lúc trời chạn
vạn, chưa đến giờ đi ngủ !
Vấn đề môi sinh cũng rất quan trọng. Ở các đồng ruộng, có nước
tất có muỗi. Mà dân quê thì sống quanh đồng ruộng. Đã thấy có đề
nghị thả vi khuẩn hoặc nuôi cá ở đồng ruộng để chúng tiêu diệt
ấu trùng muỗi. Ở Sri Lanka có thí nghiệm tát khô đồng ruộng vài
giờ mỗi ngày để ấu trùng chết đi. Điểm yếu là công lao và thời
giờ bỏ vào đó. Dù sao, những sáng kiến loại nầy có tính cách địa
phương và mỗi vùng, mỗi xứ phải kiếm cách chạy chữa tùy theo khả
năng của mình. Thành thử tường lũy cuối cùng chống cự sốt rét
vẫn là thuốc men. Thường thuốc chữa trị sốt rét gồm có hai
loại : hủy schizont hay diệt gametocyt. Quinin thuộc loại thứ
nhất. Tác dụng của nó rất lanh nhưng chỉ trong thời gian ngắn,
cho nên người ta thường dùng 4-amino quinolein hơn. Những chất
tương tự 8-amino quinolein thuộc loại thứ nhì. Khi cơn sốt hạ
xuống thì phải kiếm cách chữa trị làm sao cho cơn bệnh khỏi tái
phát. Thường người ta trở lại loại thứ nhất hay trộn lẫn với
loại thứ nhì. Nếu bệnh nhân vẫn còn ở trong vùng nhiễm bệnh thì
cần phải thường xuyên tiếp tục uống thuốc loại thứ nhất. Ngay cả
bệnh nhân dời đi ở vùng khác, an toàn hơn, cũng cần tiếp tục
uống thuốc phòng ngừa trong ít lâu nữa.
Trước sự thiếu thốn thuốc men mới lạ, nhiều phòng
thí nghiệm, nhiều cơ quan trên thế giới nỗ lực tìm kiếm một chất
thuốc vừa hiệu nghiệm, vừa rẻ tiền vì dễ chế biến. Thì đây, một
vị thuốc mới đang được nói đến nhiều những năm gần đây : mới vì
cấu tạo khác với các thuốc khác trước đây, từ đấy cơ chế tác
động cũng khác. Đó là một chất từ cây thanh cao,
thanh cao hoa vàng (**), thanh hao, thanh hao hoa
vàng, thanh hảo (2) hay thanh thảo tức hoàng hoa cao
(**) , còn gọi cây ngải (1), ngải
hoa vàng (**) Artemisia annua L, thuộc họ Cúc
Asteraceae hay Compositae. Người Trung Quốc đã có
ghi chép cây nầy để dùng chữa bệnh trĩ lậu trong sách y khoa từ
năm 168 trước công nguyên. Sau đó, nó có mặt trong sách chữa
bệnh cấp biến Trửu hậu bị cấp phương xuất bản năm 340 sau
công nguyên. Tác giả, Cát Hồng, chỉ cách uống nước có ngâm lá
cây thì làm thuyên giảm được nhiệt độ trong cơ thể. Tuy vậy,
cũng phải đợi hơn 1000 năm sau (1596) mới thấy nhà chuyên môn
về cỏ thuốc Lý Thời Trân xác định trong cuốn vật liệu y khoa
Bản thảo cương mục là cây Ginghao bài trừ được cơn nóng lạnh
(3) . Năm 1798, trong cuốn Ôn bệnh điều biện
bắt đầu có đề nghị dùng cây Ginghao sắc uống chữa sốt rét. Ở
Việt Nam cũng có cây thanh hao, lúc trước từng được gọi cây nhân
trầm hay chè nôi. Nó mọc hoang ở các vùng Cao Bằng, Lạng Sơn,
Tuyên Quang, thường được dùng để chữa các bệnh ngoài da, khó
tiêu hóa hay để giúp đàn bà ăn ngon khi mới nằm nơi dậy. Hồi
trước, tên thanh hao cũng còn chỉ vài cây khác cùng họ : thanh
cao rồng A. dracunculus L., thanh cao biển A.
campestris L. hay A. maritima L., thanh cao chỉ A.
capillaris Thunb., thanh cao ấm lầy A. palustris,
thanh cao tay A. subbdigitata Mattf. Đặc biệt một loại
cỏ mọc hoang và được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta, được dùng
để chữa bệnh mệt nhọc, kém ăn, thương hàn, sốt do bệnh phổi, mồ
hôi trộm là cũng được gọi cây thanh cao, thanh hao hay thảo cao
Artemisia apiacea Hance. Một cây thanh cao khác nữa khác họ
là Baecka frutescens L., mọc ở Phúc Yên, Thái Nguyên hay
Nghệ Tĩnh, thường được cho vào chum vại đựng đậu xanh hay quần
áo để tránh sâu bọ cắn hại ; trong dân gian thân cây được dùng
làm chỗi quét nhà nên nó được gọi cây chỗi xuể (*).
