Do một tình cờ lịch sử ít nhiều
mang tính nhân quả, hai đợt biến cố kế tiếp đã phơi bày trần trụi
cấu trúc quyền lực toàn cầu của Hoa Thịnh Đốn. Tháng 11-2010, WikiLeaks
đã tung ra những mẩu vụn thông tin từ công điện các tòa đại
sứ Hoa Kỳ với lời bình thô lổ về giới lãnh đạo từ Argentina đến
Zimbabwe, trên trang đầu báo chí thế giới. Vài tuần sau đó, nhiều
đợt biểu tình đòi dân chủ và lật đổ các chế độ thân Mỹ, với đầy
đủ chi tiết minh chứng từ các công điện liên hệ - được biết dưới
nhiều danh hiệu: Mùa Xuân A Rập, Cách Mạng Dân Chủ, hay Biến
Động Bắc Phi và Trung Đông.
Trong chốc lát, thế giới đã
có thể nhận chân nền móng trật tự thế giới của Hoa Kỳ đã dựa trên
giới lãnh đạo các quốc gia khách hàng trong cương vị những thượng
lưu quí tộc tay sai - trong thực tế, là những đại diện chuyên quyền,
tư sản, hay độc tài quân sự. Người ta cũng thấy rõ tổng quan
logic trong việc lựa chọn chính sách ngoại giao khó thể
giải thích của Hoa Kỳ trong hơn nửa thế kỷ.
Người ta có thể tự hỏi, ngay
trong lòng chiến tranh lạnh, năm 1965, tại sao CIA lại có thể chấp
nhận bất trắc và thị phi trong quyết định lật đổ một lãnh tụ được
chấp nhận như Sukarno ở Indonesia, hay năm 1963, công khai cổ vũ
ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm do chính Hoa Kỳ đã tạo dựng
và bảo trợ ở Sài Gòn? Câu trả lời - nay đã khá rõ ràng nhờ WikiLeaks
và các biến động gần đây trong thế giới A Rập - là cả hai
đều chỉ là những đại diện thuộc quyền được Hoa Thịnh Đốn chọn lựa
cho đến khi tỏ ra bất lực, bất phục tùng, và không còn cần thiết
hay có thể loại bỏ.
Tại sao, nửa thế kỷ sau, Hoa
Thịnh Đốn lại có thể phủ nhận chiêu bài dân chủ qua việc
hậu thuẩn Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak chống lại hàng triệu người
biểu tình, để rồi khi Mubarak lúng túng giao động, lại gây áp lực
tạm thời thay thế, ít ra lúc đầu, với Omar Suleiman, người đứng
đầu ngành tình báo của chính Mubarak, người được biết đến với các
cơ sở tra tấn (từng cho phép Hoa Thịnh Đốn sử dụng)? Câu trả lời,
một lần nữa: vì cả hai đều là tay chân đáng tin cậy đã phục vụ quyền
lợi Hoa Kỳ khá dài lâu và đắc lực trong một quốc gia "đồng minh
A Rập" then chốt.
Trong toàn vùng Trung Đông mở
rộng từ Tunisia và Ai Cập đến Bahrain và Yemen, phong trào dân chủ
đang đe dọa quét sạch giới lãnh đạo tay chân thiết yếu của đế quốc
Hoa Kỳ. Thực vậy, Hoa Thịnh Đốn hiện đang nương tựa trên các đại
diện đáng tin cậy ở địa phương làm trung gian thể hiện quyền lực
toàn cầu của Mỹ trong vai trò kiểm soát dân bản xứ. Đối với một
đế quốc, một khi các lãnh đạo đại diện bắt đầu nao núng, không
còn triệt để trung thành, hay theo đuổi nghị trình riêng, cũng chính
là lúc đế quốc đang trên đường tàn lụi.
Nếu cách mạng nhung
lan tràn ở Đông Âu năm 1989 đã là tiếng chuông báo tử của đế quốc
Xô Viết, các cuộc cách mạng hoa nhài hiện nay đang tiếp diễn
ở Trung Đông có thể là sự khởi đầu của thời kỳ sụp đổ của uy lực
toàn cầu của Mỹ.
