Dioxin, Việt Nam, và Mĩ: giữa tình cảm và khoa học

Vietsciences- Nguyễn Văn Tuấn     07/12/2006
 

Những bài cùng chủ đề

Những bài cùng tác giả

Chất màu da cam (hay thường được biết đến bằng tên “Agent Orange”) và dioxin [1] có một mối quan hệ với Việt Nam và Mĩ trong hơn bốn thập niên qua.  Ngày 20 tháng 11 năm 1961, Tổng thống Kennedy phê chuẩn một quyết định cho quân đội Mĩ tiến hành chiến dịch Ranch Hand để khai hoang đồng cỏ Việt Nam [2].  Quyết định này nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng dè dặt và phản đối của các nhân vật cao cấp từ Bộ Ngoại giao Mĩ như Roger Hilsman và W. Averell Harriman.  Nhưng chiến dịch vẫn được thi hành.  Mục đích chính của chiến dịch là làm cho quân đội đối phương (cộng sản) không còn cây xanh để trú ẩn.  Trong thời gian mười năm (tính từ 1962 đến 1971), quân đội Mĩ đã rải xuống Việt Nam khoảng 19 triệu gallons (tức khoảng 71.9 triệu lít) thuốc khai hoang, trong đó có 11 triệu gallons (hay 41.6 triệu lít) chất màu da cam [3].  Với 11 triệu gallons chất màu da cam, người ta đoán rằng có chứa khoảng 368 pounds (tức 167 kg) dioxin [4].   Tổng diện tích mà quân đội Mĩ đã rải là 1.5 triệu hectares, tức gần 10% diện tích của miền nam Việt Nam, trong đó có nhiều vùng bị rải hơn 4 lần.  Theo báo cáo chính thức của Chiến dịch Ranch Hand, kết quả là quân đội Mĩ đã phá hủy khoảng 14% diện tích rừng nam Việt Nam, kể cả 50% các rừng đước [5].

Có thể nói câu chuyện dioxin và chất màu da cam trồi sụt theo sự thăng trầm trong mối quan hệ ngoại giao giữa Mĩ và Việt Nam.  Sau chiến tranh, cựu quân nhân Mĩ từng tham gia vào chiến dịch Ranch Hand phàn nàn về tình trạng sức khoẻ của họ.  Một số con của họ sinh ra với dị tật, và dioxins bị tình nghi là thủ phạm.  Tiếp sau đó là một loạt nghiên cứu, trong đó có một nghiên cứu qui mô trên hơn 2000 cựu quân nhân Mĩ, để xác định mối quan hệ giữa dioxins và bệnh tật.  Qua hơn 20 năm nghiên cứu, các nhà khoa học Mĩ đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng dioxins gây ra ung thư tế bào mềm (Soft-tissue sarcoma), Non-Hodgkin's lymphoma, bệnh Hodgkin, và ban clor (chloracne).  Nhưng họ vẫn chưa có đủ bằng chứng để phát biểu một cách dứt khoát về ảnh hưởng của dioxins đến các bệnh khác như dị tật, dị thai, ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer), tiểu đường, một số bệnh thần kinh cấp tính, bệnh nứt đốt sống (spina bifida), các bệnh thuộc hệ thống nội tiết và tiêu hóa (như loét, thay đổi enzyme của gan, bất bình thường lipid), các chứng miễn nhiễm, bệnh tim, bệnh đường hô hấp, và ung thư da [6].  Nói tóm lại, họ cần có thêm dữ kiện khoa học.

Về phía Việt Nam, sau năm 1975, giới y tế Việt Nam cũng ghi nhận một số trường hợp dị tật bẩm sinh, và ung thư trong cư dân thuộc các vùng từng bị rải chất màu da cam trong thời chiến tranh.  Tuy nhiên, vì cách thu thập dữ kiện chưa được hệ thống, và phương pháp nghiên cứu cũng như xử lí số liệu chưa phù hợp với các tiêu chuẩn khoa học, nên những phát hiện này không được thế giới chú ý.  Dù dữ kiện còn hạn chế, chính phủ Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng gián tiếp yêu cầu Mĩ nên có trách nhiệm với những người mà họ cho là nạn nhân của dioxin.  Phía Mĩ không từ chối trách nhiệm, nhưng họ cho rằng cần phải có đầy đủ dữ kiện khoa học thì mới có thể có chương trình hành động.  Ngay cả trong giới cựu quân nhân Mĩ, chỉ khoảng 7% cựu quân nhân đòi bồi thường [về thiệt hại sức khoẻ do dioxin gây ra] được chính phủ đồng ý trợ cấp; phần 93% còn lại không được công nhận để giúp đỡ tài chính.

