Chính lò phản ứng số 4
RBMK của Liên Xô, 1000 MW, kiểu lò nước
sôi nhẹ, kiềm hãm bằng than và được làm
giàu thấp với uranium, đã gánh chịu vụ
nổ (không phải hạt nhân) và chảy tâm lò.
Lò này, dạng trụ với đường kính là 12 m
và cao 8 m, chứa 190 tấn uranium làm
giàu 2%. Những điểm yếu của kiểu lò này
là không có vỏ bọc (enceinte de
confinement) hay mái vòm bảo vệ.
Công suất yếu, tâm lò
không ổn định, nước dùng để truyền nhiệt
có mặt khắp nơi, nhưng nó cũng là nguồn
hấp thụ nơtron và do đó hơi nước rất là
nguy hiểm và các cần điều khiển (barres
de contrôle) không hoàn toàn dễ sử dụng.
Chính thao tác của một
vài kĩ sư điện, không biết gì về hạt
nhân, đến từ Moscow, với mục tiêu là
chứng tỏ khả năng khởi động lại nhà máy
cùng với động năng của turbin khi có sự
cố bên ngoài về điện, là nguồn gốc gây
ra thảm họa. Nguyên nhân là do sự bịt
kín và sự gãy đổ các cần điều khiển đối
với than kiềm chế. Chế độ siêu cấp (công
suất lò phản ứng tăng lên 100 lần) gây
ra một loạt các vụ cháy nổ.
Vụ nổ lớn đầu tiên là
nổ hơi nước làm tung lên trời 1200 tấn
bê tông phủ lò phản ứng. Vụ nổ thứ hai
hoặc là do hidro, hoặc do vượt quá giới
hạn và phản ứng dây chuyền xảy ra. Ngoài
một lượng khổng lồ các chất phóng xạ
tung vào không khí (cao hơn 3000 m);
người ta ước tính rằng gần 100 kg
plutonium (trên tổng số 400 kg chứa
trong lò) đã lan tỏa vào môi trường lúc
xảy ra vụ cháy.
"Mặt
khác, phần lớn,
chính con người là
nguyên nhân chứ
không phải máy móc!
Do đó phải tính đến
tần suất lỗi của con
người"
Sự chảy tâm lò và các
cấu trúc kim loại tạo nên một lớp corium
nằm dưới lò phản ứng. Trong chất thải
này có chứa 300 kg plutonium.
Theo một chuyên gia là
giáo sư Vassili Nesterenko, sự lắng đọng
của plutonium nóng chảy này có thể gây
nên một vụ nổ nguyên tử nhiều chục năm
sau đó ! Các chuyên gia của Viện hàn lâm
Khoa học Belarus tính toán rằng một vụ
nổ nguyên tử mạnh từ 50 đến 80 lần bom
Hiroshima có thể xảy ra 2 tuần sau vụ nổ
Chernobyl !
Những người vận động
lobby cho giải pháp điện hạt nhân cho
rằng xác suất xảy ra một tai nạn lớn như
vậy (chảy tâm lò) là khoảng 1 phần
triệu.
Người ta thường nhầm
lẫn giữa xác suất và kì vọng toán học
(espérance mathématique). Con số rất nhỏ
này không thể tin được, bởi vì xác suất
phụ thuộc vào rất nhiều giả thiết.
Mặt khác, phần lớn,
chính con người là nguyên nhân chứ không
phải máy móc! Do đó phải tính đến tần
suất lỗi của con người. Đừng quên rằng
chỉ trong vòng 50 năm qua mà đã xảy ra
năm vụ cháy tâm lò : một ở Three Mile
Island, một ở Chernobyl và ba ở
Fukushima. Thế giới hiện có 437 lò, với
tổng công suất là 370.500 MW.
Khái niệm về rủi ro
rộng hơn khái niệm xác suất. Năm nay,
nhân kỉ niệm 26 năm Chernobyl, người ta
bắt đầu xây dựng một cái Sarcophage (cái
quách) khổng lồ thứ 2, trị giá 1,5 tỷ
euros, bao trùm lò Chernobyl, với mục
đích cấm phóng xạ thóat ra ngoài trời.
Thiết nghĩ, thực không có một công nghệ
nào "quái lạ" như thế này.
Ai nghiêm
trọng hơn?