PHE QUÂN SỰ LÊN NẮM QUYỀN
Để hiểu rõ vai trò quan trọng
của giới lãnh đạo địa phương, tưởng cần phải nhìn lại những ngày
đầu của Chiến Tranh Lạnh khi Tòa Bạch Ốc đang cấp thiết tìm mọi
cách chận đứng làn sóng thân Cộng và chống Mỹ. Tháng 12 năm 1954,
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC), trong nhiều phiên họp tại Tòa Bạch
Ốc, đã nổ lực soạn thảo kế hoạch chế ngự các lực lượng quốc gia
ngày một hùng mạnh và lan tràn khắp địa cầu.
Ở Á châu và Phi châu, các đế
quốc Âu châu, đã bảo đảm trật tự toàn cầu trong hơn một thế kỷ trước
đó, đang phải nhường chỗ cho sự ra đời của 100 quốc gia mới, phần
lớn, theo Hoa Thịnh Đốn, đang bị cộng sản khuynh loát. Châu Mỹ La
Tinh cũng đang sôi động với lực lượng đối lập thiên tả, chống đối
tình trạng nghèo khó trong đô thị và thiếu đất đai canh tác ở nông
thôn.
Sau khi tái duyệt các đe dọa
người Mỹ đang phải đối diện ở Châu Mỹ La Tinh, Bộ Trưởng Ngân Khố
đầy quyền lực, George Humphrey, đã thông báo cho các đồng sự
trong NSC là họ cần "tránh nói nhiều về dân chủ", và thay
vào đó, "phải hậu thuẩn các chế độ độc tài cánh hữu nếu những
chế độ nầy thân Mỹ"[1].
Vào chính lúc đó, Dwight Eisenhower, luôn nhạy bén về chiến lược,
lập tức can thiệp để xác định quả thật Humphrey muốn nói: "các
nhà lãnh đạo đó cũng chấp nhận được nếu họ là những tên vô
lại của chính chúng ta."[2]
Đó là thời điểm cần ghi nhớ,
vì Tổng Thống Hoa Kỳ đã mô tả hệ thống thuộc địa toàn cầu hết sức
rõ ràng: sẵn sàng gạt qua một bên các nguyên tắc dân chủ,
Hoa Thịnh Đốn sẽ thực nghiệm trong vòng 50 năm tới chính sách
chính trị thực dụng cứng rắn - "a tough realpolitik policy",
hậu thuẩn bất cứ lãnh đạo nào đáng tin cậy, nhờ đó, xây dựng một
mạng lưới lãnh đạo toàn cầu sẵn sàng đặt quyền
lợi của Hoa Thịnh Đốn lên trên quyền lợi của quốc
gia khách hàng .
Trong suốt thời kỳ chiến tranh
lạnh, Hoa Kỳ luôn hậu thuẩn phe quân sự ở châu Mỹ La Tinh, phe quí
tộc chuyên chế ở Trung Đông, và các nhà dân chủ và độc tài ở Á châu.
Năm 1958, nhiều cuộc đảo chính quân sự ở Thái Lan và Iraq đột nhiên
đưa giới quân sự trong thế giới thứ ba lên vai trò lãnh đạo. Chính
vào lúc ấy, chính quyền Eisenhower đã quyết định đưa các viên chức
quân sự cao cấp nước ngoài vào Mỹ thụ huấn nhằm làm dễ dàng "việc
quản lý các lực-lượng-muốn-thay-đổi " --"the management of the forces
of change" -- xuất hiện trong quá trình trổi dậy của các
quốc gia đang lên. Vì vậy, Hoa Thịnh Đốn đã rót viện trợ quân sự
vào các chương trình vun quén quân lực các đồng minh và đồng minh
tiềm năng trên khắp thế giới, trong khi các phái bộ huấn luyện đã
được sử dụng nhằm tạo dựng những quan hệ nòng cốt giữa giới quân
sự Hoa Kỳ và các cấp sĩ quan trong quân lực nhiều quốc gia trên
thế giới hay trong những xứ giới lãnh đạo thượng lưu quí tộc không
mấy trung thành, với mục đích giúp nhận diện các lãnh đạo thay thế
trong tương lai.
