Ba mươi lăm năm kể từ ngày đầu tiên
quân đội Mỹ tiến hành rải chất khai quang (Da cam)
xuống đồng ruộng Việt nam, có khi sự hiện diện của
thế hệ những người tham chiến trực tiếp và những
người chịu ảnh hưởng trực tiếp của chất độc này ngày
càng thưa thớt, thì hệ quả tác động nguy hại của
chất độc này lên những nạn nhân của nó vẫn còn chưa
được (hay chưa muốn?) làm sáng tỏ. Dù rằng những
người cựu chiến binh Mỹ có tham dự trực tiếp vào các
chiến dịch rải chất độc da cam đã được nhận ít ra
cũng là một phần trợ cấp để giảm thiểu nỗi đau, thì
những nạn nhân bị trực tiếp dội lên đầu những chất
độc “khách không mời” này thì lại gần như bị lãng
quên theo thời gian.
Tác hại của chất độc màu da cam lên
sức khoẻ của con người đã được nhiều công trình
nghiên cứu trên thế giới công bố dựa trên những số
liệu về tai nạn hoặc do chiến tranh tại Việt Nam.
Một trong những tác hại do chất độc màu da cam
(CĐDC) gây ra đó là dị tật bẩm sinh (DTBS). Thế
nhưng một điều lý thú là những số nghiên cứu về DTBS
này lại không nhất quán với nhau về kết quả, hơn nữa
nó có sự thiếu khách quan nguồn dữ kiện (publication
bias); có nghĩa là những công bố về tác hại của chất
độc màu da cam trong cuộc chiến Việt Nam của quân
đội Mỹ lên DTBS lại là những nghiên cứu của người
nước ngoài lên những cựu chiến binh tham chiến Việt
nam (nạn nhân gián tiếp) hơn là những đối tượng trực
tiếp bị ảnh hưởng (dân cư sống trong vùng bị phun
xịt).
Ảnh hưởng của sự thiếu khách quan về
nguồn dữ kiện thường đến từ các nguồn như: những tài
liệu chưa công bố (hoặc không được công bố) có kết
quả đi ngược lại với kết quả mong muốn; hoặc có thể
là do chất lượng công trình nghiên cứu chưa đủ để
được công bố. Vấn đề tác hại của chất độc màu da cam
lên dị tật bẩm sinh (DTBS) ở nạn nhân trực tiếp của
CĐDC ở Việt Nam có lẽ là do cả hai, mà chúng tôi sẽ
đề cập sau.
Trong một bối cảnh hiện nay bằng
chứng về mối tương quan giữa CĐDC và DTBS vẫn chưa
được ngã ngũ (một số tài liệu công bố là có, một số
bảo không) thì việc quy kết về một mối quan hệ tương
quan thật là khó. Do đó trong nghiên cứu Y học, một
loại nghiên cứu cho phép tổng hợp các kết quả nghiên
cứu đã được hoặc chưa được công bố có cùng một quy
trình và mục tiêu nghiên cứu lại với nhau, từ đó có
thể đưa ra một kết luận có tính khách quan hơn, đó
là nghiên cứu tổng hợp hay tiếng Anh còn gọi là
meta-analysis.
Nghiên cứu tổng hợp trong các ngành
Y khoa có lẽ không có gì là mới, tuy nhiên kết quả
nghiên cứu tổng hợp về mối quan hệ giữa phơi nhiễm
CĐDC và DTBS quả là lần đầu tiên, một bài nghiên cứu
vừa mới công bố trên tập san Dịch tễ học quốc tế (International
Journal of Epidemiology), số ra tháng 3/2006 của
nhóm tác giả Ngo AD, Taylor R, Roberts CL và Nguyen
TV (Ngo AD, Taylor R, Roberts CL và Nguyen TV .
Association between Agent Orange and birth
defects: systematic review and meta-analysis. Int J
Epidemiol 2006)
Các tác giả đã tiến hành rà soát toàn bộ y văn thế
giới trên hệ thống dữ liệu y văn y sinh học quốc tế
để tìm kiếm tất cả các nghiên cứu về mối tương quan
giứa CĐDC và DTBS, đồng thời còn phải liên hệ và thu
thập tất cà các số liệu tương tự mà chưa được công
bố. Cuộc tìm kiếm có hệ thống này đã
thu được 22 bộ dữ liệu đáp ứng được tiêu chuẩn
nghiên cứu ban đầu đặt ra để phân tích. Trong số
này, có 11 nghiên cứu từ Việt Nam và 2 nghiên cứu
của tác giả nước ngoài là dữ liệu chưa được công bố
dưới dạng bài báo khoa học có qua hệ thống bình
duyệt (peer-reviewed published article), tuy nhiên
đều đã được đăng trong các kỷ yếu công trình nghiên
cứu, trình bày ở các hội thảo, dưới dạng tóm tắt
nghiên cứu. Tổng số đối tượng nghiên cứu gộp lên đến
khoảng 205 nghìn người. Số liệu được phân tích có
điều chỉnh yếu tố thiếu đồng bộ giữa các nghiên cứu.
