Những bài cùng tác giả
Trong Lời Tựa cuốn "Cội Nguồn Trật
Tự Chính Trị" (The Origins of Political Order), Francis Fukuyama đã
viết: "Tác phẩm có hai nguồn gốc. Cảm hứng đầu tiên đã khởi dậy khi
giáo sư cố vấn Samuel Huntington, Đại Học Harvard, yêu cầu tôi viết lời
tựa tái bản cuốn 'Trật Tự Chính Trị Trong Các Xã Hội Đang Thay Đổi',
xuất bản năm 1968. Cảm hứng thứ hai bắt nguồn từ thập kỷ Fukuyama dành
nghiên cứu 'các vấn đề thế giới thực tế của các nhà nước nhược tiểu và
thất bại' dẫn đến tác phẩm 2004 'Xây Dựng Nhà Nước: Quản Trị và Trật Tự
Thế Giới trong Thế Kỷ 21'."
CỘI NGUỒN TRẬT TỰ CHÍNH TRỊ
Khi bàn về hai nguồn gốc nêu trên,
Fukuyama đã tỏ ra khiêm tốn, nếu không muốn nói thiếu trung thực. Tác
giả đã nổi danh nhờ ấn tượng trên khắp thế giới của bài xã luận 1989
"Chung Cuộc của Lịch Sử?"
đăng trong báo chính sách đối ngoại "Quyền Lợi Quốc Gia"
và tác phẩm kế tiếp "Chung Cuộc của Lịch Sử và Người Cuối Cùng. "
Luận thuyết của Fukuyama đã kích động
một làn sóng tranh luận toàn cầu: "Điều chúng ta đang chứng kiến có
thể không phải chỉ là sự chấm dứt của chiến tranh lạnh, hay sự trôi qua
của một thời kỳ lịch sử hậu chiến nhất định, mà là sự chấm dứt của chính
lịch sử: có nghĩa, điểm cuối của quá trình tiến hóa trong hệ ý thức của
nhân loại và sự phổ quát của mô hình dân chủ tự do Tây phương như hình
thức chính quyền cuối cùng của con người."
Trong hơn hai mươi năm qua, Fukuyama
đã tỏ ra ngày một dè dặt và ôn hòa hơn, nhưng vẫn luôn duy trì luận cứ
của mình. Trong Cội Nguồn Trật Tự Chính Trị, tập đầu trong dự án
hai tập, tác giả đã viết: "Alexandre Kojève, gốc Nga định cư tại Pháp
và là người chú giải tư tưởng của Hegel, đã lập luận: lịch sử tự nó đã
chấm dứt năm 1806 với Trận Đánh Jena-Auerstadt, khi Napoléon đánh bại đế
chế Phổ và mang lại các nguyên tắc tự do và bình đẳng cho phần Âu châu
của Hegel". Và Fukuyama nói tiếp: "Tôi tin sự quả quyết của
Kojève vẫn xứng đáng được tôn trọng. Ba thành tố của trật tự chính trị
hiện đại - một nhà nước mạnh và đủ khả năng, nhà nước pháp quyền, và
chính quyền chịu trách nhiệm trước quốc dân - đều đã được thiết định
một nơi nào đó trên thế giới vào cuối thế kỷ 18."
Trong thực tế, do tình cờ lịch sử, ba
thành tố trên đây lần đầu tiên đã hội đủ ở Anh quốc, mặc dù các xứ Tây
Bắc Âu khác như Hà Lan, Đan Mạch, và Thụy Điển, chịu ảnh hưởng của Thời
Đại Cải Cách, cũng đã thành công trong việc thiết định đủ ba thành tố -
nhà nước, pháp trị, và tinh thần trách nhiệm - vào thế kỷ 19.
Tuy nhiên, trước khi có sự hội tụ cả
ba thành tố ở Anh và các xứ láng giềng vào thời cách mạng kỹ nghệ và dân
chủ, ba thành tố của trật tự chính trị cũng đã tiến triển riêng rẽ trong
các nền văn minh tiền hiện đại khác nhau: Trung Quốc đã khai triển
một Nhà Nước quyền uy sớm nhất; pháp trị đã hiện diện ở Ấn Độ, Trung
Đông, và Âu châu; và ở Anh quốc, chính quyền trách nhiệm đã xuất hiện
trước mọi xứ.
Phần lớn tác phẩm Cội Nguồn Trật
Tự Chính Trị đã được dành để minh họa câu chuyện: bằng cách nào
"nhà nước", "pháp trị", và "trách nhiệm" tình cờ đã được
khai triển riêng rẽ trong nhiều xứ biệt lập, trước khi hội tụ ở Anh quốc
vào thế kỷ 18.