Mỗi khi giới lãnh đạo dân sự
chứng tỏ không phục tùng, Cơ Quan Tình Báo Trung Ương
(CIA) liền bắt tay vào việc tổ chức đảo chánh nhằm thiết lập
các lãnh đạo quân sự tin cẩn kế tiếp: thay thế Thủ Tướng Iran
Mohammad Mossadeq, người đã tìm cách quốc hữu hóa tài nguyên dầu
khí, với tướng Fazlollah Zahedi, rồi với quốc vương Ba Tư - Shah
of Iran, năm 1953; Tổng Thống Sukarno với tướng Suharto ở
Indonesia trong thập kỷ kế tiếp; và Tổng Thống Ngô đình Diệm với
nhóm tướng lãnh Dương văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn văn Thiệu,
Nguyễn cao Kỳ...ở Nam Việt Nam năm 1963; và cố nhiên Tổng Thống
Salvador Allende với tướng Augusto Pinochet ở Chí Lợi năm 1973
- bốn trong số các cuộc đảo chánh như thế vào thời ấy.
Trong những năm đầu thế kỷ 21,
sự tin tưởng của Hoa Thịnh Đốn ở giới quân sự trong các xứ khách
hàng chỉ có thể gia tăng. Chẳng hạn, Hoa Kỳ đã tung 1,3 tỉ USD viện
trợ cho giới quân sự Ai Cập mỗi năm, nhưng chỉ đầu tư 250 triệu
trong các chương trình phát triển kinh tế. Vì vậy, khi cách mạng
dân chủ làm lung lay chế độ ở Cairo tháng giêng vừa qua, như
báo The New York Times đã tường trình, số đầu tư trong 30 năm qua
đã đem lại hiệu quả, khi các tướng lãnh và quan chức tình báo Mỹ
đã thành công trong việc lặng lẻ kêu gọi và thúc dục các lãnh đạo
quân sự đối tác yểm trợ quản lý quá trình chuyển tiếp hòa bình.
Ở các xứ Trung Đông khác, từ
thập kỷ 1950, Hoa Thịnh Đốn, theo gương đế quốc Anh trước đây, luôn
vun quén đồng minh trong giới quí tộc A Rập như Shah Ba tư (Iran),
các Vua Hồi giáo hay Sultans (Abu Dhabi, Oman), các hoàng thân hay
Emirs (Bahrain, Kuwait, Qatar, Dubai), và các Quốc Vương (Saudi
Arabia, Jordan, Morocco).
Tóm lại, trong vùng Trung Đông
luôn bất ổn, từ Morocco đến Iran, Hoa Thịnh Đốn luôn ve vãn các
hoàng tộc, các quí tộc, với đồng minh quân sự, với vũ khí Hoa Kỳ,
với hổ trợ của CIA đối với an ninh địa phương, một nơi ẩn náu an
toàn cho tư bản, những đặc lợi cho giới thượng lưu, kể cả khả năng
tiếp cận các định chế giáo dục ở Mỹ hay các trường học thuộc Bộ
Quốc Phòng cho con em.
Năm 2005, bộ trưởng ngoại giao
Condoleezza Rice đã tóm tắt: "Trong vòng 60 năm qua, Hoa Kỳ đã
theo đuổi [mục tiêu] ổn định, phương hại cho dân chủ... ở Trung
Đông, và chúng ta đã không thành công trong cả hai [ổn định
và dân chủ]."[3]
LỀ LỐI LÀM VIỆC
Đã hẳn Hoa Kỳ không phải là
quốc gia bá chủ đầu tiên xây dựng quyền lực toàn cầu trên quan hệ
cá nhân mong manh với các lãnh đạo địa phương. Trong hai thế kỷ
18 và 19, Anh quốc đã là bá quyền trên các đại dương (cũng như về
sau, Hoa Kỳ đã là bá quyền trên không gian). Nhưng trên mặt đất,
cũng như các đế quốc trước đây, Anh Quốc đã phải cần đến các đồng
minh tại chỗ trong vai trò trung gian kiểm soát các xã hội phức
tạp và hay thay đổi. Nếu không, làm cách nào, vào năm 1900, một
quốc gia ốc đảo nhỏ bé với vỏn vẹn 40 triệu dân và một quân đội
chỉ có 99.000 quân nhân, nước Anh đã có thể ngự trị một đế quốc
toàn cầu hơn 400 triệu người - gần 1/4 nhân loại?
