Vào ngày 13 tháng Mười, tờ New York Times đăng một tin
nhan đề “Cánh cửa đã mở cho các phúc lợi y tế liên quan đến chất độc da
cam“, tin này chắc chắn là tốt đối với các cựu binh Mỹ từng tham dự cuộc
chiến tranh Đông Dương. Bài báo này tường thuật rằng mãi đến 38 năm sau
khi Bộ Quốc phòng Mỹ ngừng rải chất khai quang diệt cỏ có pha chất
dioxin cực độc trên nhiều vùng ở miền Nam Việt Nam, Bộ mới thừa nhận
những gì các cựu binh Mỹ đã tuyên bố từ lâu: thêm vào 13 căn bệnh đã
được xác định trước đây là do bị nhiễm chất hoá học này gây ra, Bộ cũng
chịu trách nhiệm thêm ba bệnh nữa đáng sợ hơn, đó là bệnh Parkinson,
bệnh tim do thiếu máu (ischemic heart disease), và bệnh bạch cầu tế bào
đa mao (hairy- cell leukemia).
Theo một chính sách mới đã được Bộ Cựu Chiến binh Mỹ chấp nhận, mà qua
đó, Bộ này sẽ bắt đầu từ bây giờ cung cấp sự giúp đỡ y tế miễn phí cho
bất kỳ ai, nằm trong số 2.1 triệu cựu binh Mỹ đã tham chiến tại Việt
Nam, nếu họ có thể chứng minh rằng họ có thể đã bị bệnh do nhiễm chất
độc da cam.
Đây là một bước tiến muộn màng nữa trong cuộc tranh đấu kéo dài hàng
chục năm của các cựu binh Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam để buộc Bộ Quốc
phòng và Bộ Cựu Chiến binh phải thừa nhận trách nhiệm của chính phủ Mỹ
vì đã làm họ bị nhiễm độc và từ đó gây ra những tổn thuơng vĩnh viễn cho
bản thân họ và thường là cho con cháu của họ. Là một trong các loại chất
cực độc mà con người từng biết đến, dioxin là chất được biết đã gây ra
nhiều bệnh ảnh hưởng đến toàn cơ thể (systemic disease) khá nguy hiểm,
bệnh rối loạn miễn dịch (autoimmune illnesses), ung thư và khuyết tật
bẩm sinh. (Đây cũng là lời cảnh báo về cách giải quyết nói chung của
Chính phủ và Bộ Quốc phòng về các mối hiểm nguy khác sinh ra từ việc họ
sử dụng các chất độc trên chiến trường – đáng kể nhất là việc sử dụng
ngày càng phổ biến về các vật phóng (projectiles) có chất depleted
uranium trong bom, trong đạn đại bác và đạn thường – một cách giải quyết
bộc lộ rõ ràng sự thiếu quan tâm đến các ảnh hưởng về sức khỏe đối với
lính và dân thường, không cung cấp thông tin cho lính, và từ chối cung
cấp sự giúp đỡ về y tế cho những nạn nhân sau cùng.)
Tuy bài báo trên của phóng viên James Dao, người chuyên viết về các vấn
đề quân đội, có nhắc đến vai trò trì hoãn mà Chính phủ đã đóng trong
suốt câu chuyện trường thiên đáng tiếc này nhưng chẳng có, dù chỉ một
lời nào, nhắc đến số nạn nhân còn lớn hơn rất nhiều của chất độc da cam
tại Việt Nam, những con người đã hứng trọn trên đầu và trên đất của họ
chất hoá học độc hại đã thật sự rải xuống trong thời chiến này, hay cũng
chẳng nhắc đến việc Chính phủ cương quyết từ chối nhận bất kỳ trách
nhiệm nào cho những hậu quả do chính mình gây ra.
Theo bài báo trên, Bộ Cựu Chiến binh ước tính rằng có đến 200 ngàn cựu
binh Mỹ đang bị những bệnh có liên quan đến chất độc da cam. Nhưng theo
một vụ kiện thay mặt cho những nạn nhân người Việt, đã bị một chánh án
liên bang bác đơn khi ông phán quyết rằng “vụ kiện không có cơ sở”, thì
có ít nhất ba triệu người Việt, và có thể có đến 4.8 triệu người cũng
đang bị cùng những bệnh giống như các bệnh mà các cựu binh Mỹ và con cái
họ đang mắc phải. Người ta ước tính rằng có đến 800 ngàn người Việt ở
miền Nam Việt Nam hiện đang gánh chịu những vấn đề về sức khỏe kinh niên
gây ra do bị nhiễm chất độc da cam, hoặc do bản thân bị nhiễm hay do cha
mẹ hoặc ông bà truyền qua. Đa phần những nạn nhân này, người thì bị chậm
phát triển, kẻ thì không đi lại được hay cả hai tay đều bị tàn phế, đều
cần được săn sóc thường xuyên.