Mối tương quan giữa yếu tố phơi nhiễm với CĐDC và
DTBS được biểu thị dưới dạng yếu tố nguy cơ tương
đối.
Kết quả công trình nghiên cứu phân
tích tổng hợp được tóm tắt như sau: Nguy cơ tương
đối (NCTD) giữa DTBS (tính chung tất cả các loại dị
tật) và yếu tố phơi nhiễm với CĐDC là 1.95. Đối với
các nghiên cứu được tiến hành tại Việt nam, trên
người Việt Nam thì cho kết quả về mối tương quan này
cao hơn, với NCTD là 3.0, còn các nghiên cứu không
thuộc nhóm này thì có mối liên hệ yếu hơn, với NCTD
là 1.26. Mặc dù biên độ ảnh hưởng của mối quan hệ
có dao dộng, tất cả đều có ý nghĩa thống kê.
Vấn đề được đặt ra là chúng ta cần
phải hiểu ý nghĩa của các con số nguy cơ tương đối
này là gì, và tại sao nó là như vậy? Quan trọng hơn
nữa nghiên cứu tổng hợp này có đem lại một lợi ích
thiết thực gì không, và có thể ứng dụng được gì
trong thực tế cho những nạn nhân bị phơi nhiễm CĐDC?
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, chúng tôi sẽ cố
gắng lược giải những điều đó.
Trước hết chúng ta cần phải hiểu qua
về bản chất của những nghiên cứu đơn lẻ, là chất
liệu của nghiên cứu tổng hợp này. Điểm đầu tiên phải
nhấn mạnh là tất cả các nghiên cứu về mối quan hệ
giữa CĐDC và DTBS này đều là những nghiên cứu hồi
cứu hoặc nghiên cứu tại một thời điểm trong quần
thể. Có nghĩa là, dựa trên cơ sở DTBS đã xảy ra rồi,
các nghiên cứu viên tìm hiểu về tiền sử phơi nhiễm
với CĐDC của các đối tượng. Từ đó suy ra tỷ suất
hoặc tỷ lệ tiền sử phơi nhiễm giữa hai nhóm bị dị
tật hoặc không bị DTBS đối với các nghiên cứu đối
chứng hoặc tỷ lệ mắc DTBS giữa hai nhóm đối tượng có
phơi nhiễm hoặc không bị phơi nhiễm đối với các
nghiên cứu quan sát quần thể (cohort). Kết quả được
nêu lên dưới con số nguy cơ tương đối, có thể được
hiểu gần đúng là tỷ lệ mắc DTBS trong quần thể những
người có phơi nhiễm với CĐDC cao hơn tỷ lệ DTBS
trong quần thể những người không có tiền sử phơi
nhiễm với CĐDC 95% (1.95 lần). Trong khi tỷ lệ này ở
những người cựu chiến binh tham chiến ở Việt nam chỉ
có gia tăng 26% (nguy cơ tương đối 1.26) thì đối với
những cư dân sống trong những vùng bị phun xịt trực
tiếp, nguy cơ bị DTBS gia tăng đến 200% (nguy cơ
tương đối 3.0). Điều này cho thấy có một mối liên hệ
giữa nguy cơ DTBS và mức độ phơi nhiễm. Hơn thế nữa,
như nghiên cứu đã chỉ ra, đối tượng nghiên cứu bị
phơi nhiễm chính trực tiếp có khi đã qua đời, cho
nên, con số tỷ lệ nguy cơ 3.0 có khi phản ánh dưới
mức con số thực tế. Thế nhưng, phạm vi của nghiên
cứu không cho phép có kết luận gì hơn.