Từ 1850 đến 1950, Anh quốc đã
kiểm soát các thuộc địa chính thức qua mạng lưới đặc biệt
các đồng minh tại chỗ - từ cấp lãnh đạo đảo Fiji và quốc vương Mã
Lai (Malay sultans) đến các quốc vương Ấn Độ ( Indian Maharajas)
và các hoàng thân Phi châu (African emirs). Đồng thời, qua những
thành phần thượng lưu tay chân, Anh quốc đã ngự trị một đế quốc
không chính thức còn rộng lớn hơn, gồm các hoàng đế (từ Bắc
Kinh đến Istanbul), các quốc vương (từ Bangkok đến Cairo), và các
tổng thống (từ Buenos Aires đến Caracas). Vào năm đỉnh điểm 1880,
đế quốc không chính thức của Anh ở châu Mỹ La Tinh, Trung Đông,
và Trung Quốc, đã có một dân số còn lớn hơn các thuộc địa chính
thức ở Ấn Độ và Phi châu. Toàn bộ đế quốc Anh chiếm gần 50%
dân số thế giới, được xây dựng trên những quan hệ hợp tác mong manh
với giới thượng lưu trung thành tại chỗ.
Tuy nhiên, sau bốn thế kỷ bành
trướng không ngừng, năm đế quốc hải ngoại quan trọng của Âu châu
đột nhiên cáo chung khỏi địa cầu trong vòng một phần tư thế kỷ
giải thể chế độ thực dân - decolonization. Trong khoảng 1947
và 1974, các đế quốc Bỉ, Anh, Hà Lan, Pháp, và Bồ Đào Nha đã tàn
lụi nhanh chóng khỏi Á châu và Phi châu, nhường chỗ cho 100 quốc
gia mới, hơn một nửa là các quốc gia đầy đủ chủ quyền ngày nay.
Tìm cách giải thích sự thay đổi đột biến lớn lao nầy, hầu hết các
học giả đều đồng ý với sử gia chuyên về đế quốc Anh, Ronald Robinson,
người đã đưa ra luận cứ khi các đế quốc thực dân đã mất hết các
cộng tác viên địa phương, quyền lực của họ bắt đầu suy sụp.
Trong suốt chiều dài chiến tranh
lạnh, trùng hợp với kỷ nguyên giải thể chủ nghĩa thực dân, hai siêu
cường của thế giới đã sử dụng các cơ quan tình báo để chi phối giới
lãnh đạo các quốc gia mới độc lập.
KGB của Nga với những cơ quan
đại diện, như Stasi ở Đông Đức và Securitate ở Romania, đã áp đặt
khuôn rập chính trị trong 14 xứ vệ tinh của Xô Viết ở Đông Âu, và
thách thức Hoa Kỳ và đồng minh trong thế giới thứ ba.
Cùng lúc, CIA đã luôn giám sát
lòng trung thành các tổng thống, các nhà cầm quyền chuyên chế, các
lãnh đạo độc tài trong các châu lục, qua các cuộc đảo chánh, hối
lộ, thầm kín xâm nhập để kiểm soát, và khi cần, lật đổ những lãnh
đạo gây rắc rối.
Tuy nhiên, trong kỷ nguyên cực
thịnh của chủ nghĩa quốc gia, lòng trung thành của giới thượng lưu
địa phương đã trở thành một vấn đề thực sự phức tạp. Khá nhiều lãnh
đạo đã bị chi phối bởi nhiều lực trái ngược, nhất là ảnh hưởng của
chủ nghĩa quốc gia, vì vậy, cần được giám sát chặt chẽ. Đối diện
với những lãnh đạo thượng lưu thiếu trung thành, rắc rối, và khó
lòng điều khiển, CIA luôn phải phát động những chiến dịch kín đáo
để khép họ vào khuôn khổ, nguyên nhân của nhiều khủng hoảng
nghiêm trọng trong chiến tranh lạnh.
