Những bài cùng tác giả

Bàn về bài nói chuyện của
Tổng Thống Barack Obama thứ năm tuần trước, David Bromwich viết:
"Obama luôn ưa thích quyền uy tượng trưng của cách phát biểu
hơn là quyền uy thực sự của một sách lược được đạo diễn tốt - một chính sách
với đầy đủ chi tiết, cẩn trọng theo đuổi, và mang dấu ấn ý định của chính
mình."
Thực vậy, sau một tuần lễ theo dõi đấu quyền Anh tưởng tượng giữa T T Obama
và Thủ Tướng Netanyahu chẳng đem lại một tiến bộ cụ thể nào trong nỗ lực tìm
kiếm hòa bình cho xung đột Do Thái-Palestine, thiết tưởng Tổng Thống cần từ
bỏ những chiêu bài, những mỹ từ chính trị, thay vào đó, nên chú tâm vào sự
thật đơn thuần. Thực vậy, đây là một nhu cầu thiết yếu.
XUNG ĐỘT DOTHÁI-PALESTINE

Tìm chân lý luôn khó khăn và
thiếu thoải mái. Lời kêu gọi với những rào đón cẩn thận của T T Obama về
giải pháp hai nhà nước cơ sở trên các đường biên 1967 quả thực có thể là
một bước tiến mới. Đề xuất cũng rất có thể trở thành một phần trong kế hoạch
dài hạn nào đó có cơ may thành tựu. Tuy nhiên, điều quan trọng là cho đến
nay Obama vẫn chưa cho thấy khả năng hậu thuẩn lời nói của mình với quyền
lực chính quyền Hoa Kỳ có thể đang nắm giữ. Trong lúc chờ đợi, diễn văn của
Tổng Thống sẽ khó lòng đem lại bất cứ một thay đổi nào trong tình trạng áp
đảo của Do Thái đối với người Palestine.
Và Sever Plocker, một nhà bình
luận Do Thái có thẩm quyền, còn nêu ra một vấn đề sâu xa hơn:
"Tổng Thống Hoa Kỳ rõ ràng đã chấp nhận cốt lõi của tự truyện
Israeli-Zionist."
Plocker cũng đã có thể nói như vậy đối với các lãnh đạo chính trị gộc và các
cơ quan truyền thông Hoa Kỳ. Chuyện kể của người Mỹ về vấn đề xung đột Do
Thái-Palestine cũng giống hệt tự truyện của chính người Do Thái.
THỰC TẾ HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC
Chúng ta cần phải trung thực.
Truyện kể của người Do Thái không những bóp méo sự thật, mà còn hoàn toàn
xuyên tạc chân lý. Điều éo le là những gì người Do Thái nói về người
Palestine là một mô tả trung thực về chính người Do Thái.
Người Do Thái cũng có thể nhìn
chính họ trong gương và nói về chính họ khi nói những điều như
"chúng là kẻ xâm lăng; chúng tôi là nạn nhân chỉ tự vệ."
Đó là một phần trong chuyện kể hoang đường về an ninh do
người Do Thái đã tự tạo với tiền đề: Do Thái đang đối diện với mọi nguy cơ
trong cuộc xung đột với người Palestine. Obama đã cả tin chuyện kể hoang
đường vừa nói trong bài nói chuyện "Mùa Xuân A Rập" khi ông kêu gọi
một sự trao đổi cân bằng: người Palestine có thể có được một nhà nước và
người Do Thái có thể có được an ninh, tựa hồ như người Do Thái với lực lượng
áp đảo là nạn nhân của tình trạng mất an ninh.
Trong những ngày kế tiếp,
Obama đã lặp lại cùng lời rao giảng quen thuộc "Cam kết của chúng tôi đối
với vấn đề an ninh của Do Thái là không thể lay chuyển," và còn đưa ra
lời cảnh cáo mập mờ "kỷ thuật sẽ làm cho Do Thái
khó tự bảo vệ hơn."