Tổ chức Veterans For Peace, với một số lớn hội viên là cựu binh thời
chiến tranh Việt Nam, đã phát ra lời kêu gọi Mỹ hãy cung cấp tài chính
cho các chương trình y tế, giáo dục, giáo dục hướng nghiệp, săn sóc lâu
dài, săn sóc tại nhà, và thiết bị dùng để dọn sạch các điểm nóng về
dioxin tại Việt Nam -lời kêu gọi mà Quốc hội và tòa Bạch Ốc thường xuyên
bỏ qua. Các cuộc xét nghiệm bên ngoài vành đai ba căn cứ Mỹ chính trước
đây ở miền Nam Việt Nam đã phát hiện mức độ dioxin cao từ 300 đến 400
lần mức độ an toàn cho phép. Mỹ đã trút xuống những số lượng rất lớn
chất độc da cam trải dài đến mấy dặm bao quanh các căn cứ này nhằm khai
quang sạch rừng rậm mà các binh lính cộng sản người Việt có thể lợi dụng
để tiếp cận các căn cứ, nhưng khi Mỹ rút đi thì những nơi bị rải thuốc
này không bao giờ được dọn sạch.
Một tổ chức khác, gồm một số cựu binh Mỹ, trong số họ có người từng là
bác sĩ quân y hay là từng là lính trước khi trở thành bác sĩ, là Hội
Vietnam Friendship Village Project USA Inc, hiện quyên góp tiền để giúp
lập ra những cộng đồng ở Việt Nam để săn sóc cho nạn nhân chất độc da
cam.
Tưởng chừng như là môt vết đâm đau đớn vào nguyên tắc chuẩn mực thời
chiến khi ta nghĩ đến việc Mỹ dùng hai quả bom nguyên tử vào các mục
tiêu dân sự ở Nhật một vài năm sau đó, nhưng trước đó trong Thế chiến
thứ Hai, ngay giữa cuộc chiến tàn bạo nhất để giành từng hòn đảo trong
cuộc chiến Thái Bình Dương, một cố vấn về pháp lý trong Bộ Quốc phòng Mỹ
đã phán quyết rằng yêu cầu của quân đội xin phép được sử dụng thuốc diệt
cỏ dại nhằm chống lại người Nhật trên các đảo Thái Bình Dương sẽ bị xem
là bất hợp pháp, chiếu theo Công ước Hague (tiền thân của Công ước
Geneva ngày nay). Ông phán quyết rằng hành động cố gắng hủy diệt những
vụ mùa của dân thường trên các đảo này nhằm cắt đứt nguồn lương thực của
quân Nhật sẽ bị coi như là tội ác chống lại nhân loại. Nhưng Mỹ vẫn xúc
tiến việc sử dụng thuốc diệt cỏ dại, lập luận rằng cho dù việc làm này
là bất hợp pháp, Mỹ vẫn có quyền tự do hành động vì người Nhật đã vi
phạm luật chiến tranh trước, khi họ dùng chất độc Strychnine để giết các
đội chó bảo vệ trong quân đội tại Siberia. Theo các luật lệ trong chiến
tranh, nếu một bên phá luật, bên kia không còn bị luật ràng buộc nữa.
Nhưng Việt Cộng và quân đội Bắc Việt đã không bao giờ sử dụng các chất
độc để chống lại quân đội Mỹ hay chống lại quân đội Cộng hòa miền Nam.
Và trong chiến tranh Việt Nam, Bộ Quốc phòng Mỹ thậm chí không bao giờ
xem xét rằng việc phun thuốc diệt cỏ dại rất độc trên diện tích hơn 1.4
héc ta, 12% tổng diện tích đất của Việt Nam và gần như 25% diện tích đất
của miền Nam Việt Nam, có thể xem là tội ác chống lại nhân loại.
Hơn nữa, trước khi bắt đầu chiến dịch khai quang rộng lớn trên, Bộ Quốc
phòng Mỹ đã biết về các cuộc nghiên cứu xác định rằng chất độc da cam có
pha nhiều chất dioxin rất độc, song vẫn giấu kín các nghiên cứu này,
trong đó có các nghiên cứu của các công ty hoá chất như Dow Chemical và
Monsanto, và thậm chí không bao giờ báo cho những người lính vốn tiếp
xúc hàng ngày với chất này để đề phòng, hay báo cho những người lính
được phái đến để đánh nhau trong các vùng đã bị rải đầy thuốc.