Trước sự lớn mạnh của hệ thống
kiểm soát và giám sát toàn cầu trong kỷ nguyên mới sau Đệ Nhị Thế
Chiến, Hoa Thịnh Đốn buộc lòng phải phối hợp không những với các
nhà lãnh đạo đại diện hay bù nhìn, mà ngay cả với các quốc gia đồng
minh với vị thế yếu kém nhưng vẫn tìm cách tối đa hóa quyền lợi
quốc gia cũng như của chính họ. Ngay cả trong thời cực thịnh của
quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ trong thập kỷ 1950, khi vị thế áp
đảo của Hoa Kỳ tương đối không mấy ai nghi ngờ, Hoa Thịnh Đốn đôi
khi cũng đã phải mặc cả gay go, chẳng hạn, với Raymond Magsaysay
ở Phi Luật Tân, Lý Thừa Vãn ở Nam Hàn, và Ngô đình Diệm ở Nam Việt
Nam.
Chẳng hạn, trong thập kỷ 1960,
ở Nam Hàn, Tướng Park Chung Hee, trong cương vị tổng thống, đã mặc
cả với Hoa Kỳ về việc gửi quân tham chiến ở Việt Nam để đổi lấy
hàng tỉ USD giúp khởi động phép lạ tăng trưởng kinh tế. Trong quá
trình trao đổi, Hoa Thịnh Đốn cũng đã nhận được sự yểm trợ của 50.000
binh sĩ Nam Hàn, như đội quân đánh giặc thuê, trong cuộc chiến Việt
Nam không mấy được thế giới ủng hộ.
THẾ GIỚI THỜI HẬU CHIẾN TRANH
LẠNH
Sau ngày bức tường Bá Linh sụp
đổ năm 1989, Mạc Tư Khoa đã nhanh chóng đánh mất các quốc
gia vệ tinh từ Estonia đến Azerbaijan - các chư hầu lần lượt xé
rào khi thuyền Xô Viết sắp đắm.
Đối với Hoa Thịnh Đốn, quốc
gia chiến thắng và sớm trở thành siêu cường duy nhất, tiến trình
suy sụp cũng bắt đầu, tuy với một tốc độ chậm hơn rất nhiều.
Suốt hai thập kỷ kế tiếp, toàn
cầu hóa đã khai sinh một hệ thống đa cực với nhiều cường quốc dần
dà xuất hiện ở Bắc Kinh, New Delhi, Moscow, Ankara, và Brasilia,
ngay trong khi hệ thống quyền lực các đại công ty phi quốc gia hay
đa quốc gia đã giúp giảm thiểu sự lệ thuộc của các nền kinh tế đang
phát triển vào một đại cường duy nhất, dù đó là một đế quốc. Với
khả năng kiểm soát giới thượng lưu quí tộc tiệm giảm, Hoa Thịnh
Đốn đang đối mặt một sự cạnh tranh ý thức hệ từ Hồi Giáo chính thống,
các chế độ được giám sát của Âu châu, tư bản nhà nước ở TQ,
và một đợt sóng đang lên của chủ nghĩa kinh tế quốc gia ở
châu Mỹ La Tinh.
Trong khi quyền lực và ảnh hưởng
ngày một sút giảm, nổ lực kiểm soát giới lãnh đạo thượng lưu của
Hoa Thịnh Đốn bắt đầu một chuổi thất bại, thường khá ngoạn mục -
kể cả mưu toan lật đổ lãnh tụ "đáng ghét" Hugo Chavez
của Venezuela trong cuộc đảo chánh bất thành năm 2002, tách đồng
minh Mikheil Saakahsvili của Georgia khỏi quỹ đạo Nga năm 2008,
và hất chân kẻ thù Mahmoud Ahmadinejad trong cuộc bầu cử Iran năm
2009. Ở những nơi trước đây chỉ cần một cuộc đảo chánh của CIA,
hay một nổ lực mua chuộc bằng tiền mặt kín đáo, cũng đủ để đánh
bại một địch thủ, chính quyền Bush đã phải cần đến một cuộc xâm
lăng ồ ạt để lật đổ một nhà độc tài rắc rối như Saddam Hussein.
Ngay cả trong trường hợp nầy, các kế hoạch thay đổi chế độ sau đó
ở Syria và Iran của Hoa Thịnh Đốn cũng bị chận đứng; thay vào đó,
cả hai xứ vẫn có thể tiếp tục trợ giúp phong trào nổi dậy và kháng
chiến, gây tai họa cho lực lượng quân sự Mỹ ngay bên trong Iraq.