Đã từng bị lên án theo thuyết định
mệnh, giờ đây Fukuyama lại nhấn mạnh vai trò của yếu tố ngẫu nhiên. Cội
nguồn của các định chế chính trị hiện đại khá "phức tạp và mang tính
cảnh ngộ đặc thù".
Chẳng hạn, định chế đại gia đình - đã sớm mất dần ảnh hưởng ở Âu
châu hiện đại, một phần do quyền lực của Giáo Hội Trung Cổ, như một tổ
chức kinh tế tư bản đã trỗi dậy ở Ý, Anh và Hà Lan, trong thế kỷ 16 - đã
không phải khống chế sức đề kháng của các nhóm có liên hệ gia đình thân
thuộc tổ chức thành tổ hợp lớn, với tài sản kếch sù, cần được bảo vệ như
ở Ấn Độ và Trung quốc.
Fukuyama đã bác bỏ lối giải thích các
định chế xã hội và chính trị như chỉ là những hiện tượng phụ của cơ cấu
kinh tế hay công nghệ. Không ai có thể khai triển bất cứ lý thuyết có ý
nghĩa nào về quá trình phát triển chính trị mà không xem "tư tưởng"
như nguyên nhân căn bản của các dị biệt và phương hướng phát triển đặc
thù giữa các xã hội khác nhau. Nhất là không ai có thể giải thích tôn
giáo mà chỉ quan tâm đến các điều kiện vật chất hiện hữu từ trước.
Vì lý do đó, tác phẩm Cội Nguồn
Trật Tự Chính trị, cũng như các tác phẩm trước đây của Fukuyama,
không thể thích nghi với khuynh hướng đương đại nâng kinh tế tân cổ điển
lên hàng một khoa học xã hội khuôn mẫu. Khuynh hướng trí thức của
Fukuyama gần với các nhà tư tưởng lớn theo truyền thống xã hội học thế
kỷ 19 như Weber, Durkheim, và Marx, cũng như Hegel - người được Fukuyama
nhận diện như một nhà khoa học xã hội trong cuốn "Chung Cuộc của Lịch
Sử?."
Với truyền thống xã hội học, Fukuyama
chia sẻ quan điểm xem chính trị học như một sản phẩm của lịch sử và tiến
hóa, và gạt bỏ tính tuyệt đối trong tư tưởng quyền tự nhiên, và thuyết
thị trường chính thống của Locke, hay thuyết tự do Manchester. Khác với
các tác giả thuộc khuynh hướng tự do như Friedrich Hayek, tìm cách giải
thích xã hội theo Homo economicus (Kinh Tế Nhân), Fukuyama tin,
một nhà nước đủ quyền uy và có khả năng, luôn là điều kiện tiên quyết
cho một nền kinh tế tư bản thịnh vượng.
Rút tỉa từ các công trình sinh học xã
hội gần đây cũng như các phê bình lý thuyết tự do về quyền tự nhiên trừu
tượng, Fukuyama viết: "Con người không bao giờ hiện hữu trong tình
trạng tiền xã hội. Ý tưởng con người vào một thời điểm trước đây đã hiện
hữu như những cá nhân biệt lập, tương tác hoặc qua bạo lực hổn loạn
(Hobbes) hay chẳng biết đến nhau trong hòa bình (Rousseau), là sai lầm."
Tuy nhiên, nhiều người có thể nghĩ
Fukuyama đã đi quá xa trong việc coi nhẹ truyền thống quyền tự nhiên đã
là cảm hứng của lý thuyết tự do thời Phục Hưng và Khai Sáng. Ở đây, lý
thuyết duy sử của Fukuyama và việc ông nhấn mạnh chính "tư tưởng"
đã định hình trật tự chính trị, là thiếu nhất quán.
Fukuyama chấp nhận thần học Ấn Độ
Giáo (Brahma) xa xưa như một giải thích tổ chức xã hội Ấn Độ, nhưng
không chấp nhận tư tưởng của Levellers và Locke trong thế kỷ 17
đã ảnh hưởng đến các cuộc cách mạng Anh, Hoa Kỳ và Pháp. Tương tự các
nhà tư tưởng duy sử thế kỷ 19, chấp nhận phần lớn xã hội đương đại,
trong khi tìm cách truy nguyên nguồn cội các định chế Tây phương đương
đại dựa trên phong tục các bộ lạc Đức hay các tổ hợp trong xã hội
Trung Cổ, Fukuyama có lập trường bênh vực một trật tự chính trị dân chủ
trong khi lập luận các lý thuyết biện minh cho trật tự nầy , như quyền
phổ quát và cá nhân chủ nghĩa mang tính đạo đức và tri thức, là sai lầm.