Thanh hao là một cây nhỏ, cao vài chục phân,
nhưng cũng có khi lên đến gần hai thước. Năm 1971, các nhà khảo
cứu Trung Quốc dùng ethyl ether từ thân và lá cây
(không có trong rễ) một hóa chất, đem thử thì thấy có tác dụng
lên ký sinh sốt rét Plasmodium berghen. Họ đặt tên cho
chất thuốc là Ginghaosu (QHS) tức là hoạt chất của cây Ginghao
hay, có vẻ hóa học hơn, artemisinin là danh từ nay được quốc tế
dùng. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khảo sát trên 30 loài cây
Artemisia khác mà chẳng thấy cây nào chứa đựng QHS. Những
nhà khảo cứu Hoa Kỳ cũng không tìm ra artesiminin trong các cây
A. dracunculus, A. ludoviciana, A. pontica, A. schmidviana,
A. vulgaris (6). Những nhà sinh lý học Đức nghiên
cứu trên ba loài A. annua, A. apiacea, A. capillaris,
quê gốc đủ nơi, kết quả chỉ thấy có cây A. apiacea mọc ở
Nhật Bản (bên ta có tên thảo cao hay thanh cao ngò) là có hoạt
động chống sốt rét. Bên Mexico, tuy không tìm ra được
artemisinin trong cây, những nhà vi trùng học cũng khám phá ra
được phần chiết của A. ludoviciana mexicana có tính chất
hạ nhiệt, chống trùng Plasmodium yoelii yoelii, với LD50
29,2 mg/kg (20). Mặc dầu ít có chi tiết về cách thức
chế biến từ các phòng thí nghiệm Trung Quốc, ngày nay người ta
biết bên cạnh các dung dịch có thể artemisinin như
rượu, chloroform, aceton, hai dung dịch tương đối dễ dùng và rẻ
tiền là hexan (10) và petroleum ether (30-60°)
(9). Báo chí gần đây có đưa ra tên hai dung dịch
propylenglycol và ethylenglycol, chất sau nầy có thể độc cho cơ
thể. Hóa chất thô được đưa vào cột sắc ký silicagel, dùng hỗn
hợp chloroform-ethylacetat kéo ra một hóa chất ròng hơn (8).
Lại cho vào cyclohexan hay hay rượu 50% thì artemisinin kết tinh
thành hình mũi kim trắng tinh. Năng suất theo các tác
giả Tây phương là 0,06% (7), trong khi các phòng thí
nghiệm Trung Quốc đưa ra con số từ 0,01 đến 0,5%. Thật ra năng
suất nầy còn tùy độ ròng của hóa chất vì artemisinin lẫn lộn
trong cây với một số terpen và dẫn xuất khác như artemisiten,
arteannuin, arteannuic acid, …và càng muốn một artemisinin tinh
khiết thì năng suất lại càng sụt xuống. Thấy năng suất thấp,
các nhà hóa học ở hãng Hoffmann la Roche đã kiếm cách tổng hợp
QHS. Cuộc chế biến nhân tạo nầy khá dài dòng (13 đợt phản ứng)
với một năng suất tổng quát tương đối lớn (5%) so với thành tích
các hóa sư Trung Quốc (0,24%) (11-14). Dù sao, cuộc
nhân tạo tổng hợp nầy chưa đưa ra phát triển trong kỹ nghệ được.
Ở Viện Đại học Buenos Aires một phương cách trồng thanh hao và
sinh học tổng hợp artemisinin mới đã được thực hiện qua phương
pháp cấy mô (18) .