 

Nhu cầu cho một Hội nghị Việt – Mĩ

Tình trạng qua lại về trách nhiệm và bằng chứng dằng dai mãi cho đến khi Mĩ và Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao.  Sau năm 1995, hai bên đã từng gặp nhau và thảo luận phương cách để giải quyết vấn đề.  Trong lần họp mặt ở Singapore vào năm 2001, hai phái đoàn Việt Nam và Mĩ đồng ý tổ chức một hội nghị khoa học vào năm 2002. 

Theo thỏa thuận trên, ngày 3 Tháng Ba vừa qua, Hội nghị Khoa học Việt – Mĩ về ảnh hưởng của Chất màu da cam (Agent Orange) dioxin trong sức khỏe con người được diễn ra tại Hà Nội.  Hội nghị được tiến hành trong 3 ngày, nhưng một số bàn thảo ngoài chương trình Hội nghị vẫn tiếp diễn vài ngày sau đó.  Đây là một Hội nghị có tính lịch sử, được sự bảo trợ của Viện Khoa học Môi trường và Sức khỏe Quốc gia (National Institute of Environmental Health Sciences, Mĩ) và Bộ Y tế (Việt Nam).   Gần 300 nhà khoa học Việt Nam, và 120 nhà khoa học từ Mĩ, Úc, Canada, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Tân Gia Ba, Thụy Điển, Nga, Lào, Tân Tây Lan, Na Uy, Hàn Quốc, và Đài Loan tham dự Hội nghị.

Mục đích chính của Hội nghị là tạo cơ hội để các nhà khoa học trên thế giới trình bày những kết quả nghiên cứu của mình, và tạo điều kiện để trao đổi ý kiến xung quanh vấn đề ảnh hưởng của dioxin và chất màu da cam trong sức khoẻ con người.  Những bệnh mà các nhà khoa học đặc biệt quan tâm là ung thư, dị tật bẩm sinh, và các chứng bệnh liên quan đến hệ thống tái sản sinh.

Tuy nhiên, dù chương trình khoa học là thế, nhưng Hội nghị đã được khai mạc với vài “liều lượng chính trị” nho nhỏ.  Chẳng hạn như, lúc đầu Ban tổ chức Mĩ – Việt không muốn cho các kí giả ngoại quốc tham dự, nhưng sau này họ đổi ý và cho kí giả tham dự ngày khai mạc và ngày bế mạc Hội nghị.  Bài diễn văn khai mạc Hội nghị của phía Việt Nam mang chút màu sắc chính trị và cảm tính, trong đó người phát biểu nói một cách thẳng thứng rằng Mĩ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam, và nhắc lại lời kêu gọi Mĩ phải có trách nhiệm với nạn nhân người Việt Nam.  Một nhóm đại diện cho cựu quân nhân Mĩ cũng kêu gọi chính phủ Mĩ phải giúp đỡ nạn nhân của dioxin ở Việt Nam.  Tuy nhiên, đại sứ Mĩ ở Hà Nội không đồng ý với nhận xét “chiến tranh hóa học.”  Ông đại sứ còn tiết lộ một chi tiết quan trọng, rằng khi đồng ý bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mĩ, Việt Nam đã đồng ý không đòi bồi thường chiến tranh [7].

 

Một vài báo cáo khoa học đáng chú ý

Nhưng Ban tổ chức đã dự trù trước đây là một Hội nghị rất khó và tế nhị.  Họ cũng đã tiên đoán rằng những “trục trặc” như thế sẽ xảy ra, nên họ cũng không ngạc nhiên, và theo đuổi chương trình nghị sự khoa học đã định sẵn.  Với khoảng trên dưới 100 đề tài lớn nhỏ được đem ra bàn thảo và trao đổi; trong đó người ta thấy có một số phát hiện đáng chú ý như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu của Giáo sư Arnold Schecter, một chuyên viên nghiên cứu về dioxin (thuộc Trường Đại học Texas) cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong cư dân thuộc một số vùng như Biên Hòa, Đà Nẵng, Giồng Trôm (Bến Tre), Tân Uyên (Sông Bé), Trà Nóc (Cần Thơ), A Lưới (Huế), v.v. vẫn còn cao hơn trung bình, và có thể nói là ở một mức độ có hại cho sức khoẻ (nồng độ “an toàn” là khoảng 2 ppt).  Khoảng 36% đối tượng nghiên cứu có nồng độ dioxin cao hơn 100 ppt.  Ông Schecter trình bày một trường hợp đặc biệt là một thanh niên sinh năm 1973 có nồng độ dioxin lên đến 413 ppt!