Chúng ta cần chờ xem Fukuyama sẽ làm
gì với các tư tưởng định hình Chủ Thuyết Cộng Hòa của các cuộc cách mạng
Hoa Kỳ và Pháp trong tập hai được hứa hẹn.
Tóm lại, Cội Nguồn Trật Tự Chính
Trị là một nỗ lực chặt chẽ để cấu tạo một cách nhìn tổng thể về lịch
sử nhân loại qua việc tổng hợp các nghiên cứu đa ngành. Ngay những kẻ
nghi ngờ một công trình như vậy có thể thành công hay không đồng ý với
nhiều chi tiết hay kết luận đặc thù, vẫn có thể bị ấn tượng bởi tính táo
bạo của Fukuyama và cảm kích bởi các luận cứ của tác giả. Đầy tham
vọng, uyên thâm, và hùng biện, tác phẩm là một thành công lớn không thể
chối cãi bởi một thức giả đương đại.
TỪ CHUYÊN CHẾ ĐẾN DÂN CHỦ
Trong bài xã luận 1989 "Chung Cuộc
của Lịch Sử", Fukuyama đã đưa ra luận cứ: mọi dân tộc trên thế giới,
dõi theo vòng cung lịch sử hướng đến cứu cánh hay mục đích chung cuộc,
vào một thời điểm nào đó sẽ có thể ao ước tự do và xây dựng một xã hội
cơ sở trên các giá trị tự do. Từ đó, nhiều người đã chỉ trích lời tiên
đoán bằng cách nêu rõ các xung đột trong xã hội đương thời cũng như giữa
các xã hội khác nhau. Tuy nhiên sự tiên đoán chưa hề suy sụp, bởi lẽ
Fukuyama rõ ràng đã thú nhận phải mất nhiều thế kỷ trước khi các xã hội
có thể tìm được đường hướng chung. Trong lúc chờ đợi, xung đột luôn xẩy
ra, ngay cả các xung đột mang tính diệt chủng.
Một vấn đề bao quanh luận cứ chung
cuộc của lịch sử là tư tưởng chính trị nào, cấu trúc chính trị đời
thường nào, có thể phụng sự số phận hay cứu cánh của nhân loại? Vì vậy,
đó chính là động lực thúc đẩy bên sau "Cội Nguồn Trật Tự Chính Trị",
một cuộc thăm dò sâu rộng nhằm giải thích tại sao con người lại hành
động như đang làm trong địa hạt chính trị. Với uy tín học thuật và nhiều
tham vọng, tác phẩm Cội Nguồn đã rà soát lại lịch sử tổ chức và
nguyên tắc chính trị từ thời tiền sử cho đến Cách Mạng Pháp. Fukuyama đã
cho biết, những tập sau sẽ cập nhật câu chuyện cho đến thời kỳ đương
đại.
Đối với Kukuyama, chính trị mang tính
quyết định. Tác giả tin, phương cách các xã hội tự quản trị đã tạo ra
những lối đi kéo dài hàng thế kỷ, ngay cả hàng thiên niên kỷ. Khác với
các nhà tư tưởng tự do, Fukuyama không tin nhà nước là một hiện tượng
trật tự thứ yếu, đơn thuần chỉ có thể giúp hay bảo vệ những gì người dân
lựa chọn thực hiện trong xã hội dân sự, hay, trái lại, chỉ phá hoại tự
do của con người. Thay vào đó, hình thức nhà nước chọn lựa mang tầm
quan trọng hàng đầu, có thể cho phép con người tiến triển hay cản đường
một cách tàn nhẫn.
Fukuyama lên án sự mù quáng kỳ lạ của
nhiều nhà tư tưởng nghiêm túc, kể cả các kinh tế gia, đối với "tầm
quan trọng của các định chế chính trị". Chẳng hạn, tác giả ghi nhận
kẻ chinh phục nào lên nắm quyền - vào lúc nào và bằng cách nào - là
điều quan trọng đối với số phận một xã hội nhiều hơn là những đức tính
bẩm sinh của dân chúng hay một mô thức hoàn hảo quyền lợi riêng tư duy
lý các học giả ủng hộ.