Trong một trạng huống tương
tự, mặc dù đã rót hàng tỉ mỹ kim chi viện, Hoa Thịnh Đốn hình như
vẫn không thể kiểm soát tổng thống Afghanistan, Hamid Karzai,
do chính mình dựng lên, khi Karzai đã tóm tắt quan hệ ngang bướng
với Hoa Thịnh Đốn qua đặc phái viên Mỹ: "Nếu ngài tìm kiếm một
bù nhìn và gọi bù nhìn đó là một đối tác, [xin thưa] không. Nếu
ngài tìm kiếm một đối tác, [xin thưa] vâng."[4]
Vào cuối năm 2010, WikiLeaks
bắt đầu tiết lộ hàng nghìn công điện phơi bày những thông tin, nhìn
từ bên trong và không bị kiểm duyệt, về cơ chế kiểm soát ngày một
suy yếu đối với hệ thống quyền lực đại diện xây đắp trong 50 năm
qua. Sau khi đọc những tài liệu được phổ biến, phóng viên Do Thái,
Aluf Benn báo Haaretz, đã xác quyết "sự sụp đổ
của đế quốc Mỹ - sự tuột dốc của một siêu cường đã ngự trị thế giới
do bá quyền kinh tế, quân sự của chính mình."[5]Haaretz
còn nói tiếp, " trong thủ đô các nước trên thế giới, các
đại sứ Mỹ không còn được tiếp nhận như 'những cao ủy'...[thay vào
đó] như những quan chức mệt mỏi suốt ngày phải chán chường lắng
nghe đại diện các nước chủ nhà lặp đi lặp lại những sáo ngữ
soạn sẵn, không bao giờ có dịp nhắc họ ai là siêu cường và ai là
nhà nước khách hàng."[6]
Thực vậy, các tài liệu WikiLeaks
đã tiết lộ: Bộ Ngoại Giao đang vất vả quản lý một hệ thống toàn
cầu bất trị - gồm những nhà lãnh đạo trong giới thượng lưu ngày
một bướng bỉnh đủ mọi cách - với các mưu đồ nhằm thu thập thông
tin và tình báo cần thiết, các hành động thân hữu nhằm khuyến dụ
phục tùng, những đe dọa nhằm cưởng ép hợp tác, và hàng tỉ mỹ kim
phung phí nhằm gây ảnh hưởng. Chẳng hạn, vào đầu năm 2009, theo
chỉ thị của Bộ Ngoại giao, tất cả các tòa đại sứ trên thế giới đều
phải làm công tác "cảnh sát đế quốc": thu góp các dữ kiện
liên quan đến các lãnh đạo sở quan - địa chỉ điện thư, số diện thoại,
số fax, dấu tay, diện mạo, DNA, mắt mũi... Giống với thời
thực dân, Bộ Ngoại Giao đòi hỏi tòa đại sứ ở Bahrain thu thập những
thông tin bẩn thỉu và bất lợi trong xã hội Hồi giáo, liên quan các
hoàng thân và các quan chức địa phương: Có thông tin gì xấu về các
hoàng tử? Có hoàng tử nào ghiền rượu, hoàng tử nào ghiền nha phiến?
...
Với thái độ trịch thượng của
các đặc phái viên đế quốc, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ hình như tự
dành cho mình quyền thống trị, đã gạt bỏ vai trò người Thổ Nhĩ Kỳ
tân-Ottoman ở Trung Đông và vùng Balkan, lợi dụng các nhược điểm
của những lãnh đạo tay chân như Muammar Gaddafi với cô ý tá tóc
hoe nâu ưa nhục dục, ám ảnh bởi nguy cơ bị đảo chánh quân sự của
Tổng Thống Hồi quốc Asif Ali Zardari, hay số tiền biển thũ 52 triệu
USD của Phó tổng thống Afghanistan Ahmad Zia Massoud.