Có lẽ đây là mật mã ám chỉ một ngày nào đó một xứ Trung Đông nào đó có thể
có được vũ khí nguyên tử, tựa như bất cứ xứ Trung Đông nào cũng có thể đe
dọa Do Thái, một xứ đã sở hữu khoảng 200 vũ khí nguyên tử và luôn có thể sản
xuất thêm.
Obama cũng đã nhắc đến điều
ông gọi là "giả thiết về an ninh của người
Palestine."
Đó là cách người Do Thái diễn tả hy vọng lâu nay: cảnh sát Palestine sẽ
trở thành điều Netanyahu có lần đã gọi là những "nhà thầu phụ của Do Thái -
Israel's sub-contractors," thay thế quân đội Do Thái dẹp mọi kháng chiến
chống lại Do Thái và chính sách của Do Thái. Một lần nữa, tiền đề là Do Thái
phải gánh chịu mọi nguy cơ.
Tuy nhiên, trong thực tế,
người Palestine luôn chịu nguy cơ bất an ninh hơn người Do Thái. Cũng như
các nạn nhân của thực dân chiếm đóng quân sự khác, người Palestine luôn chịu
thương vong và tàn phá không báo trước, tùy sở thích của giới quân sự và dân
định cư Do Thái. Trong hơn một phần tư thế kỷ vừa qua, cứ mỗi người Do Thái
thương vong, 11 người Palestine đã bị tử thương trong cuộc xung đột. Và
không một ai trong chúng ta đã có thể chờ đợi một câu như sau trong diễn văn
của một chính trị gia Hoa Kỳ: "Cam kết của chúng
tôi đối với an ninh Palestine là không thể lay chuyển."
Obama đã từng tuyên bố mọi
quốc gia đều có quyền tự vệ. Tuy nhiên, liền sau đó, Obama lại nhấn mạnh:
nhà nước Palestine mới sẽ không được quyền có quân đội. Liệu có quốc gia
nào có thể chấp nhận điều kiện đó, nhất là khi xứ láng giềng kế cận đang có
lực lượng quân sự mạnh nhất trong khu vực, và trong nhiều năm đã luôn giữ
vai trò áp đảo và tấn công ? Tuy vậy, ý niệm một nhà nước Palestine phi quân
sự là một điều đương nhiên đối với Hoa Kỳ và Do Thái, tuồng như mối đe dọa
duy nhất trong tương lai chỉ có thể đến từ người bị chiếm đóng, không phải
từ người đi xâm chiếm.
Tình trạng bất quân bình quyền
lực lớn lao giữa người xâm chiếm và người bị chiếm đóng đưa đến một sự thật
méo mó xuyên tạc bởi "tác dụng gương soi" chi phối mọi diễn đàn của
người Mỹ về đề tài Do Thái-Palestine: ý niệm phi lý
hai bên có thể thương thuyết bình đẳng, khi kẻ yếu trong hai bên từ trước đã
phải từ bỏ khoảng 78% lãnh thổ, nay còn phải nhượng bộ nhiều hơn, để rồi
phải sinh hoạt như một quốc gia hoàn toàn yếu kém và thất thế.
Trong một cuộc gặp mặt riêng
với các lãnh đạo Do Thái, Obama được biết đã nói ông thực sự hiểu rõ tình
hình: "Do Thái là phía mạnh hơn hiện nay... Và
DoThái cần phải tạo môi trường để thể hiện [hòa bình]."
Nhưng chừng nào những lời tuyên bố công khai của ông còn tăng cường câu
chuyện hoang đường thiếu an ninh của Do Thái, người Do Thái còn có thể an
toàn đề kháng mọi đòi hỏi phải thay đổi.
HÃY NHÌN VÀO GƯƠNG SOI
Người Do Thái biện minh cho
lập trường bất di dịch của mình với một hình ảnh gương soi méo mó khác:
"Chúng tôi muốn hòa bình hơn bất cứ gì, nhưng họ
[người Palestine] không thích hòa bình."
Người Do Thái luôn thích lặp lại một sáo ngữ sáng tạo cách đây nhiều thập kỷ
bởi nguyên ngoại trưởng Abba Eban của họ khi nói về các lãnh đạo A
Rập: "Họ không bao giờ bỏ qua một cơ hội để bỏ qua
một cơ hội hòa bình."