Thứ hai, trong một nghiên cứu khác của ông Schecter liên quan đến cá nhập cảng từ Việt Nam vào Mĩ.  Ông thử nghiệm 20 mẫu cá được nhập cảng và bán ở hai bang Texas và California.  Kết quả nghiên cứu này cho thấy cá nhập cảng từ Việt Nam có hàm lượng dioxin thấp hơn thực phẩm sản xuất ở Mĩ.  Thấp như thế nào?  Ông Schecter lấy một ví dụ như sau: chẳng hạn như trong một mẫu cá tra (catfish) được phân tích, hàm lượng tích tụ dioxin chỉ 0.01 phần trong một ngàn tỉ (0.01 parts per trillion, hay 0.01 ppt).  Mức độ tích tụ dioxin trong cá tra trên đây quả rất thấp so với thực phẩm Mĩ.  Theo một số nghiên cứu được công bố gần đây, trong các thực phẩm bày bán ở Mĩ chứa một hàm lượng dioxin tương đối cao, nhưng chưa hẳn ở mức độ đáng quan tâm.  Chẳng hạn như theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2001, nồng độ dioxin trong cá nước ngọt là 1.7 ppt; trong kem (ice cream), 0.33 đến 0.51 ppt; trong sữa, 0.16 ppt; trong bơ (butter), 1.1 ppt [8].  Ngoài ra, còn có bằng chứng khoa học cho thấy những thực phẩm như cá tra (“catfish”) khi được nấu chín hay đun sôi thì nồng độ PCDD sẽ giảm xuống đến 50% [9].

Thứ ba, nghiên cứu của Giáo sư Lê Quang Bách (Hà Nội) trên 6570 dân cư sinh sống trong các vùng chịu ảnh hưởng chất màu da cam trong thời chiến cho thấy tỉ lệ dị tật bẩm sinh trong thời gian 1975 – 2000 là 2.18 trên 1000 dân số, hay 5.38 trên 1000 trường hợp đẻ sống.  Bại não là dị dạng chiếm tỉ lệ cao nhất.  Dị dạng thường xảy ra trong những đứa con thứ nhất và thứ hai.  Ông Bách kết luận “Loại trừ yếu tố ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra dị dạng bẩm sinh trên người mẹ cũng như yếu tố thời gian sinh sống của người mẹ trong khu vực nghiên cứu, cho phép nhận định dị dạng bẩm sinh chịu hậu quả lâu dài của chất độc da cam / dioxin”. 

 

Giá trị bằng chứng: nghiên cứu khoa học hay quan sát lâm sàng?

Báo cáo khoa học của Việt Nam về mối liên hệ giữa dioxin và dị tật bẩm sinh cũng như vài bệnh khác đã bị các khoa học gia Mĩ chất vấn.  Theo họ (khoa học gia Mĩ), muốn kết luận một mối liên hệ như thế cần phải có nghiên cứu và theo dõi bệnh nhân hàng chục năm, chứ không đơn giản chỉ trình bày vài trường hợp là xong, mà cần phải có những đối chứng (controls) trong nghiên cứu.  Theo người viết bài này, người Mĩ có lí do để chất vấn, và phía Việt Nam cũng có lí do để tin tưởng vào những phát biểu của mình.  Tôi không rõ những bệnh cụ thể nào được xem là “dị tật bẩm sinh” trong nghiên cứu của Giáo sư Lê Quang Bách, nhưng rõ ràng tỉ lệ 2.18 trên 1000 dân số thì khó mà tin được, vì thông thường tỉ lệ này cao hơn nhiều (ở giữa 2 và 5 phần trăm).  Ngay cả trong các bà mẹ người Việt ở California, tỉ lệ dị tật bẩm sinh được ghi nhận vào khoảng 1.92 phần trăm, thấp hơn các bà mẹ người Mễ và Mĩ [10].  Do đó kết quả của phía Việt Nam quả rất đáng chất vấn.

Đối với các nhà nghiên cứu thuần túy, một kết luận nghiên cứu chỉ đáng tin cậy khi nào kết nghiên cứu đó được xác nhận bằng một hay nhiều nghiên cứu độc lập khác, và những “phương pháp khoa học” (scientific methods) dùng trong nghiên cứu được xem là thích hợp.  Về mặt phương pháp học, rõ ràng các phương pháp nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam còn quá đơn sơ, nếu không muốn nói là không thích hợp, để cho phép một kết luận gì giữa dioxin và dị tật bẩm sinh.  Đây là một lĩnh vực mà giới nghiên cứu Việt Nam cần được giúp đỡ trong tương lai.