Quay trở lại vấn đề thiếu khách quan
do nguồn dữ liệu mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Các
nghiên cứu về mối quan hệ CĐDC và DTBS đã được công
bố trên các tập san quốc tế thì đối tượng nghiên cứu
chính yếu là những người cựu chiến binh tham chiến,
tức là đối tượng phơi nhiễm gián tiếp, ngắn hạn; còn
các nghiên cứu trên những đối tượng là nạn nhân bị
phơi nhiễm trực tiếp, dài hạn thì lại không được phổ
biến. Lý giải vấn đề này có thể khá tế nhị. Lấy một
thí dụ, các nghiên cứu y học thuần tuý, một công
trình nghiên cứu mà đưa ra kết quả “không có ý nghĩa
(thống kê)”, tức là không nhằm trả lời được câu hỏi
mà giới khoa học gia đương thời quan tâm, thì bài
báo đó hầu như không có cơ may được đăng tải. Đối
với các nghiên cứu về CĐDC, thì nếu kết quả “dương
tính” có nghĩa là có mối tương quan giữa tình trạng
phơi nhiễm với CĐDC và hậu quả DTBS, sẽ hẳn có thể
là câu trả lời cho nhiều giới không kỳ vọng, thì số
phận “đắp chiếu nằm chờ” của các công trình thuộc
dạng này không có gì là ngạc nhiên. Tuy nhiên, một
khía cạnh cần phải đề cập đến là giá trị của các
nghiên cứu khoa học nghiên cứu tại Việt Nam còn vấp
phải những vấn đề phương pháp, cho nên các nghiên
cứu này không vượt qua được các “rào cản” hệ thống
bình duyệt quốc tế, như các tác giả đã đề cập đến.
Chính vì vậy, sự hiện diện của một công trình nghiên
cứu tổng hợp để trình bày cả những số liệu chưa được
công bố ở Việt nam này trên trường quốc tế là một
sự cố gắng vượt bậc của các tác giả.
Nằm trong mẫu số chung nhược điểm
khác của các loại công trình nghiên cứu hồi cứu, tức
là xuất phát điểm là bệnh (DTBS) đã phát sinh, tìm
hiểu thông tin phơi nhiễm về quá khứ, có nghĩa là
quá trình xem lại một bộ phim đã quay, hoặc xem một
bức hình chụp cũ tại một thời điểm; tất cả các chi
tiết đều đã được ghi nhận mà không thể theo ý đồ của
người đạo diễn tái hiện sự kiện. Điều mà “người đạo
diễn” hiện tại có thể làm là cố gắng lượm lặt các
chi tiết có sẵn trong các “thước phim tư liệu” đó để
cố gắng tái hiện trung thực nhất bối cảnh liên quan
đến sự kiện mà thôi. Câu chuyện về nghiên cứu tìm
hiểu mối quan hệ giữa CĐDC và DTBS ở đây cũng hoàn
toàn tương tự như vậy. Dị tật bẩm sinh ở đây là
tính chung tất cả các loại, và có thể là do nhiều
nguồn nguyên nhân khác nhau gây ra; chính vì thế,
trong quá trình nghiên cứu, cần phải cân nhắc đến
ảnh hưởng của các yếu tố khác có thể gây nên DTBS
như tác động của CĐDC. Mặt khác, loại dị tật bẩm
sinh nào có mối liên hệ khắng khít nhất với CĐDC
cũng là một yếu tố cần lưu ý mà trong khuôn khổ các
nghiên cứu hồi cứu khó có thể trả lời được.
Thế nhưng điều mấu chốt mà công
trình nghiên cứu tổng hợp này có thể giải quyết được
là đã đưa ra một bằng chứng khó có thể bắt bẻ về một
mối tương quan giữa tình trạng phơi nhiễm với CĐDC
và DTBS, mà còn có xu hướng tương quan tỷ lệ với mật
độ và cường độ cũng như thời gian phơi nhiễm với tác
nhân.
Kết quả nghiên cứu này tuy chỉ có
thể đưa ra được vài điểm kết luận ngắn gọn, thế
nhưng nó là nền tảng và tiền đề cho những nghiên cứu
dịch tể học có tính quy mô và trên diện rộng về mối
tương quan giữa CĐDC và tác hại của nó lên sức khoẻ
con người. Dù rằng con số nạn nhân bị ảnh hưởng trực
tiếp của CĐDC đã bị mai một theo thời gian, nhưng xu
hướng hệ quả liều lượng (dose effect) gợi mở một suy
nghiệm nếu các nghiên cứu tập trung vào những vùng
bị ảnh hưởng nhiều nhất có khả năng thu nạp được các
đối tượng nghiên cứu “lý tưởng”.
Đã đến lúc giới khoa học gia Việt
nam chúng ta cần phải lên tiếng trên trường khoa học
quốc tế không phải chỉ là vấn đề bênh vực cho các
nạn nhân, mà chí ít là cũng phải để làm sáng tỏ một
số hệ luỵ khoa học về tác hại của CĐDC còn trong
vòng tranh cãi mà môi trường nghiên cứu lý tưởng
(bất đắc dĩ) là Việt nam. Công trình nghiên cứu của
nhóm tác giả Việt nam và cộng sự đã cất lên một
tiếng kèn khai trận. Một kết quả khiêm tốn, nhưng có
lẽ cũng là một sự đồng cảm, chia sẻ công lý cho
những nạn nhân của Chất độc Da cam, nhân ngày kỷ
niệm 10/8.
Ngày nạn nhân CĐDC, 10/8/2006Ho
|