Trong thực tế, chính người
Palestine là phía phải nói lên lời than phiền đó với người Do Thái. "Cánh
hữu Do Thái cần chiến tranh triền miên" là phương cách tóm tắt tình
hình của một trí thức Do Thái lừng danh, Zeev Sternhell. Netanyahu, cũng như
tất cả các lãnh đạo cánh hữu Do Thái, trong thực tế, đã xây dựng sự nghiệp
của ông trên hình ảnh một chính trị gia diều hâu cực đoan khi nói đến người
Palestine. Với các cử tri Do Thái ngày một thiên hữu nhiều hơn trong thế kỷ
21, hình ảnh đó đã rất hữu ích cho Netanyahu hơn bất cứ lúc nào. Vì vậy,
ngay cả khi Netanyahu lên tiếng biện hộ cho sự nghiệp hòa bình, ông ta luôn
tỏ rõ không thiết tha chút nào trong việc mưu cầu chấm dứt xung đột thực sự
- và chương trình liên tục xây dựng các khu định cư ở Đông Jerusalem và khu
chiếm đóng West Bank luôn bảo đảm xung đột sẽ tiếp diễn.
Tuy nhiên, như sự việc đang
diễn tiến, nhu cầu một kẻ thù, và do đó, một xung đột tiếp diễn, không chỉ
hạn chế riêng trong phe chính trị cánh hữu hay các người chủ trương bành
trướng chương trình định cư. Như Theodore Herzl đã viết trong văn kiện sáng
lập chủ nghĩa phục quốc Zionism, "Kẻ thù của
chúng tôi đã giúp chúng tôi hợp nhất, và, vì vậy, đoàn kết, chúng tôi đột
nhiên khám phá sức mạnh của chúng tôi, 'Quốc Gia Do Thái'."
Và các nhà bình luận DoThái nhạy cảm trong nhiều năm đã đặt câu hỏi điều gì
đã có thể giúp kết hợp giữa các người Do Thái nếu họ không có kẻ thù A Rập
hay Palestine chung. Theo Awraham Burg, nguyên chủ tịch Quốc Hội Do Thái, đó
vẫn là câu hỏi định hình tất cả các người Do Thái:
"Có thể nào chúng ta tiếp tục tồn tại nếu không có kẻ đối nghịch truyền
kiếp, nếu không là nạn nhân luôn bị ngược đãi?"
Một sự thật đáng buồn! Đối với hầu hết các người Do Thái,
câu trả lời hình như là: không. Một nhà bình luận Do Thái nổi tiếng của tờ
Jerusalem Post đã có câu trả lời hay nhất: "Người
Do Thái sẽ nổi giận khi anh bảo họ chúng ta không cần phải tiếp tục theo
đuổi chiến tranh, chúng ta đủ hùng mạnh để làm nản lòng kẻ thù của chúng ta
... Họ không muốn nghe gì về khả năng hòa bình...Tất cả những gì họ muốn
nghe là ein breira, chúng tôi không có sự lựa chọn, hoặc chiến đấu hoặc
chết."
Theo lời các biên tập viên tờ
báo uy tín nhất của Do Thái, Haaretz, đời sống chính trị của Do Thái luôn
mang dấu ấn một ám ảnh thực sự, "một ý thức chúng
tôi luôn bị tấn công... một ý nghĩ điên rồ bị ngược đãi."
Đã hẳn, đó là câu chuyện xưa
cũ. Một bài bình luận trên tờ Haaretz đã ghi nhận:
"Lập trường của Do Thái ngày nay cũng tương tự như lập trường sau các cuộc
chiến tranh 1948 và 1967. Tiềm năng thương thuyết có đấy, nhưng cái giá
[chính trị] phải trả được xem như quá cao. Ngày nay, cũng vậy, duy trì hiện
trạng hình như được xem có lợi hơn là thay đổi người Do Thái luôn cảm nhận
như nguy hiểm, ngay cả khi thay đổi không nhất thiết đem lại hiểm nguy thực
sự."