Tác giả đánh giá
thảm họa Fukushima nghiêm trọng
hơn nhiều lần so với Chernobyl
Khi so sánh mức độ
nghiêm trọng giữa hai thảm họa Chernobyl
và Fukushima, cũng như nhiều chuyên gia
khác, tôi cho rằng thảm họa Fukushima
nghiêm trọng hơn nhiều lần so với
Chernobyl, bởi vì nó được gây ra bởi
thiên nhiên và phức tạp hơn nhiều, tuy
rằng có nhiều lỗi về thiết kế. Nó đã làm
chảy tâm lò phản ứng số 1, 2, và 3 của
nhà máy Fukushima 1 Daiichi và gây thấm
bể chứa và đáy của một số lò (melt-out).
Thật ra, tập hợp những
thanh nhiên liệu chứa trong hồ, tương
đương với hai chục tâm lò, cũng có thể
bị nóng chảy. Kịch bản này còn nguy hiểm
hơn việc nóng chảy một tâm lò bởi vì nó
không chỉ liên quan đến nhiều lò phản
ứng mà còn nhiều hồ làm mát các thanh
nhiên liệu phóng xạ.
Trong khi ở Chernobyl,
phản ứng dây chuyền không kiểm soát được
đã gây nên sự hoạt động quá mức của lò
phản ứng và từ đó là nhiệt độ cao bất
thường, dẫn đến vụ nổ hơi nước hoặc là
hidro ; tại Fukushima, phản ứng dây
chuyền được tắt một cách tự động khi xảy
ra động đất, điều này hạn chế mức độ
thải ra các sản phẩm của quá trình phân
hạch. Điều may mắn là ở Chernobyl, tâm
lò nóng chảy không thấm qua đáy lò trong
khi ở Fukushima, tâm lò nóng chảy đã
xuyên qua bể chứa và vỏ bọc để đi vào
lòng đất.
"Tai
họa rất nguy hiểm
đối với Nhật Bản nằm
ở sự ô nhiễm gây ra
bởi cesium 137 đối
với mặt đất, tầng
dưới mặt đất, các
lớp nước giếng, nói
chung là cả hệ thống
lưu chuyển nước ngọt"
Cũng cần biết thêm
rằng ở Fukushima có 877 tấn nhiên liệu
trong các lò phản ứng và 3.400 tấn nhiên
liệu đã qua sử dụng nằm trong 7 hồ chứa,
tổng cộng là 4.277 tấn. Để so sánh, nên
nhớ rằng ở Three Mile Island con số này
là 30 tấn và ở Chernobyl là 190 tấn.
Ước tính lượng chất
phóng xạ thoát vào không khí ở Fukushima
là 770.000 terabecquerels, tức gần 5 lần
ít hơn ở Chernobyl (4 triệu
terabecquerels ). Nhưng con số này không
tính đến chất thải đi vào đất và nước
biển, và cũng không nên quên rằng việc ô
nhiễm vẫn tiếp tục ở Fukushima. Lượng
cesium 137 thải vào biển nhiều hơn
khoảng hai lần số lượng gây ra bởi các
vụ thử bom nguyên tử ở Thái Bình Dương
vào những năm 1960.
Nhưng tai họa rất nguy
hiểm đối với Nhật Bản nằm ở sự ô nhiễm
gây ra bởi cesium 137 đối với mặt đất,
tầng dưới mặt đất, các lớp nước giếng,
nói chung là cả hệ thống lưu chuyển nước
ngọt. Một phần nước ngọt, mà rất khó có
thể biết con số chính xác, có thể không
thể dùng cho sinh hoạt và nông nghiệp
được trong vòng hơn 2 thế kỉ !
Trái với Tepco vốn tìm
mọi cách khẳng định rằng chỉ có sóng
thần là nguyên nhân của thảm họa
Fukushima, Ủy ban điều tra Nhật Bán đã
đưa ra giả thuyết là đường ống chính của
nhà máy điện hạt nhân đã bị hư hại
nghiêm trọng, ngay trước trận động đất
dữ dội (9 độ Richter) xảy ra.