Phía Việt Nam, các bác sĩ làm việc trực tiếp với chương trình nghiên cứu chất độc màu da cam và dioxin khẳng định [có khi một cách mạnh mẽ] rằng qua quan sát lâm sàng, họ biết rõ những ai là nạn nhân của dioxin.  Họ trưng bày một số dữ kiện và trường hợp dị tật bẩm sinh trong cư dân các vùng bị ảnh hưởng nặng chất độc này trong thời chiến.  Dù nhận xét của các bác sĩ Việt Nam cần phải được xác định bằng các nghiên cứu, tôi vẫn nghĩ bác bỏ những dữ kiện của Việt Nam trong khi cân nhắc mối liên hệ giữa dioxin và bệnh tật là một điều không công bằng.  Nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chỉ là một vế của phương trình y học, nó không phải là câu trả lời dứt khoát cho mọi vấn đề.  Những quan sát lâm sàng cũng đóng một vai trò rất quan trọng, và giá trị của kinh nghiệm lâm sàng không nên gạt bỏ qua.  Thực vậy, nhiều khi một nhận xét lâm sàng còn có giá trị hơn cả mười năm nghiên cứu.  Trường hợp về tác hại của Thalidomide [11] là một ví dụ hùng hồn về giá trị của quan sát lâm sàng. 

 

Đối tượng nghiên cứu: con người hay môi trường?

Ngoài các thảo luận, tranh cãi liên quan đến khoa học như trên, người ta cũng có thể ghi nhận một vài khác biệt chính giữa phía Việt Nam và Mĩ về đối tượng nghiên cứu, và ưu tiên trong nghiên cứu.  Về đối tượng nghiên cứu, phía Mĩ muốn tập trung và quan tâm đến môi trường; còn phía Việt Nam thì đặt trọng tâm vào sức khỏe người dân.  Về đường hướng ưu tiên, phía Mĩ muốn tiến hành những nghiên cứu khoa học, trong khi phía Việt Nam đặt nặng vấn đề giúp đỡ nạn nhân của độc chất. 

Sự khác biệt về quan điểm này có thể giải thích được, và thông cảm được.  Về phía Mĩ, thành phần chủ đạo trong Ban tổ chức Hội nghị là những nhà nghiên cứu trong Viện nghiên cứu Môi trường Mĩ, do đó không ai ngạc nhiên khi đứng trên góc độ nghề nghiệp, họ muốn tiến hành những nghiên cứu để thẩm định sự tác hại của dioxin đến môi trường ở Việt Nam.  Ngược lại, phía Việt Nam, những người nằm trong Ban tổ chức Hội nghị là những bác sĩ thuộc Bộ Y tế, nên họ quan tâm đến sức khỏe dân chúng hơn là môi trường.

Ngoài sự khác biệt về chuyên môn, người ta cũng có thể giải thích quan điểm của người Mĩ về nhu cầu dữ kiện.  Trong thời gian trên dưới 30 năm qua, Mĩ đã bỏ ra một ngân sách khá lớn để nghiên cứu tác hại của dioxin trong dân chúng, đặc biệt là trong giới cựu quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam.  Trong thời gian đó, họ đã thu thập một lượng dữ kiện khá dồi dào.  Hiện nay, nhiều chương trình nghiên cứu của họ vẫn còn tiếp tục.  Do đó họ không có nhu cầu thu thập thêm dữ kiện về sức khỏe trong người Việt Nam, vì đó không phải là ưu tiên hay mối quan tâm hàng đầu của họ.  Ngược lại, họ cần có thêm dữ kiện về dioxin trong môi trường, và Việt Nam là một nơi lí tưởng để thu thập thêm dữ kiện này.