Sự giải hòa gần đây giữa Hamas
và Fatah đã khiến người Do Thái cảm nhận như một nguy cơ tưởng tượng mới để
thêm âu lo. Tin tức về sự nhất trí giữa người Palestine đã phát động một đợt
sóng thần trong công luận Do Thái, một làn sóng cảnh cáo một hệ ý thức
thần quyền cực hữu có thể dễ dàng kiểm soát nhà nước Palestine. T T
Obama đã thêm dầu vào lửa khi nói "Hamas đã và hiện
đang là một tổ chức từng sử dụng khủng bố; đã từ chối công nhận quyền hiện
hữu của Do Thái. Hamas không phải là một đối tác trong quá trình hòa bình
thực tiển và có ý nghĩa."
Netanyahu đáp lời:
"Do Thái rõ ràng không thể bị đòi hỏi phải thương thuyết với
một chính quyền được hậu thuẩn bởi một hình thái al Qaeda của Palestine."
Đây cũng là một trường hợp
khác người Do Thái đang tự thấy mình trong gương. Trong thực tế, Hamas đã
liên tục chuyển đổi qua hình thức: chủ nghĩa quốc gia thế quyền ngày một
ôn hòa hơn về chính trị. Nhà cầm quyền Hamas ở giải Gaza luôn bận rộn
đối phó với các đe dọa và khinh rẽ từ những phần tử thần quyền Hồi giáo cánh
hữu. Những đợt tấn công bằng tên lửa hiếm hoi vào Do Thái hiện nay chỉ là
phản ứng trả đũa sau các cuộc tấn công của Do Thái.
Lãnh tụ Hamas Khaled
Meshaal trong nhiều năm nay đã luôn nói rõ: ông và đảng Hamas muốn
tuyệt đối chấp nhận giải pháp hai nhà nước - mặc nhiên chấp nhận sự hiện
hữu thường trực của Do Thái - chừng nào đa số người Palestine chấp thuận.
Meshaal nay còn nói đến "hòa bình" thay vì "đình chiến" và
xem hiến chương Hamas, kêu gọi tiêu diệt Do Thái,
không còn thích hợp.
Riêng đối với vấn đề công nhận
tối quan trọng, chính Do Thái đang từ chối công nhận Hamas như một chính
đảng hay quyền của người Palestine lựa chọn một nhà nước dân chủ và chính
quyền riêng của mình. Trong lúc đó, chính quyền Do Thái đã làm chính những
điều họ lên án Hamas - mở rộng cánh cữa đón nhận các luật lệ ngày một mang
tính thần quyền, phản động, phân biệt chủng tộc. "Các cuộc thăm dò công
luận cho thấy khuynh hướng ngày một cực đoan, gần như phân biệt chủng tộc,
trong thiên kiến của dân Do Thái đối với người A Rập, như tờ Haaretz đã
ghi nhận, vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi
không có áp lực quần chúng buộc chính quyền phải thúc đẩy quá trình hòa
bình."
Hiện thế giới đang chờ đợi,
vào tháng 9 sắp tới, Đại Hội Đồng LHQ sẽ bỏ phiếu chấp thuận ban quy chế một
quốc gia với đầy đủ chủ quyền cho Palestine. Trong bài nói chuyện trước Quốc
hội, Obama đã lặp lại như một âm vang giọng điệu của Israel: "hành động
thúc đẩy LHQ công nhận Palestine như một quốc gia thành viên mới sẽ phương
hại cơ may mang lại hòa bình." Trong thực tế, cuộc biểu quyết có thể
phát huy tiến trình hòa bình qua áp lực dồn đẩy Do Thái luôn giữ lập trường
phủ định đến gần điều Do Thái hiện đang âu lo nhất:
cuối cùng rồi tiếng nói bất khả đề kháng của thế giới buộc phải thương nghị
hòa bình thay vì trở thành một quốc gia ngoài vòng pháp luật hay bị bỏ rơi.
Một điểm sau cùng Obama và
chính quyền Hoa Kỳ tuyệt đối đang đi ngược chiều lịch sử: ý niệm bạn của
Do Thái có nghĩa phải tán đồng tự truyện hoang tưởng của người Do Thái.
