Những bài cùng tác giả
Chúng ta biết rằng bước
vào thế kỷ 21, thế giới đã phải đối diện với một vấn
đề hết sức nan giải: an ninh lương thực. Theo tính
toán, người ta thấy thế giới cần phải sản xuất một
lượng lương thực nhiều gấp đôi để nuôi 8 tỷ người
vào năm 2025, nhiều gấp ba để nuôi 10 tỷ người vào
năm 2050. Kỹ thuật tạo giống cổ điển kiểu Mendel
trong cuộc “cách mạng xanh” của thập niên 60s thế kỷ
trước đã không còn có khả năng tăng năng xuất cao
như trước (75%), mà chỉ còn khoảng 1,5% mỗi năm.
Trong khi đấy, kỹ thuật biến đổi gen đã cho thấy có
khả năng tạo một bước nhảy vọt, không những trong
việc tăng năng xuất và chất lượng cây trồng (giống
năng suất cao, chống sâu bệnh hại, chống khí hậu
nóng lạnh, chống thuốc cỏ dại, kéo dài thời gian tồn
trữ…) mà còn cải thiện được môi trường (giảm lượng
sử dụng hoá chất và thuốc BVTV, giảm lượng phân
bón…) và bảo vệ sức khoẻ của nông dân (ít tiếp cận
với hoá chất và thuốc BVTV) và người tiêu thụ (thức
ăn không có tồn lưu hoá chất, kim loại nặng, vi
khuẩn… vượt ngưỡng cho phép Codex MRL).
Tuy nhiên, việc sử dụng thức ăn biến đổi gen đã
không có sự đồng thuận rộng rãi của giới tiêu thụ
trên thế giới. Chống đối thức ăn biến đổi gen mãnh
liệt nhất là của giới tiêu thụ ở Âu châu và Nhật
bản. Chống đối dè dặt hơn là của giới tiêu thụ ở Úc
châu và Phi châu. Trong 10 năm từ 1995 đến 2005, tuy
diện tích canh tác các loại cây nông nghiệp biến đổi
gen được trồng ở Hoa Kỳ, Brasil, Argentina, Canada,
Trung Quốc, Nam Phi… đã tăng vọt: từ 1.680.000 ha
lên 88.800.000 ha. Nhưng cũng chính vì có sự hiện
diện của giống lúa biến đổi gen mà ngành lúa gạo Hoa
Kỳ đã phải trả giá đắt vì đã không xuất khẩu được
gạo của mình, mất 1,2 tỷ USD vào năm 2006. Đây chỉ
là bổn cũ soạn lại vì trước đấy vào năm 1999, ngô
của Hoa Kỳ cũng đã bị thị trường Âu châu tẩy chay vì
biến đổi gen. Tuy vậy thức ăn biến đổi gen vẫn thâm
nhập thị trường thế giới với hơn 500 loại, phổ biến
nhất là khoai tây chiên, xốt cà chua, margarine và
dầu ăn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp và xuất khẩu nông
thuỷ sản. Gạo, cà phê, trà, điều, hạt tiêu, cá basa,
tôm…là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng đem hàng
tỷ Mỹ kim ngoại tệ về cho đất nước mỗi năm. Những
mặt hàng này còn có rất nhiều vấn đề cần phải nghiên
cứu, ví dụ như cải thiện giống cao sản và chất lượng
cao, cải thiện kỹ thuật canh tác tiên tiến nhưng bền
vững, ứng dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt
VietGAP (Good Agricultural Practices) để bảo đảm an
toàn thực phẩm, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch …
Đây là những đòi hỏi mà bạn hàng của Việt Nam đang
cần để nhập khẩu những loại thực phẩm an toàn & chất
lượng. Những yêu cầu này Việt Nam có thể làm được,
với kỹ thuật và con người sẵn có. Như vậy đứng về
mặt chính sách ngoại thương, Việt Nam cần phải bảo
vệ thị trường xuất khẩu bằng cách bảo đảm tính
GMO-free cho nông thuỷ sản Việt Nam. Việt Nam không
nhất thiết phải nhập hoặc sản xuất GMO: Tuyệt đối
không đi theo con đường của Hoa Kỳ để phải mất 1,4
tỷ USD xuất khẩu gạo và những mặt hàng khác chỉ vì
có lẫn lộn giống biến đổi gen.