Tuy nhiên, những dữ kiện về mối quan hệ giữa dioxin và bệnh tật trong người Việt Nam vẫn còn quá ít, nếu không muốn nói là không đáng kể.  Trong hầu như tất cả các báo cáo khoa học có liên quan tới dioxin mà người viết bài này từng theo dõi, các nhà khoa học đều đề cập và trong đợi các số liệu đến từ  phía Việt Nam.  Điều này cũng dễ hiểu, vì đại đa số các nghiên cứu trong thời gian qua về chất độc màu da cam và dioxin đều tập trung vào đối tượng là những người dùng nó trong chiến tranh (tức là quân nhân Mĩ), nhưng một đối tượng đáng lẽ cần và đáng nhận được sự ưu tiên và quan tâm nhiều hơn là những nạn nhân của nó: đồng bào Việt Nam sống ở các vùng bị ảnh hưởng độc chất này.  Thực vậy, có thể nói đối tượng lí tưởng cho nghiên cứu tác hại của chất độc màu da cam hay dioxins trong sức khỏe con người phải là đồng bào Việt Nam ở các vùng bị ảnh hưởng độc chất này, vì họ sinh sống trực tiếp với môi trường dioxin. Trong hầu như tất cả các báo cáo khoa học có liên quan tới dioxin mà tôi đã từng theo dõi, các nhà khoa học đều đề cập và trong đợi các số liệu đến từ  phía Việt Nam.  Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào ở Việt Nam liên quan đến tác hại của chất độc màu da cam trong dân cư người Việt được công bố trên các tờ tạp chí y học hàng đầu như New England Journal of Medicine, Lancet, Annals of Internal Medicine, Journal of the American Medical Association, v.v.  Do đó, theo người viết bài này, quan điểm của Việt Nam về nhu cầu thu thập dữ kiện và nghiên cứu sự ảnh hưởng của dioxin trong sức khoẻ con người là một đường hướng hoàn toàn hợp lí.

 

Bồi thường trước hay nghiên cứu trước?

Vấn đề thứ hai mà hai bên còn khác biệt là đường hướng ưu tiên.  Phía Việt Nam muốn Mĩ giúp đỡ những người mà họ tin là nạn nhân của dioxin và chất độc màu da cam, trong khi nghiên cứu.  Trong khi đó, phía Mĩ thì đặt nặng vào nhu cầu nghiên cứu khoa học hơn là giúp đỡ tài chính trong giai đoạn này.  Một bên quả quyết rằng nạn nhân cần phải được giúp đỡ; một bên thì đòi hỏi phải có bằng chứng và dữ kiện trước khi thảo luận đến vấn đề tài trợ.  Như nói trên, các bác sĩ Việt Nam thì cho rằng họ có lí do lâm sàng để biết ai là nạn nhân và ai không là nạn nhân.  Nhưng người Mĩ thì đặt vấn đề cũng chính đáng: làm sao họ biết một cách khách quan rằng đó là những nạn nhân của dioxin và chất màu da cam?  Một bên dựa vào cảm tính do chứng kiến và tiếp cận với nạn nhân; một bên dựa vào lí trí và khoa học.

Đây là một sự mâu thuẫn mà tôi nghĩ khó có thể phân giải để đi đến một giải pháp tối ưu.  Tuy nhiên, người ta có thể thấy được logic của phía Việt Nam như sau:

Thứ nhất, đó là một vấn đề bỏ lỡ cơ hội.  Tính đến nay, chất màu da cam và dioxin do Mĩ rải xuống Việt Nam đã qua một thời gian đúng 40 năm, tức là hơn một thế hệ con người.  Sau hơn 10 năm, lượng dioxin còn tồn tại trong con người chỉ trên dưới 50%.  Nếu kết quả nghiên cứu trong giới cựu quân nhân Mĩ và một vài nơi khác ở Âu châu có thể dùng để khái quát hóa cho tình trạng sức khoẻ của người Việt Nam thì người ta có thể nói rằng đã có nhiều người chết trong thời gian dài đó có ít nhiều liên quan hay chịu ảnh hưởng chất màu da cam.  Nói một cách khác, nhiều “đối tượng lí tưởng” nhất, hay nạn nhân của dioxin và chất độc màu da cam khả tín nhất không còn nữa.   Những nạn nhân hay đối tượng còn sống ngày nay có thể chỉ là nạn nhân thuộc thế hệ thứ hai. 

Thứ hai, vấn đề thời gian.  Một nghiên cứu có hệ thống, có ý nghĩa khoa học cao, thì thời gian theo dõi đối tượng phải từ 10 năm đến 20 năm.  Chương trình nghiên cứu của Ý kéo dài hơn 20 năm [12].  Chương trình nghiên cứu trong cựu chiến binh Mĩ (chiến dịch Ranch Hand) cũng đã tiến hành hơn 20 năm.  Một nghiên cứu từ Việt Nam, nếu được tiến hành ngay bây giờ, thì cũng phải chờ đến khoảng 2020 mới có kết quả để làm bằng chứng khoa học cho giới làm chính trị quyết định.  Và đến đó thì nhiều người cũng sẽ qua đời!  Nạn nhân ít đi dần.  Đối tượng ít đi dần.  Và đến khi có dữ kiện để xem xét việc giúp đỡ thì đã quá muộn, nếu không muốn nói là không có ý nghĩa gì nữa.