Bạn thân không có quyền giúp bạn mình đi vào con đường tự diệt. Bạn tốt
không thể để bạn mình say sưa một câu chuyện hoang đường, một ảo tưởng, đến
độ không còn biết ăn năn hối tiếc khi tiếp tục lèo lái tiến trình hòa bình
xuống vực thẳm.
Hoa Kỳ có đủ quyền lực để đẩy
Do Thái ra xa vực thẳm và đổi qua một hướng đi mới. Câu nói đùa phổ thông
của người Do Thái cũng mang một sự thật: Hoa Kỳ là
"con voi tám tấn có thể ngồi xuống nơi nào nó muốn."
Vâng, Obama có thể ngồi xuống
bất cứ nơi nào ông ta muốn. Và Do Thái rất có thể phải rời khỏi thế giới
gương soi và phải chấp thuận bắt đầu thương nghị hòa bình một cách
nghiêm túc.
THAY LỜI KẾT LUẬN
Trong vòng một tuần lễ trong
tháng 5-2011, T T Obama và Thủ Tướng Do Thái Netanyahu mỗi người đã có dịp
nói về cùng một câu chuyện ít nhất hai lần. Ngày 17-5, T T Obama đã có bài
nói chuyện về - Mùa Xuân A Rập - Arab Spring, sau một cuộc điện đàm
sôi nổi giữa Netanyahu và ngoại trưởng Hillary Clinton. Trong bài diễn văn,
Tổng Thống đã nói: "Chúng tôi tin biên giới của Do
Thái và Palestine cần được cơ sở trên những đường phân ranh 1967 với ít
nhiều trao đổi tương thuận, ngõ hầu thiết lập biên giới an toàn và được công
nhận cho cả hai nhà nước."
Và một bảo tố bình luận bùng
nổ. Mặc dù, người ta tin, đây là một lập trường đã được đồng thuận riêng tư
từ lâu của tổng thống Hoa Kỳ, nhưng chưa bao giờ được công bố bởi một tổng
thống (hay có lẽ bất cứ một quan chức cao cấp Hoa Kỳ nào). Báo chí cho biết
Netanyahu đã phản ứng giận dữ, và ngay ngày hôm sau, 18-5-2011, được biết đã
lớn tiếng - với một Obama lễ độ nhưng lộ vẻ thiếu thoải mái trước ống kính
trong Tòa Bạch Ốc - thuyết giảng về tính bất khả tự vệ của các đường phân
ranh 1967. Tuy nhiên, vào ngày chủ nhật, 20-5, Obama đã xuất hiện trước
AIPAC - nhóm vận động hành lang ồn ào thân Do Thái - với một bài nói chuyện
lặp lại lập trường đối với các đường biên giới 1967, nhưng cũng với ít
nhiều dè dặt.
Ngày thứ hai tiếp theo
((21-5), Netanyahu cũng xuất hiện, và được hoan hô nhiệt liệt, trước cùng
nhóm vận động hành lang, để lặp lại lập trường của mình về
tính-bất-khả-bảo-vệ của đường biên giới. Ngày thứ ba (22-5), do sáng kiến
khởi động bởi các lãnh đạo Cộng Hòa Hạ Viện, Netanyahu lại được mời xuất
hiện trước Lưỡng Viện Quốc Hội, rõ ràng là để làm bẻ mặt và gây bối rối cho
Tổng Thống Obama. Một lần nữa, Netanyahu, dĩ nhiên, đã được dành 29 đợt tung
hô, tán thưởng - standing ovations.