Thảm họa y khoa đang diễn ra tại Việt Nam ngày nay, gây ra do Mỹ sử dụng
bất hợp pháp chất độc da cam nhằm khai quang cả một quốc gia, có thể là
một dịp tốt cho Tổng thống Obama bắt đầu chứng tỏ giá trị Giải Nobel Hòa
bình mà ông mới được trao tặng. Ông có thể bắt đầu chiến dịch hoà bình
của mình bằng cách cuối cùng tôn trọng lời hứa, mà đã bị bội hứa ngay
lập tức, của Tổng thống Richard Nixon, lúc kết thúc các cuộc hoà đàm vào
cuối cuộc chiến, để giúp viện trợ hàng tỷ đô la tái thiết cho Việt Nam.
Không có một đô la viện trợ nào như đã hứa được trao.
Phóng viên Dao cho biết ông đã không đề cập đến ý nghĩa đối với các nạn
nhân dioxin người Việt Nam khi đưa tin về quyết định của Bộ Cựu Chiến
binh thừa nhận thêm ba căn bệnh mới có liên quan đến chất độc da cam,
bởi vì “tôi chỉ chuyên viết bài về tin cựu binh Mỹ”, và vì ông chỉ đưọc
viết bản tin trong 800 từ. Điều này có thể đúng (mặc dù rõ ràng người
Việt Nam ít ra cũng được đáng nhắc đến trong bài, dù chỉ một câu). Nhưng
trước đó vào ngày 25 tháng Bảy, cũng tờ New York Times khi đăng bài (do
Janie Lorber viết, chứ không phải do Dao) về sự khám phá của một ban
chuyên gia thuộc viện y khoa quốc gia về mối liên hệ giữa bệnh
Parkinson, bệnh tim do thiếu máu (ischemic heart disease), và bệnh bạch
cầu với chất độc da cam, cũng không nhắc đến các nạn nhân người Việt.
Trong trường hợp này, về mặt báo chí, sự vô tâm này khó mà tha thứ được,
vì đây là bài viết về khám phá mới trong y khoa, chứ không phải bài về
quyết định chính sách liên quan đến phúc lợi y tế dành cho các cựu binh
Mỹ.
Ngay từ bây giờ, cách duy nhất để tờ New York Times có thể vớt vát một
chút danh tiếng báo chí của mình về chủ đề này là yêu cầu các phóng viên
Dao, Lorbe, và các phóng viên khác viết một bài về tác động chất độc da
cam do Mỹ sử dụng đối với nhân dân Việt Nam. Họ có thể bắt đầu bằng việc
gọi điện đến một cựu binh Mỹ ở các Hội Veterans For Peace và Vietnam
Friendship Village Project USA.
Nguồn: Dave Lindorff, “Agent Orange in Vietnam: Ignoring the crimes
before our eyes”, The Huffington Post, 17/10/2009. Tác giả đã chấp thuận
cho người dịch dịch sang tiếng Việt và có giúp người dịch hiểu rõ một
câu trong bài. Chân thành cảm ơn tác giả.
Bản tiếng Việt © 2009 Trần Quốc Việt
http://www.talawas.org/?p=12020 |
On Oct. 13, the New York Times ran a news story headlined "Door
Opens to Health Claims Tied to Agent Orange," which was sure to be
good news to many American veterans of the Indochina War. It reported
that 38 years after the Pentagon ceased spreading the deadly
dioxin-laced herbicide/defoliant over much of South Vietnam, it was
acknowledging what veterans have long claimed: in addition to 13
ailments already traced to exposure to the chemical, it was also
responsible for three more dread diseases -- Parkinson's, ischemic heart
disease and hairy-cell leukemia. Under a new policy adopted by the
Dept. of Veterans Affairs, the VA will now start providing free care to
any of the 2.1 million Vietnam-era veterans who can show that they might
have been hurt by exposure to Agent Orange.
This is another belated step forward in the decades-long struggle by
Vietnam War veterans to get the Defense Department and the VA to
acknowledge the American government's responsibility for poisoning them
and causing permanent damage to them and often to their children and
grandchildren. Dioxin, one of the most poisonous substances known to
man, is known to cause many serious systemic diseases, autoimmune
illnesses, cancers and birth defects. (It is also a warning about the
general Pentagon and government approach to other hazards caused by its
battlefield use of toxins -- most significantly the increasingly common
use of depleted uranium projectiles in bombs, shells and bullets -- an
approach which features lack of concern about health effects on troops
and civilians, denial of information to troops, and denial of care to
eventual victims.)