Tuy nhiên, khi ảnh hưởng suy
giảm, Hoa Thịnh Đốn đã phải đối diện với nhiều đồng minh địa phương
bất phục tùng hay không còn thích hợp, nhất là trong vùng Trung
Đông chiến lược. Chẳng hạn, giữa năm 2009, đại sứ Mỹ ở Tunisia đã
phúc trình: Tổng Thống Ben Ali và chế độ của ông đã mất hết hậu
thuẩn trong quần chúng, chỉ hoàn toàn dựa vào lực lượng cảnh sát
để kiểm soát, tệ nạn tham nhũng ngày một lan tràn, và nguy cơ bất
ổn dài hạn của chế độ ngày một gia tăng. Tuy vậy, viên đại sứ vẫn
khuyến cáo Hoa Thịnh Đốn tránh chỉ trích công khai, thay vào đó,
chỉ nên thành thật nêu những tệ nạn trong những phiên họp
cao cấp riêng tư - một chính sách không đem lại một cải cách nào
trước khi các cuộc biểu tình chống đối lật đổ chế độ 18 tháng sau
đó.
Cũng tương tự như thế, vào cuối
năm 2008, tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Cairo đã âu lo "tình hình dân chủ
và nhân quyền ở Ai Cập đang suy sụp."[7]
Tuy nhiên, như tòa đại sứ đã thú nhận, "chúng ta không muốn thấy
quyền lợi của Hoa Kỳ trong khu vực bị ảnh hưởng tai hại nếu quan
hệ Hoa Kỳ-Ai Cập bị suy yếu."[8]
Và khi Mubarak viếng thăm Hoa Thịnh Đốn vài tháng sau đó, Tòa Đại
Sứ đã thúc dục Tòa Bạch Ốc nên vãn hồi không khí vốn từ lâu nồng
ấm trong quan hệ đối tác Mỹ-Ai Cập. Và vì vậy, tháng 6-2009, tức
18 tháng trước ngày Tổng Thống Ai Cập bị lật đổ, Tổng Thống Obama
đã khen ngợi vị tổng thống độc tài nhưng cần thiết Mubarak
như "một đồng minh kiên quyết ...một lực lượng ổn định và hữu
ích trong khu vực."[9]
Trong khi cuộc khủng hoảng ở
Quảng Trường Tahrir diễn tiến, lãnh tụ đối lập đáng kính Mohamed
ElBaradei đã chua chát phàn nàn: Hoa Thịnh Đốn đã đẩy "toàn
thể thế giới A Rập vào tình trạng cực đoan với chính sách ủng hộ
đàn áp bất thích ứng."[10]
ElBaradei nói: sau 40 năm lệ thuộc Mỹ, "Trung Đông là một tập
thể các quốc gia thất bại, không đóng góp được gì về nhân văn và
khoa học, bởi lẽ người dân được dạy không suy nghĩ hay hành động
, và luôn được dành một hệ thống giáo dục thấp kém."[11]
Thiếu vắng một cuộc chiến toàn
cầu có khả năng quét sạch một đế quốc, sự tuột dốc của một đại cường
thường là một quá trình kéo dài, dứt khoảng, đau đớn. Với hai cuộc
chiến của Hoa Kỳ ở Iraq và Afghanistan dần dà khép lại một cách
không mấy khác thất bại, vốn liếng quốc gia nay đang quằn quại trong
khủng hoảng tài chánh, đơn vị tiền tệ mất hết giá trị tín dụng,
và các đồng minh lâu ngày lần hồi vun quén quan hệ kinh tế và ngay
cả quân sự với Trung Quốc - một quốc gia cạnh tranh. Ngoài ra, hiện
nay tưởng còn phải cộng thêm sự khả dĩ đánh mất các đại diện trung
thành trong khắp vùng Trung Đông.
Trong hơn 50 năm, Hoa Thịnh
Đốn đã được một hệ thống quyền lực toàn cầu, xây dựng trên giới
quí tộc tay chân trung tín, phụng sự tận tình. Hệ thống nầy đã có
lần giúp mở rộng ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên khắp thế giới với một
trình độ hữu hiệu đáng ngạc nhiên và tương đối ít tốn kém. Tuy nhiên,
hiện nay, các đồng minh trung thành lúc một giống một đế quốc các
xứ thất bại hay thiếu trung thành. Đã hẳn một sự thoái hóa hay chấm
dứt của những dây liên hệ trên một nửa thế kỷ luôn để lại đằng sau
một Hoa Thịnh Đốn tơi tả.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
18-5-2011
|