Giá trị của nghiên cứu không chỉ là thông tin khoa học, hay cống hiến tri thức vào kho tàng tri thức của nhân loại, mà còn là giá trị thực tiễn của thông tin.  Nếu những thông tin nghiên cứu sau 20 năm chẳng giúp ích gì cho người dân Việt Nam thì thiết tưởng những nghiên cứu như thế đã mất đi ít nhiều lí tưởng của khoa học.  Nhà cầm quyền nắm ngân sách có lí do để đặt vấn đề có nên nghiên cứu hay không, nếu như kết quả không có một viễn ảnh thực tế giúp đỡ người dân.

Mặt khác, người ta cũng không thể phủ nhận cái logic trong sự suy nghĩ của các nhà khoa học Mĩ.  Nếu không có thông tin xác tín, thì làm sao biết ai mà giúp đỡ.  Đối tượng nào, với bệnh gì, ở đâu, điều kiện ra sao, v.v. cần giúp đỡ?  Khó mà trả lời những câu hỏi này một cách khẳng định nếu như không có những nghiên cứu khoa học.

 

Nghiên cứu gì?

Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội tốt quá lâu trong công việc này.  Tuy nhiên, chậm trễ còn hơn là không có gì.  Do đó, nhu cầu nghiên cứu và thu thập dữ kiện về ảnh hưởng của dioxin và sức khỏe cũng như môi trường ở Việt Nam thật là cấp thiết.  Nhưng vấn đề được đặt ra là cần nghiên cứu gì?  Tôi xin đề nghị một số đường hướng nghiên cứu cụ thể như sau:

Thứ nhất, xác định mức độ nghiêm trọng của vấn đề.  Trong bất cứ một vấn đề y học nào, điều quan trọng và cần thiết trước nhất là cần phải biết bao nhiêu người bị ảnh hưởng.  Hiện nay, phía Việt Nam thường đưa ra con số 1 triệu người, tuy nhiên, con số này chỉ là một ước tính mà cơ sở khoa học của nó chưa được vững vàng.  Vì thế cần phải tiến hành một cuộc nghiên cứu “epidemiology” qui mô ở mức độ dân số để trả lời những câu hỏi sau đây: số người bị ảnh hưởng chất độc màu da cam hay dioxin; thời gian ảnh hưởng đã bao lâu; bao nhiêu thế hệ; ở những vùng nào; và đo lường nồng độ tích tụ dioxin trong từng cá nhân.

Thứ hai, xác định mối liên hệ giữa dioxins và một số vấn đề sức khoẻ trong người Việt.  Đây là một nhu cầu cực kì cấp bách, vì cho đến ngày nay, chưa ai biết rõ dioxin đã ảnh hưởng đến sức khỏe của nạn nhân Việt Nam một cách cụ thể, và đó cũng chính là một nguồn gốc của tranh cãi hiện nay giữa Mĩ và Việt Nam về việc bồi thường hay không bồi thường nạn nhân.  Qua theo dõi các nghiên cứu của Mĩ và Ý, người ta thấy có khoảng 20 bệnh có thể liên hệ đến dioxin, và những bệnh này có thể là những đối tác đầu tiên cho một nghiên cứu ở Việt Nam.  Tuy nhiên, tôi đề nghị chọn ra một số bệnh “ưu tiên” để tập trung nghiên cứu như sau: dị tật bẩm sinh, các loại ung thư vú (trong phụ nữ), tuyến tiền liệt (đàn ông), hệ thống tiêu hóa, và các bệnh liên quan đến nội tiết như bệnh tiểu đường, bệnh xương, và các bệnh tâm thần. 

Thứ ba, cần phải nghiên cứu tác hại của dioxin trong cấu trúc di truyền của cá nhân.  Đã có một số bằng chứng khoa học gần đây cho thấy dioxin hay TCDD có khả năng làm thay đổi cấu trúc di truyền của con người, do đó, nếu ảnh hưởng của dioxin kéo dài qua nhiều thế hệ thì yếu tố di truyền (genes) nhất định phải đóng một vai trò quan trọng.  Vì thế, tôi đề nghị cần phải tập trung nghiên cứu vào những đối tượng gia đình (không chỉ trong những cá nhân không có quan hệ huyết thống), để có thêm dữ kiện cho phân tích di truyền. 

Ba hướng nghiên cứu trên đây có thể thực hiện được, một số với cơ sở vật chất sẵn có ở Việt Nam, và một số có thể cần sự giúp đỡ về kĩ thuật của các nhóm nghiên cứu ngoại quốc.  Những nghiên cứu cụ thể theo ba chiều hướng trên đây cần phải được vạch ra để có kế hoạch tiến hành.  Có lẽ một trong những điều cần làm ngay là thành lập một ủy ban chuyên nghiên cứu, gồm các nhà khoa học ở trong nước và các chuyên gia người Việt và người ngoại quốc ở các nước như Mĩ, Úc, Canada, Thụy Điển, v.v.   Ủy ban này nên có đại diện của giới y tế công cộng, thống kê học, khoa học cơ bản (basic science), công nghệ sinh học, di truyền học, dân số học, v.v.. 