Missing from the Times article, written by military affairs
reporter James Dao, which did include mention of the obstructionist role
the government has played through this whole sorry saga, was a single
mention of the far larger number of victims of Agent Orange in Vietnam
-- the people on whose heads and lands the toxic chemical was actually
dropped, or of the adamant refusal by the US government to accept any
responsibility for what it did to them.
According to the article, the VA estimates that there may be as many
as 200,000 US veterans who are suffering from Agent Orange-related
illnesses. But according to a court case brought on behalf of Vietnamese
victims, which was dismissed by a US Federal District Judge who ruled
that there was "no basis for the claims," there are at least three
million Vietnamese, and possibly as many as 4.8 million, who are
suffering the same Agent Orange-related illnesses as American veterans
and their children. It is estimated that as many as 800,000 Vietnamese
in the country's south currently suffer from chronic health problems due
to Agent Orange exposure, either to themselves, or to a parent or
grandparent. Most of these victims, some of whom are retarded, and
others of whom cannot walk or have no use of their arms, need constant
care.
Veterans for Peace, an organization whose membership includes a large
number of Vietnam War veterans, has issued a call for the US to provide
funds for health care, education, vocational education, chronic care,
home care and equipment to clean up hotspots of dioxin in Vietnam -- a
call which Congress and the White House have consistently ignored. Tests
have found dioxin levels around the sites of the three main former US
bases in what was South Vietnam to be 300-400 times recognized safe
levels. The US dumped huge amounts of Agent Orange for miles around
those bases to kill off jungle cover that Vietnamese fighters could use
to approach the bases, but it was never cleaned up when the US pulled
out.
One organization that includes a number of American veterans,
including former military doctors or soldiers who later became
physicians, is the Vietnam Friendship Village Project USA Inc., which
raises funds to help establish communities in Vietnam to care for the
victims of Agent Orange.
It may seem a pathetic stab at principle given America's use of two
nuclear weapons against civilian targets in Japan a few years later, but
back in World War II, in the midst of the most brutal island-to-island
fighting during the Pacific War, a US Judge Advocate General in the
Pentagon ruled that a military request for permission to use herbicides
against the Japanese on Pacific islands would be illegal under the Hague
Convention (forerunner of what are now called the Geneva Conventions).
He ruled that trying to destroy the crops of civilians on those islands
to deny food to the Japanese troops would be a war crime. The US went
ahead and used the herbicides anyway, arguing that even though it was
illegal, the US was free to go ahead, since the Japanese had already
broken the laws of war by using strychnine to kill military guard dogs
in Siberia. Under the rules of war, if one side breaks a rule, the other
side is no longer bound by it.
But the Viet Cong and North Vietnamese never used toxic materials
against US forces or against South Vietnamese forces. And the Pentagon
in the Vietnam War never even considered whether spraying a highly toxic
herbicide over 1.4 million hectares--12% of the total land area of
Vietnam and almost 25% of the southern half of the country -- might be a
war crime.
Moreover, the Pentagon knew, before it began its massive defoliation
campaign, about studies showing that Agent Orange was heavily laced with
deadly dioxin, but covered up those studies, some by the chemical's
makers, Dow Chemical and Monsanto, and never even warned the troops who
handled the material daily, or who were sent out to fight in areas that
had been heavily sprayed.
The ongoing medical disaster in Vietnam caused by America's criminal
use of Agent Orange to defoliate a nation would be a good place for
President Obama to start earning his just-awarded Nobel Peace Prize. He
could kick off his peace campaign by finally honoring President Richard
Nixon's immediately broken promise to provide several billion dollars in
reconstruction aid to Vietnam at the conclusion of peace talks at the
end of the war. Not a dollar of such aid was ever given.
Dao says he didn't mention significance for Vietnamese dioxin victims
of the VA's decision to recognize three new diseases as being Agent
Orange-linked, because "my beat is veterans," and because he only had
800 words in which to cover his story. That may be true (though surely
the Vietnamese at least deserved a one-sentence mention). But back on
July 25, when the Times ran a story (by Janie Lorber, not by
Dao) about the finding by an expert panel of the National Institute of
Medicine linking Parkinsons, ischemic heart disease and leukemia to
Agent Orange, upon which the latest VA decision was based, it also
failed to mention the Vietnamese victims. In that case, the lapse was
simply journalistically inexcusable, since it was about a new medical
finding, not a policy decision regarding the treatment of veterans.
At this point, the only way theNew York Times can salvage a
bit of its journalistic reputation on this topic would be by having Dao,
Lorber or some other reporter write a piece about the impact of
America's Agent Orange use on the people of Vietnam. They could start by
calling a veteran at Veterans for Peace or the Vietnam Friendship
Village Project USA.
Read more at:
http://www.huffingtonpost.com/dave-lindorff/agent-orange-in-vietnam-i_b_322482.html |