Đây là vụ va chạm giữa hai
khổng lồ về một dị biệt, cơ bản đến độ, vào tháng 11-2010, cả hai chính phủ
trên lý thuyết đã nhất trí. Chris Nelson, chủ biên bản tin Hoa Thịnh
Đốn The Nelson Report, vừa mới tìm thấy một tuyên bố chung - joint
statement - được đồng ý và công bố sau khi Netanyahu gặp mặt ngoại trưởng
Hillary Clinton tháng 11-2010, trong đó có câu:
"Thủ Tướng và Ngoại Trưởng nhất trí về tầm quan trọng tiếp tục thương nghị
trực tiếp để thành đạt các mục tiêu của chúng ta. Ngoại Trưởng đã lặp lại
Hoa Kỳ tin tưởng qua các cuộc thương nghị với thiện chí, các bên có thể đồng
ý trên kết quả chấm dứt xung đột và hòa đồng mục tiêu của Do Thái về một nhà
nước độc lập và khả tồn, trên cơ sở các ranh giới 1967, với những trao đổi
được đồng thuận, và mục tiêu của Do Thái về một nhà nước Do Thái với biên
giới an toàn và được công nhận, phản ảnh những triển khai kế tiếp và thỏa
mãn các đòi hỏi an ninh của Do Thái."
Không la ó. Không than phiền.
Không lớn tiếng. Không gì hết.
Ồn ào, lớn tiếng, giận dữ rất
có thể chẳng có ý nghĩa gì. Không phải chỉ những gì Tổng Thống nói, mà những
gì Tổng Thống làm mới đáng kể. Và khi nói đến việc làm, với George Mitchell,
đặc phái viên Trung Đông của Obama (bổ nhiệm vào ngày thứ hai sau khi bắt
đầu nhiệm kỳ), đột nhiên từ nhiệm - vì bức xúc, vì thất vọng, hay vì ghê
tởm, chúng ta không hề biết. Cũng chẳng có dấu hiệu tổng thống sẽ làm bất cứ
điều gì liên quan đến các đường biên giới 1967, ít ra trước cuộc bầu cử
2012.
©
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
02-6-201
Obama has
always preferred the symbolic authority of the grand utterance to
the actual authority of a directed policy - a policy fought for in
particulars, carefully sustained, and traceable to his own
intentions.
The
American president has unequivocally adopted the essence of the
Israeli-Zionist narrative.
They are
the aggressors; we're the victims just defending ourselves.
"Our
commitment to Israel's security is unshakeable" and offered a vague
warning that "technology will make it harder for Israel to defend
themselves."
The
assumption of Palestinian security.
Our
commitment to Palestine's security is unshakeable.
Israel is
the stronger party here... And Israel needs to create the context
for[peace] to happen.
We want
peace more than anything, but they have no interest in peace.
Abba
Eban: "They never miss a chance to miss a chance for peace."
Our
enemies have made us one, and, thus united, we suddenly discover our
strength,"The Jews State".
Can we
continue to exist without a perennial adversary, without being
victims of persecution?
Israelis
get mad when you tell them we don't have to keep going to war, that
we're strong enough to deter our enemies... People don't want to
hear anything about possibilities for peace... All they want to hear
is ein breira, we have no choice, it's either fight or die.
...a
sense that we are constantly under attack...an insanity of
persecution.
Israel's
position taday is similar to its position after the wars of 1948 and
of 1967. The potential for negotiations was there, but the
[political ] cost was considered too high. Now, too, maintaining the
status quo appears to be preferable to making change that Israelis
perceive as threatening, even if they do not necessarily pose a
genuine danger.
President Obama: "Hamas has been and is an organization that has
resorted to terror; that has refused to acknowledge Israel's right
to exist. It is not a partner for a significant , realistic peace
process."
Netanyahu: "Israel obviously cannot be asked to negotiate with a
government that is backed by the Palestinian version of al Qaeda."
Public
opinion polls point to increasing extremism, bordering on racism, in
Jews' opinion of Arabs, so it's no wonder there is no public
pressure on the government to advance the peace process.
The U.S.
is the eight-ton elephant that can sit down anywhere it wishes.
We
believe the borders of Israel and Palestine should be based on the
1967 lines with mutually agreed swaps, so that secure and recognized
borders are established for both states.
The
Prime Minister and the Secretary agreed on the importance of
continuing direct negotiations to achieve our goals. The Secretary
reiterated that the United States believes that through good faith
negotiations, the parties can mutually agree on an outcome which
ends the conflict and reconciles the Palestinian goal of an
independent and viable state, based on the 1967 lines, with agreed
swaps, and the Israeli goal of a Jewish state with secure and
recognized borders that reflect subsequent developments and meet
Israeli security requirements.
|