Cấu
tạo của artemisinin là một sesquiterpen lacton, đặc biệt có mang
bên trong một cầu peroxid. Khảo cứu liên quan cấu tạo - hoạt
động, người ta nhận thấy chính cái cầu nầy đã là nòng cốt cho
tính chất chống sốt rét của artemisinin. Thật vậy, đem phá cái
cầu ấy thành deoxy artemisinin thì hoạt tính biến mất. Sau nầy,
những dẫn xuất của artemisinin như dihydro ether, ester,
carbonat được chế biến luôn còn giữ cầu peroxid thì đều là
những thuốc chống sốt rét mãnh liệt hơn cả artemisinin thiên
nhiên. Nói chung, hoạt tính tăng theo thứ tự
artemisinin < dihydro artemisinin < ester <
ether < carbonat
Carbonat ít được dùng vì
khó tổng hợp. Các ester thì phải chế biến ra muối artesunat mới
hòa tan được trong nước. Rút cuộc hai ether được đem thử nhiều
nhất là artemether tức methyl ether (Trung Hoa) và arteether tức
ethyl ether (chương trình Liên Hiệp Quốc UNDP). Dựa vào tính
chất hoạt động của cầu peroxid, có phòng thí nghiệm đã tổng hợp
những hoá chất 1,2,4-trioxan (nghĩa là một phân tử artemisinin
không có vòng lacton trong ấy cầu peroxid gồm có hai nguyên tử
oxi vẫn còn nằm trong một vòng đã có mang một oxi khác), nhưng
kết quả là chỉ có một số nhỏ có ít nhiều hoạt tính chống sốt rét
(14,16).
Trong hầu hết các cuộc khảo cứu, artemisinin và
các dẫn xuất đều là thuốc thuộc loại thứ nhất nghĩa là hủy
schizont. Tuy vậy, cũng có công tác chứng minh QHS là một chất
diệt gametocyt (5), chống ký sinh Plasmodium
cynomolgi B trong muỗi Anopheles stephensi. So với
chloroquin thì các chất artemisinin, artemether, arteether có
nửa liều gây chết LD50 tuơng đối lớn hơn. Các thuốc
nầy đã được đưa đem thử nghiệm lâm sàng đầu tiên bên Trung Quốc
từ những năm đầu thập niên 80, sau đó khắp Đông Nam Á : Myanmar
(1987), Ấn Độ (1989), Thái Lan (1991). Theo bà Vũ Thị Phan trong
một bản báo cáo năm 1990 của Chương trình chống Sốt rét, thì
Việt Nam đã artemisinin và chế tạo artemisunat để
chữa trị sự nhiễm trùng của P. falciparum và P. vivax
kết hợp với những thuốc kháng sinh như tetracyclin, hay
doxycyclin (26).
Một tài liệu khác (1990) cho biết ở Bệnh viện Chợ Quán,
artemisinin đã được đem so sánh với quinin. Trong khi 30 bệnh
nhân uống quinin, 32 bệnh nhân khác được cho artemisinin đút vào
hậu môn, vì qua hình thức nầy thuốc dễ dùng và hiệu nghiệm hơn,
ngoài ra ít thấy có tác dụng phụ. Kết quả rất khả quan. Các bác
sĩ cộng tác trong chương trình nầy còn xác nhận nếu được cho
dùng phòng ngừa hoặc ngay lúc bệnh vừa mới phát giác thì thế nào
cũng giảm hạ được bệnh trạng và số tử vong (15). Ba
năm sau, trong một thử nghiệm lâm sàng, với 638 bệnh nhân, dùng
thuốc uống artemisinin cho thấy trong vòng 24 tiếng 98% ký sinh
trùng sốt rét biến mât. Một thử nghiệm khác vào năm 1999 cho
thấy kết quả tốt nhất là dùng artemisinin và sau đó quinin trong
3 hay 5 ngày (2).
Những năm sau nầy, thanh hao còn được khảo cứu
sâu rộng hơn. Ngoài vấn đề chống sốt rét, thanh hao qua một phấn
chiết với ethylacetat và butyl alcool có tính chất sát trùng với
qinghao acid, chống viêm với scopoletin (17). Tinh
dầu thanh hao gồm có (%) camphor (44), germacren D (16),
t-pinocarveol (11), b-selinen
(9), b-carophyllen (9),
artemisia ceton (3) có tính chất phản oxi hóa, chống những trùng
Enterococcus hirac (27), Schistosoma
japonicum, Toxoplasma gondii (21). Artemisinin
cũng như deoxy artemisinin, dihydro epideoxy arteannuin ức chế
cuộc phát khởi u khối (25,28). Artesunat, ngoài tính
chất miễn dịch, được đề nghị dùng làm thuốc chống ung thư
(23,24). Đem thử trên chuột cho thấy artemether có khả
năng chống trùng Schistosoma mansoni, ngăn cản nó đột
nhập vào da (22). Những kết quả ban đầu nầy hé mở một
tương lai rộng lớn của khả năng thanh hao. Rồi đây những khảo
cứu cấu tạo - hoạt động sẽ cống hiến nhiều hoạt chất khác với
những tính chất mới lạ. Những thành phần của cây absinthin,
anabsinthin, thujon đã được tìm ra là đồng thời những tính chất
kháng sinh, kháng nấm, kháng oxy hóa, chống độc tố, diệt giun ký
sinh, kích thích tình dục, làm toát mồ hôi ngoài việc điều chế
các rượu absinthe, vermuth (1).