Quan điểm trong tác phẩm Cội
NguồnTrật Tự Chính Trị không phải là khuynh hướng tiến bộ liên tục
và không thể tránh. Quá trình lịch sử, qua nhiều thế kỷ, có quá nhiều
đổi thay tiến thối đan xen để có thể chấp nhận một góc nhìn đơn giản như
vậy. Nhưng quả thật mãi đến ngưỡng cửa quyết định 1800, Fukuyama đã
theo dõi và nhận thức được cấu trúc trật tự chính trị hiện thực thường
khác xa chung cuộc lịch sử.
Thực vậy, đó là khoảng thời gian Cách
Mạng Kỹ Nghệ, ngay cả trong buổi ban sơ, đã giải phóng các lực lượng sản
xuất theo những phương cách chưa bao giờ có thể tưởng tượng trước đó và
đã đem lại trù phú, kể cả trong địa hạt sản xuất thực phẩm. Nhưng ngưỡng
cửa đã không ngừng ở chỗ chỉ thoát khỏi "bẩy sập đói khổ và nhân mãn
Malthus."
Fukuyama tin, trong những
năm Cách Mạng Pháp, chính trị cuối cùng đã bắt đầu hình thành trong trật
tự và bền lâu.
Trong thực tế, trật tự chính trị đã
được định hình trước đó, nhưng chỉ chập chờn và chưa trọn vẹn. Trong
nhãn quan của Fukuyama, trật tự chính trị bền lâu chỉ có thể xuất hiện,
và xã hội chỉ có thể phát triển trù phú, khi một nhà nước đã hình thành,
đã sinh hoạt trong pháp trị, và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Ông
nói, phải đợi đến ngưỡng cửa 1800 cả ba đặc tính đặc trưng vừa kể mới
xuất hiện cùng lúc.
Theo Fukuyama, ở TQ xưa cổ, chúng ta
đã tìm thấy một nhà nước hùng mạnh và đầy đủ uy quyền, cơ sở trên luật
pháp, một tập hợp những định chế, những quy luật và cấm kỵ có thể tiên
liệu - đúng hay sai, xét cho cùng, cũng là một vấn đề hoàn toàn khác. Đã
hẳn thành quả nầy đã không xuất hiện nhanh chóng, đã phải cần nhiều thế
kỷ, một lò tôi luyện thử thách, trước khi ra đời. Nhưng một khi đã xuất
hiện, nhà nước mạnh, đầy đủ uy quyền, và chịu trách nhiệm trước nhân
dân, đã thực sự trường tồn gần hai thiên niên kỷ. Dĩ nhiên, cần phải
trải qua nhiều gián đoạn, không liên tục, người dân TQ mới mong đạt được
một Nhà Nước đầy đủ trách nhiệm.
Trong thời gian thử thách, Fukuyama
lập luận, các lãnh đạo chuyên quyền và các triều đại ở TQ, trong môt
hình thức nào đó, cũng đã chịu trách nhiệm trước nhân dân, nhờ ở cơ sở
vững vàng của Khổng Giáo. Tuy vậy, luận cứ nầy ít nhiều mang tính gượng
ép. Khổng giáo rất có thể đã giúp chế ngự vài nhà lãnh đạo, nhưng sự
kiềm chế hoàn toàn dựa trên sức thuyết phục mang tính đạo đức của tư
tưởng ít nhiều mang tính tôn giáo, không phải trên nguyên tắc luật định
hay hiến định độc lập. Theo Fukuyama, sự thiếu vắng một chính quyền có
trách nhiệm chân chính đã kiềm chế TQ trong tình trạng "sinh động
ngưng trệ."
Văn hóa TQ đã mang lại nhiều tuyệt tác về nghệ thuật, văn chương, tư
tưởng, nhưng tương đối thiếu vắng triết lý tự do và tiến hóa chính trị.
Fukuyama ghi nhận một xã hội Á châu
khác - Ấn Độ, qua nhiều thế kỷ, cũng đã thành đạt một nhà nước rất gần
với dân chủ trong vùng Nam Á, dù không dễ dàng liên tục. Nhưng theo
Fukuyama, trở ngại chính là hệ thống đẳng cấp
và cành rễ của nó - một hệ thống đã che chở thần dân trước một nhà nước
chuyên chế.
Bài học lịch sử ở TQ và Ấn Độ, theo
Fukuyama, là "một hình thức tự do tốt hơn chỉ xuất hiện sau khi một
nhà nước mạnh và một xã hội mạnh đã hình thành, hai trung tâm quyền lực
có khả năng đem lại quân bình và bổ túc cho nhau."