Tham vọng vô
ích
Tác giả quan ngại
rằng trình độ quản lý và nhân
lực của Việt Nam có thể là
nguyên nhân gây ra rủi ro
Nhân những bài học
thảm họa kể trên, trở lại các kế hoạch
phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam,
chúng tôi tự đặt ra câu hỏi vì cớ gì
Việt Nam lại muốn xây dựng một loạt tới
10 lò hạt nhân? Liệu nhà máy điện hạt
nhân ở Ninh Thuận có thể trở thành một
Tchernobyl khác không?
Và như tôi đã có dịp
trình bày ở một số diễn đàn, tôi cho
rằng chương trình điện hạt nhân của Việt
Nam không những quá tham vọng mà thật là
vô ích, vừa phí của, phí thì giờ, làm
chậm trễ việc khai thác cấp tốc năng
lượng tái tạo.
Ngoài Trung quốc,
không có một nước nào xây dựng nhà máy
điện hạt nhân với một tốc độ cao như
thế, coi thường khía cạnh an toàn, khoa
học, kinh tế, nhân sự, môi trường.
Mặt khác, nhu cầu điện
lực của Việt Nam được thổi phồng từ lâu,
không thực tế chút nào. Theo dự báo,
Việt Nam sẽ cần 329 đến 362 TWh (tỷ kWh)
năm 2020 và từ 695 TWh đến 834 TWh năm
2030.
Tôi cam đoan rằng
những con số này không thể nào đạt được.
Nếu cứ chạy theo mức tăng trưởng lũy
thừa nhu cầu điện, 15%- 16% mỗi năm ( dù
sẽ hạ dần xuống 11,5% đi nữa ), thì thế
nào ta cũng sẽ gặp một cuộc khủng hoảng
trầm trọng !
Ở Pháp hiện nay nhu
cầu khoảng 500 TWh. Có kịch bản đề nghị
hạ con số này xuống 360 TWh trong tương
lai, với điều kiện tiết kiệm và tăng gia
hiệu suất năng lượng, đồng thời sử dụng
tối đa năng lượng tái tạo.
Người ta hạn chế, Việt
Nam lại khuyến khích tiêu thụ. Trong lúc
người ta đặt biệt chú trọng đến mô hình
cầu (modèle de la demande) thì Việt Nam
lại quan tâm đến mô hình cung (modèle
d'offre) gây rất nhiều lãng phí. Theo đà
này thì không khéo Việt Nam sẽ dư điện.
Làm bom
nguyên tử?
"Việt
Nam phải hủy bỏ ngay
chương trình điện
hạt nhân, nếu không,
VN sẽ bị phóng xạ
ngàn năm ô nhiểm,
làm tê liệt kinh tế
lâu dài và gây bao
nhiêu đau thương cho
đồng bào vô tội"
Các bạn ngoại quốc hỏi
tôi có phải Việt Nam muốn làm bom nguyên
tử như Iran hay Triều Tiên. Tôi trả lời
là nên đặt câu hỏi đó với Thủ tướng
Chính phủ. Trên lý thuyết, mỗi năm 1 lò
PWR 1000 MW có thể cho 200 kg tương
đương plutonium. Nhưng kỹ thuật chế bom
không phải dễ, cần một số điều kiện tối
thiểu. Các lò RBMK của nhà
máyTchernobyl, ngoài việc cung cấp điện,
cũng có mục đích gia tăng lượng
plutonium cho Liên xô.
Một số chuyên gia cũng
nghi là Việt Nam bị một áp lực kinh tế
và chính trị nào đó, nên mới câp tốc xây
dựng một loạt 10 - 12 lò trong một
khoảng thời gian rất ngắn (đến 2030),
bất chấp nguy hiểm và những khó khăn sẽ
chồng chất lên nhau, khó lường trước
được.
Ninh Thuận có thể trở
thành Chernobyl, không phải vì máy móc,
vì lò có vỏ bọc (enceinte de
confinement) nhưng vì thiếu chuẩn bị chu
đáo và vì nhân viên vận hành, thiếu
trình độ, kinh nghiệm hay kỷ luật. Mặc
khác, vùng Ninh Thuận cũng có thể bị
động đất và sóng thần. Đó là chưa nói
đến sự cẩu thả có thể có của tập đoàn
Rosatom (Nga) và cuộc khủng hoảng trầm
trọng của công nghệ điện hạt nhân Nhật
Bản !