Mấy năm trước, về thăm Việt Nam, tôi có được nghe
nói nhiều đến chuyện sản xuất artemisinin. Nước ta cần thuốc để
chữa trị sốt rét thì sản xuất là chuyện tất nhiên. Muốn đem bán
ra nước ngoài lại là một vấn đề khác. Như đã thấy, cần phải có
một chất thuốc thật ròng nghĩa là phải bỏ nhiều công của, buộc
phải tính lợi hại. Thêm vào đó phải kể đến những văn bằng sáng
chế quốc tế trong số ấy Trung Quốc chiếm phần lớn. Ngoài ra,
cũng phải nghĩ đến chuyện ngẫu biến của muỗi và không biết
artemisinin sẽ công hiệu đến ngày nào. Cần chăng nên chuẩn bị
một chất thuốc khác, may ra ta có được chút ưu tiên… Bên ta có
cây trường sơn Dichroa febrifuga Lour., thuộc họ Thường
sơn Saxifragaceae, mà hoạt chất dichroin hay febrifugin
có khả năng vượt quá quinin 100 lần ! Và nhiều cây khác như dây
ký ninh Tinospora crispa (L.) Miers, cây sừng bò
Streptocaulon juventas (Lour.) Merr., cỏ vườn trầu
Eleusine indica (L.) Gaertn, những cây thăng ma
Cimicifugae L., …
Thông tin Khoa học và Công nghê (3) (1995) 59-66,
có bổ sung tài liệu.
Tham khảo
(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội (1986) 647-8
(**) Lê Trần Đức, Cây
thuốc Việt Nam, nxb Nông nghiệp, Hà Nội (1997) 217-8
Tổng luận
(1) Chu
Hữu Tín, Cây ngải (Artemisia annua L.),
Khoahoc@doisong
(13.07.2006)
(2) Nguyễn Đức Hiệp, Dược thảo huyền diệu : Thanh hảo và bệnh
sốt rét, Diễn Đàn 164 (7.2006) 23-4 dẫn
những bài
-Nguyen D.S., Dao B.H., Nguyen
P.D., Nguyen V.H., Le N.B., Mai V.S., Meshnick S.R.,
Treatment of malaria in Vietnam with oral artemisinin,
Am. J. Trop. Med. Hyg. 48 (1993) 852-3 ;
-Peter J. de Vries, Nguyen
Ngoc Bich, Huynh Van Thien, Le Ngo Hung, Trinh Kim Anh, Piet A.
Kager, Siem H. Heisterkamp, Combinations of artemisinin and
quinine for uncomplicated Falcium malaria : efficacity and
pharmacodynamics, Antimicrobial Agents and Chemotherapy
(5) 44 (2000) 1302-8
Đại
cương
3- D.L. Klayman, Qinghaosu
(artemisinin) : an antimalarial drug from China, Science
(4703) 228 (1985) 1049-55
4- X.D. Luo, C.C. Shen, The
chemistry, pharmacology, and clinical applications of qinghaosu
(artemisinin) and its derivatives, Med. Res. Rev. (1)
7 (1987) 29-52
5- G.P. Dutta, R. Bajpai, R.A.
Vishwakarma, Artemisinin (Qinghaosu) – a new gametocytocidal
drug for malaria, Chemother.35 (1989) 200-7
6- P.I. Trigg, Qinghaosu
(artemisinin) as an antimalarial drug, Econ. Med. Plant
Res. 3 (1989) 20-55
Chiết suất
7- D.L. Klayman, A.J. Lin, N.
Action, J.P. Scovill, J.M. Hoch, W.K. Milhous, A.D. Theoharides,
Isolation of artemisinin (qinghaosu) from Artemisia annua
growing in the United States, J. Nat. Prod. (4) 47
(1984) 715-7
8- N. Action, D.L. Klayman,
I.J. Rollman, Isolation of artemisinin (qinghaosu) and its
preparation from artemisitene using the Ito miltilayer coil
separator-extrector and isolation of arteannuin B, J.
Chrom. 355 (1986) 448-50
9- R.J. Roth, N. Action,
The isolation of sesquiterpens from Artemisia annua, J.
Chem. Edu.(4) 66 (1989) 349-50
10- H.N. ElSohly, E.M. Croom
Jr., F.S. El-Feraly, M.M. El-Sherei, A large-scale extraction
technique of artemisinin from Artemisia annua, J. Nat.