Trách nhiệm rõ ràng là đặc tính hiếm
hoi và khó kiếm nhất để thành đạt, và theo Fukuyama, chính là đặc tính
giúp nhà nước trở thành một cái gì tốt hơn, một cơ sở vững chắc hơn, so
với một thứ công lý thô bạo, một trật tự hay mệnh lệnh độc đoán. Ông
viết: "chính quyền trách nhiệm có nghĩa người cầm quyền tin họ chịu
trách nhiệm trước nhân dân do họ quản lý và đặt quyền lợi của nhân dân
lên trên quyền lợi của chính họ."
Tư tưởng nầy cuối cùng
cũng đòi hỏi lãnh đạo phải biết tôn trọng các dân quyền căn bản của thần
dân.
Ý niệm dân quyền, theo Fukuyama, đã
diễn biến ở Âu châu, mặc dù toàn bộ các dân quyền đã phải đợi một thời
gian lâu dài trước khi bám trụ. Ông lập luận, hai dân quyền căn bản nhất
là quyền tư hữu tài sản và quyền bình đẳng trước pháp luật và công lý.
Theo ông, Anh quốc trong thế kỷ 13 là quốc gia đầu tiên đã đặc biệt công
nhận hai quyền vừa nói và mọi vi phạm có thể bị thách thức, thường khá
thành công.
Tưởng cũng cần ghi nhận tại các quốc
gia trên lục địa Âu châu, các quyền căn bản cũng đã được công nhận. Đặc
biệt là ý niệm pháp nhân, nền tảng của khế ước, hợp đồng, và sau đó,
luật thương mãi. Tuy nhiên, trên bình diện nầy, nếu Fukuyama ít lưu tâm
đến những tiến bộ trên lục địa Âu châu trong thời Trung Cổ, ông ta cũng
đã có lý do để chỉ tập trung vào Anh quốc và các xứ Bắc Âu, nơi các cấp
lãnh đạo nhìn xa thấy rộng đã vồ vập ý tưởng chính quyền chịu trách
nhiệm trước nhân dân đầu tiên. Cuối cùng, trách nhiệm khoác hình thức
không những các tòa án vô tư, công bằng, mà cả các nghị viện luôn thách
thức các quốc vương trong nhiều thế kỷ.
Trong mọi trường hợp, Fukuyama đã ghi
nhận, từ những bước đầu của quyền công dân căn bản đến nhà nước hiện đại
và dân chủ, con đường không hề thẳng tắp hay bằng phẳng.
Khác với TQ, Âu châu chỉ thống nhất
trong nhiều giai đoạn ngắn ngũi, và sự chia rẽ ly tán đã làm vẩn đục
hiện trạng và đổi thay chính trị. Một cách vắn tắt, các nhà cầm quyền
luôn tìm kiếm mọi phương tiện để tăng cường quyền hạn của chính mình, và
nhờ đó, ngăn cản các thành phần cạnh tranh và thù nghịch, trong nội bộ
cũng như từ bên ngoài.
Trong bối cảnh đó, các nhà nước Âu
châu đã tiến hóa qua nhiều hình thức chính trị và tư tưởng khác nhau.
Lần theo những diễn biến và tiến hóa ở Âu châu qua thế kỷ 17 và đầu thế
kỷ 18, Fukuyama đã nhận diện được những hình thức căn bản: chuyên
quyền tuyệt đối nhưng yếu đuối - weak absolutism, ở Tây Ban Nha và
Pháp; chuyên quyền thành công -successful absolutism, như ở Nga;
thiểu số độc quyền thất bại -failed oligarchy, ở Ba Lan; và chính
quyền trách nhiệm - accountable government, ở Anh quốc, và Fukuyama
còn liệt kê thêm một cách sai lầm: Đan Mạch. Trong thế kỷ 18, Đan Mạch
vẫn chỉ là một nhà nước chuyên quyền tuyệt đối ở Tây Âu.
Theo Fukuyama, nhà nước, để có thể
phồn vinh trong bối cảnh cạnh tranh, đòi hỏi một hình thức
"xây-dựng-nhà-nước hay state-building." Và trong trường hợp nầy,
Fukuyama đã chấp nhận những điều kiện kinh tế như một tiêu chuẩn. Ông
nói, các nhà nước có nhiều khả năng khai thác các tài nguyên kinh tế của
mình đều có thể thượng tồn; những nhà nước thiếu khả năng đã phải mai
một. Ví dụ điển hình ở đây là đế chế Pháp - một thể chế thượng tôn pháp
luật, và một chính quyền trách nhiệm, mỗi thành tố đòi hỏi quyền uy và
đặc lợi của riêng mình. Mặc dù vậy, số phận của đế chế cũng đã cáo
chung.