Muốn tránh một thảm
họa xảy ra ở Ninh Thuận, theo tôi dễ
nhất là Việt Nam phải hủy bỏ ngay chương
trình điện hạt nhân. Nếu không, Việt Nam
sẽ bị phóng xạ ngàn năm ô nhiểm, làm tê
liệt kinh tế lâu dài và gây bao nhiêu
đau thương cho đồng bào vô tội.
Không đủ nhân
lực
Một vấn đề khác có thể
đặt ra là nhân lực. Ngân sách Viet Nam
dành cho chương trình giáo dục và đào
tạo chuyên viên dự tính khoảng trên
3.000 tỷ đồng. Số lượng dự kiến đến năm
2020 cả thảy là 3000 người được đào tạo.
Có ý kiến cho
rằng chính quản lý của con người
là một nguyên nhân của sự cố ở
Fukushima
So với nhu cầu, con số
này tương đối quá nhỏ. Một nhà máy điện
hạt nhân 1000 MW, trung bình, cần khoảng
800 đến 1000 người đủ mọi ngành nghề,
trong đó một nửa là nhân viên vận hành.
Hiện nay trong nước có khoảng 500 chuyên
viên trong lĩnh vực hạt nhân và số
chuyên viên có kiến thức thực nghiệm kỹ
thuật hạt nhân có lẽ không quá 100
người. Số chuyên gia cao cấp có kinh
nghiệm về nhà máy điện hạt nhân thì rất
hiếm.
Việt Nam đã bắt đầu
chương trình đào tạo về khoa học công
nghệ hạt nhân từ thang 6 – 2011. Mỗi năm
dự kiến đào tạo ở 5-6 trường Đại học
trong nước khoảng 250 sinh viên. Theo kế
hoạch nhà nước, đến năm 2020 sẽ đào tạo
được 350 tiến sĩ và thạc sĩ , 24.00 kỹ
sư trong linh vực năng lượng hạt nhân.
Riêng cho lĩnh vực quản lý, ứng dụng và
an toàn hạt nhân, phải đào tạo 250 tiến
sĩ và thạc sĩ, 650 kỹ sư. Hàng trăm sinh
viên trong các con số trên, sẽ du hoc và
tu nghiệp ở ngoại quốc
Hiện nay phần lớn các
đại học Âu Châu chú trọng đến việc đào
tạo chuyên viên để tháo gỡ nhà máy hơn
là để xây cất.
"Tôi
hoàn toàn không tán
thành việc phung phí
tiền của dân để đào
tạo sinh viên như
thế này, vì điện hạt
nhân đã lỗi thời, vô
cùng nguy hiểm,
không kinh tế và
cũng không có chút
triển vọng nào"
Tháo gỡ là một kỹ
thuật tương đối mới nên người ta thiếu
chuyên gia có kinh nghiệm để giảng dạy.
Mặc khác, một số đông giáo sư chuyên
ngành hạt nhân đã nghỉ hưu.
Nếu hàng trăm triệu
đô-la chúng ta phung phí trong việc đào
tạo này để dành cho lĩnh vực năng lượng
tái tạo, tiết kiệm năng lượng, nâng cao
hiệu suất năng lượng có phải ích lợi cho
đất nước và hợp thời, thì có hợp lý hơn
không?
Lẽ cố nhiên, tôi hoàn
toàn không tán thành việc phung phí tiền
của dân để đào tạo sinh viên như thế
này, vì điện hạt nhân đã lỗi thời, vô
cùng nguy hiểm, không kinh tế và cũng
không có chút triển vọng nào.
Chúng ta không có
quyền khuyến khích thế hệ trẻ đi ngược
trào lưu thế giới, mất thì giờ vàng ngọc
của họ. Tôi cho rằng Việt Nam cần xét
lại gấp chiến lược năng lượng dài hạn
trước khi quá muộn!
Điện hạt nhân là
một chủ đề gây tranh cãi ở Việt Nam. Bài
viết nhân tuần lễ kỷ niệm 26 năm sự cố
Chernobyl phản ánh quan điểm riêng của
GS Nguyễn Khắc Nhẫn, Viện kinh tế, chính
sách năng lượng và Đại học Grenoble,
Pháp, nguyên cố vấn nha kinh tế, dự báo,
chiến lược EDF Paris.