Prod. (6) 53 (1990) 1560-4
Nhân tạo tổng hợp
11- G. Schmid, W. Hofheinz,
Total synthesis of qinghaosu, J. Amer. Chem. Soc.
105 (1983) 624-5
12- X.X. Xu, J. Zhu, D.Z.
Huang, W.S. Wei, Total synthesis of arteannuin and
deoxyarteannuin, Tetrahedron (3) 42 (1986)
819-28
13- M.A. Avery,
C.Jennings-White, W.K.M. Chong, The total synthesis of (+)-
artemisinin and (+)-9-desmethylartemisinin, Tetr.Lett.
(40) 28 (1987) 4629-32
14- S.S. Zaman, R.P. Sharma,
Some aspects of the chemistry and biological activity of
artemisimin and related antimalarials, Heterocycles
(8) 32 (1991) 1593-638
Ứng dụng
15- A. Keith, Tran Tinh Hien,
Nguyen Tran Chinh, Nguyen Hoan Phu, Pham Phuong Mai, A
randomized comparative study of artemisinine (qinghaosu)
suppositories and oral quinine in acute falciparum malaria,
Trans. Roy. Soc. Trop. Med. Hyg. 84 (1990) 499-502
16- W. Peters, B.L. Robinson,
J.C. Rossier, C.W. Jefford, The chemotherapy of rodent
malaria. XLVIII. The activities of some synthetic
1,2,4-trioxanes against chloroquine-sensitive and
chloroquine-resistant parasite. Part 1 : Studies leading to the
development of novel cis-fused cyclopenteno derivatives,
Ann. Trop. Med. Paras.(1) 87 (1993) 1-7
17- L. Huang, J.F. Liu , L.X.
Liu, D.F. Li, Y . Zhang, N.Z. Nui, H.Y. Song, C.Y. Zhang,
Antipyretic and anti-inflammatory effects of Artemisia annua L.,China
J. Chinese materia medica (1) 18 (1993) 44-8, 63-4
18- N.B. Paniego, A.E.
Maligne, A.M. Giulietti, Artemisia annua (qing-hao) : in
vitro culture and the production of artemisinin, Biotech.
Agric. Fores.24 (1993) 64-78
19- N.J. White, The
treatment of malaria, New Eng. J. Med.(11) 335
(1996) 800-6
20- F. Malagon, J. Vasquez, G.
Delgado, A. Ruiz, Antimalaric effect of an alcoholic extract
of Artimisia ludoviciana mexica in a rodent malaria model,
Parasitologia (1) 39 (1997) 3-7
21- Y. Li, Y.L. Wu,
How Chinese scientists discovered qinghaosu
(artemisinin) and developed its derivatives ?
What are the future perspective ?
, Med. Trop. : revue du Corpsde Santé colonial
58 (3 suppl.)
(1998) 9-12
22- X. Shuhua, J. Chollet,
N.A. Weiss, R.N. Bergquist, M. Tanner, Preventive effect of
artemether in experimental animals infected with Schistomosa
mansoni, Parasitol. Inter. (1) 49 (2000) 19-24
23- Q. Wang, L.M. Wu, A.Y. Li,
Y. Zhao, N.P. Wang, Experimental studies of antitumor effect
of artesunate on liver cancer, China J. Chinese materia
medica (10) 26 (2001) 707-8
24- T. Efferth, H. Dunstan, A.
Sauerbrey, H. Miyachi, C.R. Chitambar, The anti-malarial
artesunate is also active against cancer, Int. J. Oncol.
(4) 18 (2001) 767-73
25- P.C. Dias, M.A. Foglio, A.
Possenti, D.C. Nogueira, J.E. de Carvalho, Antiulcerogenic
activity of crude ethanol extract and some fractions obtained
from aerial parts of Artemisia annua L., Phytoth.Res. :
PTR (8) 15 (2001) 670-5
26- Phan Vu Thi,
Artemisinine and artesunate in the treatment of malaria in
Vietnam (1984-1999), Bull. Soc. Path. exot.(1990) (2)
95 (2002) 86-8
27- F. Juteau, V. Masotti,
J.M. Bessiere, M. Dherbomez, J. Viano, Aintibacterial and
antioxidant activities of Artemisia annua essential oil,
Fitoterapia (6) 73 (2002) 532-5
28- M.A. Foglio, P.C. Dias, M.A. Antonio, A. Possenti, R.A.F.
Rodrigues, E.F. da Silva, 26.
Rehder, J.E. de Carvalho, Antiulcerogenic
activity of some sesquiterpene lactones isolated from Artemisia
annua, Planta medica (6) 68 (2002) 515-8
|