Tuy nhiên, đứng về mặt chiến lược, chúng ta cần phải
tiếp cận với khoa học thế giới mà cây và thức ăn
biến đổi gen là một trong những kết quả mũi nhọn của
khoa học hiện đại. Nghiên cứu, đánh giá cây biến đổi
gen cho các loại nông sản quan trọng như lúa, ngô,
đậu tương, bông vải, cải dầu và rau quả, cũng như
chẩn đoán CÓ hay KHÔNG gen biến đổi (genetically
modified gene) trong thức ăn nhập khẩu như sữa, bơ,
phó mát, khoai tây chiên, xốt cà chua, margarine, và
dầu ăn… là những việc rất quan trọng mà Việt Nam cần
phải làm ngay, sửa soạn cho đến khi giới tiêu thụ
thế giới chấp nhận thức ăn biến đổi gen, thì Việt
Nam cũng đã có sẵn cán bộ và các kỹ thuật công nghệ
sinh học về giống, tạo giống và nhân nhanh giống
biến đổi gen, phục vụ kịp thời cho nông nghiệp Việt
Nam, phát triển xuất khẩu.
Như vậy vào thời điểm này, chúng tôi đề nghị chỉ nên
triển khai nghiên cứu GMO tại đại học, không ở Viện
nghiên cứu, để tránh cho Nhà Nước và Bộ NN&PTNT khỏi
bị chỉ trích vì tham gia vào một lĩnh vực nghiên cứu
nhạy cảm về an toàn thực phẩm. Nghiên cứu GMO ở cấp
đại học vì đại học có chức năng nghiên cứu cơ bản và
kỹ thuật mới, giúp Việt Nam không bị tụt hậu trong
bước tiến chung về KHoa KỳT của thế giới. Đấy là lý do
tốt giúp Việt Nam giải thích với bạn hàng nhập khẩu
Việt Nam vẫn là một quốc gia GMO-free.
Mấy chục năm trước đây, Việt Nam hồ hởi nghiên cứu
giống lúa lai theo như những gì Trung Quốc đã làm.
Kết quả là cả chục năm nay, nông dân Việt Nam mỗi
năm phải nhập 9000 tấn lúa giống - chủ yếu là giống
Khang Dân - dĩ nhiên là từ Trung Quốc!
Bây giờ đến lược GMO. Toà đại sứ Hoa kỳ tổ chức 1
buổi hội thảo ở tp HCM chính là mở đường cho
"Mosanto and the like" sau này bán các giống ngô,
đậu nành, khoai mì, khoai tây... cho nông dân Việt
Nam với một lượng rất lớn, bởi vì với trình độ KHoa
KỳT
của Việt Nam, tạo giống GMO đã khó và tốn tiền
(giống cà chua Savf Flavf tốn đến 2.5 triệu USD), mà
dù có tạo được giống thì làm sao ta có thể cạnh
tranh được với Hoa Kỳ về GMO? Với tổ chức nghiên cứu
lỏng lẻo như hiện nay, làm sao ta có thể bảo vệ môi
trường Việt Nam không bị lây lan như các nhà nghiên
cứu đã chứng minh phấn hoa của cải dầu GMO (Round-up
Canola) đã lai tạp với wild mustard? Và quan trọng
hơn, làm sao ta trả lời với thị trường Nhật bản cá
basa, tôm sú của ta không có GMO khi thức ăn của
chúng là ngô, đậu nành GMO mua từ Hoa Kỳ?
Tôi thiển nghĩ Viêt Nam cần phải hết sức thông minh
để đi vào con đường GMO. Không nên vội vã mà bị rơi
vào cái bẫy của Hoa Kỳ khi họ
đã bị mất thị trường Âu châu. Việt Nam là một thị
trường béo bở. Trong bảng top 10 nhập khẩu của Việt
Nam đã có rượu và thuốc lá rồi. Không lý bây giờ
thêm lúa lai Trung Quốc + giống GMO Hoa kỳ?
|