 

***

Nói tóm lại, cho đến nay không ai còn nghi ngờ sự độc hại của dioxin trong con người.  Nhưng chứng minh sự ảnh hưởng của dioxin trong sức khỏe con người vẫn còn là một thách thức lớn của khoa học.  Ngoài một số bệnh ung thư mà giới khoa học đã có đầy đủ bằng chứng để cho rằng dioxin là một nguyên nhân chính, một số bệnh khác vẫn còn trong vòng nghi vấn hay cần thêm bằng chứng.  Ở Việt Nam, sự hiện diện của dioxin trong môi trường ở một số vùng và ở một mức độ có hại cho sức khoẻ là một thực tế không ai có thể chối cãi.  Nhưng nếu kết quả của các nghiên cứu ở Mĩ và Ý đem vào áp dụng cho tình hình Việt Nam, người ta có thể nói rằng đã có nhiều nạn nhân dioxin đã bỏ mạng, và nhiều người vẫn còn đang sống với ảnh hưởng của độc chất này.  Nhưng dữ kiện khoa học cụ thể từ Việt Nam để phát biểu những nhận xét này vẫn còn thiếu.  Thực vậy, trường hợp dioxin và sức khoẻ ở Việt Nam là một sự bỏ lỡ cơ hội.  Hơn một phần tư thế kỉ sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt Nam vẫn chưa tiến hành những nghiên cứu qui mô, có hệ thống để xác định mức độ nghiêm trọng cũng như  tác hại của dioxin trong sức khỏe của người Việt Nam. 

Vì thiếu dữ kiện khoa học, mối liên hệ giữa dioxin và người Việt Nam cũng như người Mĩ trở nên một vấn đề phức tạp, vì về bản chất nó mang tính khoa học, nhưng chịu ảnh hưởng của cảm tính, và bị nhuộm màu sắc chính trị, ngoại giao.  Không thể chỉ dựa vào khoa học hay chỉ dùng cảm tình để thuyết phục giới hữu trách Việt Nam và Mĩ.  Dù thiếu dữ kiện khoa học, nhưng kinh nghiệm lâm sàng không thể bỏ qua, và nạn nhân của dioxin ở Việt Nam là một thực tế.  Do đó, một mặt chính quyền Việt Nam cần huy động nhân lực và chuyên gia trong cũng như ngoài nước để tiến hành những chương trình nghiên cứu qui mô có hệ thống, một mặt chính quyền Mĩ cũng nên giúp đỡ những nạn nhân người Việt mà họ đã có kinh nghiệm trong giới cựu quân nhân Mĩ trong hơn hai thập niên qua.  Những tranh luận bằng chữ nghĩa sẽ không giải quyết được một vấn đề cần hành động thực tế. 

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1]  Dioxins là tên gọi chung cho một số hóa chất trong nhóm dibenzodioxin, dibenzofurans, và polychlorinated biphenyls (PCBs).  Ở Mĩ, dioxins được định nghĩa là tập hợp của 29 hợp chất gồm 7 chất 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (hay TCDD, hay dioxin), 10 chất furans, và 12 chất PCBs.  Ở Âu châu, dioxins là tập hợp của 210 hóa chất, trong số này, 17 chất, kể cả TCDD, được xem là độc hại nhất.  Gần đây, Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư (International Agency for Research on Cancer, hay còn gọi là IARC) xếp dioxin vào loại độc chất số 1 gây ra ung thư.  Xem báo cáo “Polychlorinated dibenzo-para-dioxin and polychlorinated dibenzoforans,” IARC monographs on the carcinogenic risks to humans, Vol. 69, Lyon, France.  International Agency for Research on Cancer, 1997.