Theo Fukuyama, bên sau sân khấu chính
trị xuất sắc của Triều Đình Versailles và trật tự hành chính chặt chẽ,
hỗn loạn vẫn lan tràn. Nhà nước có quyền đánh thuế công dân, nhưng tầng
lớp thượng lưu, kể cả giai cấp qúy tộc xưa cũ và trưởng giả hay viên
chức công mới, đã tìm được nhiều phương cách tránh thuế . Giới thượng
lưu lãnh đạo cũng đã không thể tìm được một ý tưởng cải cách tối cần cho
hệ thống.
Kết quả là sụp đổ, nhường chỗ cho
Cách Mạng Pháp, đưa đến một dạng thức nhà nước hữu hiệu hơn. Mô hình mới
nầy, có thể đánh thuế, huy động và trừng phạt tới mức chưa bao giờ thấy
ở Âu châu, gây sốc đối với các chính quyền lân cận buộc họ phải tự canh
tân để thượng tồn. Và chúng ta đã tiến đến ngưỡng cửa hiện đại và một
hình thức chính quyền hiện đại, với kỹ thuật và tổ chức hành chính tân
tiến quen thuộc hiện nay.
Fukuyama chấm dứt cuốn "Cội Nguồn
Trật Tự Chính Trị" với giọng điệu ôn hòa. Theo ông, các nền dân chủ
tự do hiện nay, đặc biệt là Hoa Kỳ, trong hai thế kỷ vừa qua, đã
thành công trong nỗ lực khám phá một thế quân bình vững chắc - cân bằng
quyền lực nhà nước, tình trạng pháp trị, và tinh thần trách nhiệm trước
nhân dân. Tuy nhiên, thành công trong hiện tại, Fukuyama cảnh cáo,
không bảo đảm được thành công trong tương lai.
Ngược lai, Fukuyama nói: "một xã
hội hùng mạnh, ưu việt trong một kỷ nguyên - như TQ trong thế kỷ thứ 7 -
rất có thể cũng là một xã hội suy sụp trong một kỷ nguyên khác.Theo
ông, tính chính đáng tương lai tùy thuộc ở khả năng duy trì một thế cân
bằng thích hợp giữa hành động mạnh mẽ của nhà nước khi cần và những thứ
tự do cá nhân nền tảng của dân chủ cũng như thuận lợi cho sự tăng trưởng
của khu vực tư.
Để kết luận, Fukuyama hình như đã tỏ
ra quá tự tôn với mô hình dân chủ tự do của Mỹ, một mô hình cơ sở trên
nguyên tắc phân quyền giữa ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, kiểm
soát lẫn nhau và bổ túc cho nhau. Mô hình nầy, trên hình thức, có vẻ khá
dân chủ và tự do. Tuy nhiên, thực tế lịch sử trong suốt hai thế kỷ gần
đây đã khiến nhiều nhà quan sát quốc tế tỏ ra ngày một dè dặt.
Thực vậy, nếu gạt qua một bên giá trị
tuyên truyền như những mỹ từ, những khẩu hiệu hay chiêu bài chính trị,
mô hình, trong thực tế, cũng chỉ là một lớp vỏ rỗng ruột. Hay cụ thể
hơn, giá trị dân chủ và tự do của mô hình Hoa Kỳ phải được hiểu theo
quan điểm của giới thượng lưu hay tài chánh ngân hàng Wall Street, trên
dưới 1% dân Mỹ, không phải quan điểm của đại đa số nhân dân, nói gì đến
thế giới bên ngoài. Nói một cách khác, trong cấu trúc chính trị hiện nay
của Hoa Kỳ, cả ba ngành hành pháp, lập pháp, và tư pháp từ lâu đã chỉ
đại diện cho quyền lợi của một phần trăm giàu có trên đỉnh cao xã hội.
Tuy nhiên, với tiến bộ trong ngành
giáo dục trên khắp thế giới, và với cách mạng truyền thông hiện nay,
chúng ta vẫn có quyền tin tưởng ở một tương lai sáng sủa, hòa bình, và
thịnh vượng, cho nhân dân Hoa Kỳ, và cho nhân loại nói chung.
© Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
12-7-2011
|