            Dioxins hiện diện trong môi trường, chủ yếu là từ những phó sản của các hãng xưởng kĩ nghệ.  Người ta tìm thấy những nơi gần những hãng sản xuất hóa chất, lò đốt rác, lò đốt dụng cụ y khoa thường có nồng độ dioxins cao hơn những vùng không có những hãng này.  Một khi dioxins đã thải vào không khí, chúng có thể bay đi khá xa, và qua nhiều ngày tích tụ thành cặn bã ở trên mặt và trong lòng đất, và nước.  Những cặn bã này có khi trở thành thức ăn của lợn, bò, cá, v.v., và từ đó, dioxins được “di chuyển” vào cơ thể con người, khi chúng ta tiêu thụ thịt động vật và cá.  Theo ước tính của một số nghiên cứu gần đây, khoảng 80% đến 95% dioxins trong con người xuất phát từ thực phẩm, nhất là những thực phẩm có chất béo cao như mỡ, bơ, sữa.  Một khi xâm nhập vào cơ thể con người, dioxins tồn tại khá lâu, có khi trên 10 năm (Xem báo cáo khoa học của J.L. Prikle và đồng nghiệp tựa đề “Estimates of the half-life of 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin in Vietnam Veterans of Occupation Ranch Hand,” Tập san Journal of Toxicology Environmental Health; năm 1989, số 27, trang 165-71; Báo cáo khoa học của W.H. Wolfe và đồng nghiệp tựa đề “Determinants of TCDD half-life in veterans of Operation Ranch Hand,” Tập san Journal of Toxicology Environmental Health; năm 1994, số 41, trang 481-8).

[2]  Theo tài liệu Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962.  Trích từ “Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971” của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.

[3] Xem bài xã luận “New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets’ children,” do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong Tạp san Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tư 1996, trang 1066-1067.

[4]  Xem bài xã luận “Agent Orange: exposure and policy,” do Tiến sĩ Michael Gough viết trong Tập san American Journal of Public Health, năm 1991; số 81: trang 289-290.

[5] Theo báo cáo của Công ty Tư vấn Hatfield (Canada), #201-1571 Bellevue Avenue, West Vancouver, BC V7V 1A6, Canada.

[6]  Xem báo cáo khoa học “Veterans and Agent Orange: Update 2000” do Institute of Medicine, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kì.

[7]  Xem báo cáo khoa học “Intake of dioxins and related compounds from food in the U.S. population,” [Tập san] Journal of Toxicology and Environmental Health A, năm 2001, Bộ 11, trang 1-18.

[8]  Xem báo cáo khoa học “A comparison of dioxins, dibenzofurans and coplanar PCBs  in uncooked and broiled ground beef, catfish and bacon,” Tập san Chemosphere, năm 1998, số Tháng 10-11, trang 1723-1730.

[9]  Nguyên văn phát biểu của Tòa Đại sứ Mĩ tại Hà Nội, theo bản tin của Reuters  (của kí giả David Brunnstrom) ngày 4 tháng 3, 2002: “U.S. Vietnam relations were normalized in 1995 after Vietnam dropped claims war reparation / compensation”.

[10]  Xem báo cáo khoa học “Congenital malformations in offsprings of Vietnamese women in California 1985 – 1997”, do G. W. Shaw và đồng nghiệp công bố trên Tập san Teratology, năm 2002, số 65, trang 121-124.

[11] Thalidomide là một loại thuốc trước đây dùng làm dịu trong những phụ nữ mang thai.  Trong thập niên 1960s,  Bác sĩ William McBride (Úc) qua quan sát vài trường hợp trong bệnh nhân của ông đã khám phá rằng trong khi mang thai trong 3 tháng đầu tiên, thuốc có thể gây ra dị thai.  Phát hiện này làm rúng động thế giới y khoa một thời, vì thuốc này được dùng rất rộng rãi trước đó.  Trong trường hợp này, người ta không cần phải có bằng chứng nghiên cứu mới cấm việc dùng thuốc Thalidomide.  Do đó, lập tức sau phát hiện của Bác sĩ McBride, thuốc này bị cấm dùng trong các phụ nữ đang mang thai.

 

[12] Vào tháng Bảy, năm 1976, một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ 2,4,5-trichlorophenol (TCP) tại vùng Seveso (Ý) bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin.  Chính quyền địa phương và các nhà chức trách y tế Ý nghi ngờ là dân cư sống trong vùng có thể bị nhiễm độc chất dioxin.  Do đó, kể từ năm 1977, Chính phủ Ý đã thành lập một nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học và bác sĩ chuyên nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe của dân cư trong vùng Seveso và phụ cận.  Có thể xem bài “Health effects of dioxin exposure: a 20-year mortality study” do Pier A. Bertazzi và đồng nghiệp công bố trên Tập san American Journal of Epidemiology, năm 2001; số 153, trang 1031-44; và bài “Paternal concentration of dixin and sex ratio of offspring”, do Giáo sư Paolo Mocarelli và đồng nghiệp công bố trên tạp chí y khoa Lancet, số 355, ra ngày 27 tháng 5, 2000, trang 1858-1863.

 

 

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.org  Nguyễn Văn Tuấn